Đặc điểm hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới ở Tây Bắc Thái Bình Dương, biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam năm 2018

Tóm tắt: Bão và áp thấp nhiệt đới gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) thường hoạt động vào các

tháng từ tháng 5 đến tháng 12 trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và từ tháng 6 đến tháng 11 trên khu

vực Biển Đông. Để cung cấp thông tin về mùa bão năm 2018 cho người đọc, bài báo tổng kết lại tình hình

hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, Biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam

trong năm 2018. Đồng thời phân tích các đặc điểm về quỹ đạo, cường độ và hệ quả gió mạnh, mưa lớn do

các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 2018 gây ra.

pdf 9 trang phuongnguyen 3800
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới ở Tây Bắc Thái Bình Dương, biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới ở Tây Bắc Thái Bình Dương, biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam năm 2018

Đặc điểm hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới ở Tây Bắc Thái Bình Dương, biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam năm 2018
6 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG CỦA XOÁY THUẬN NHIỆT ĐỚI 
Ở TÂY BẮC THÁI BÌNH DƯƠNG, BIỂN ĐÔNG 
VÀ ĐỔ BỘ VÀO VIỆT NAM NĂM 2018
Vũ Văn Thăng, Trương Bá Kiên, Lã Thị Tuyết, Trần Thị Thảo, Lê Văn Tuân 
 Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu 
Ngày nhận bài: 5/4/2019; ngày chuyển phản biện: 6/4/2019; ngày chấp nhận đăng: 5/5/2019
Tóm tắt: Bão và áp thấp nhiệt đới gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) thường hoạt động vào các 
tháng từ tháng 5 đến tháng 12 trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và từ tháng 6 đến tháng 11 trên khu 
vực Biển Đông. Để cung cấp thông tin về mùa bão năm 2018 cho người đọc, bài báo tổng kết lại tình hình 
hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, Biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam 
trong năm 2018. Đồng thời phân tích các đặc điểm về quỹ đạo, cường độ và hệ quả gió mạnh, mưa lớn do 
các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 2018 gây ra. 
Từ khóa: Xoáy thuận nhiệt đới, bão đổ bộ. 
Liên hệ tác giả: Vũ Văn Thăng
Email: vvthang26@gmail.com 
1. Mở đầu
Bão, áp thấp nhiệt đới là một trong những 
loại hình thiên tai gây thiệt hại nặng nề cho 
nước ta. Do đặc thù về địa lý, đặc điểm kinh 
tế - xã hội, những thiệt hại khi bão và áp thấp 
nhiệt đới đổ bộ hoặc ảnh hưởng tới nước ta rất 
nặng nề. Áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) là một xoáy 
thuận nhiệt đới (XTNĐ) có sức gió mạnh nhất 
từ cấp 6 đến cấp 7 và có thể có gió giật. Bão là 
một XTNĐ có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 trở 
lên và có thể có gió giật. Bão từ cấp 10 đến cấp 
11 được gọi là bão mạnh; từ cấp 12 đến cấp 15 
được gọi là bão rất mạnh, từ cấp 16 trở lên gọi 
là siêu bão [1]. 
Về khái niệm mùa bão, theo Nguyễn Đức 
Ngữ (1998), nếu quy định mùa bão bao gồm 
những tháng có số bão trung bình đạt từ 8% số 
bão trung bình năm trở lên, thì mùa bão ở Việt 
Nam là từ tháng 6 đến tháng 11 [4]. Cũng theo 
Nguyễn Đức Ngữ (2004), từ tháng 5 đến tháng 
12 có thể coi là mùa bão ở Biển Đông [5]. Theo 
Nhật Bản, mùa bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương 
được quy định từ tháng 1 đến tháng 12 [3, 6]. 
Trong bài báo có sử dụng số liệu của Nhật 
Bản, “mùa bão” sẽ được coi là “năm bão”, 
nghĩa là “mùa bão năm 2018” sẽ được hiểu là 
“năm bão 2018”. Số lượng bão hoạt động trong 
năm được tính là số lượng bão hình thành 
trong năm. 
Nội dung bài báo trình bày về đặc điểm hoạt 
động của XTNĐ ở Tây Bắc Thái Bình Dương 
(TBTBD), Biển Đông và đổ bộ vào Việt Nam năm 
2018 nhằm cung cấp thông tin và những phân 
tích, đánh giá về diễn biến gió mạnh, mưa lớn 
trong những cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 
2018, đồng thời có những so sánh về gió bão và 
mưa bão so với Quyết định phân vùng bão 2016 
của Bộ Tài nguyên và Môi trường. 
2. Số liệu và phương pháp 
Số liệu được sử dụng là số liệu bão năm 2018 
của Nhật Bản, số liệu quan trắc bão (mưa, tốc 
độ gió, khí áp thấp nhất tại tâm,) năm 2018 
của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc 
gia, Tổng cục Khí tượng Thủy văn.
Phương pháp được sử dụng chủ yếu là 
phương pháp thống kê kết hợp đồ họa, phân 
tích, đánh giá. Đơn vị đo vận tốc gió được 
sử dụng là kts (khi bão hoạt động ở khu vực 
TBTBD và Biển Đông) và m/s (khi bão đổ bộ 
Việt Nam và có số liệu quan trắc của Việt Nam), 
(1kts=0,514m/s). 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
7
3. Kết quả đánh giá
3.1. Bão hoạt động ở Tây Bắc Thái Bình Dương
Theo số liệu của Trung tâm Bão Tokyo, Nhật 
Bản [6, 7], năm 2018 có 29 cơn bão (XTNĐ 
đạt cấp bão) hoạt động trên khu vực TBTBD 
(Hình 1a), nhiều hơn so với trung bình thời kỳ 
1971-2000 (TBNN) (26,7 cơn). Mùa bão bắt đầu 
từ tháng 1 và kết thúc vào tháng 11, kết thúc 
sớm hơn so với TBNN(1) (Hình 1b). Bão hoạt 
động chủ yếu từ tháng 6 đến tháng 11 với trung 
bình 5,5 cơn/tháng. Mùa bão kết thúc với cơn 
bão USAGI có cường độ mạnh, đổ bộ vào Việt 
Nam cuối tháng 11. Trong tổng số 29 cơn, có 
5 cơn bão mạnh (chiếm 17%) và 13 cơn bão 
rất mạnh (chiếm 45%), đều ít hơn so với TBNN 
(5,8 cơn bão mạnh và 14,9 cơn bão rất mạnh). 
Bão hình thành chủ yếu ở khu vực từ 5-30oN 
và hoạt động chủ yếu trong vùng 10oN-40oN; 
110oE-150oE với hai dạng quỹ đạo chính là: 
Di chuyển theo hướng Tây đến Tây Bắc và di 
chuyển theo hướng Đông Bắc. Bão tập trung 
hầu hết vào 4 tháng (6, 7, 8, 9) với 76% số lượng, 
trong đó riêng tháng 8 chiếm 41% số lượng bão 
cả năm và gấp 2 lần TBNN (Hình 1b). Cực trị về 
cường độ bão (Vmax) năm 2018 nhìn chung lớn 
hơn so với cường độ TBNN. Cơn bão có cường 
độ mạnh nhất trong năm 2018 là cơn bão YUTU 
hoạt động vào tháng cuối tháng 10, đầu tháng 
11, cũng là cơn bão số 7 trên Biển Đông năm 
2018, có tốc độ gió cực đại là 115kts, lớn hơn so 
với tốc độ gió TBNN (TBNN là 100kts).
Hình 1a. Đường đi của các XTNĐ đạt cấp bão 
trên khu vực TBTBD năm 2018
Hình 1b. Biểu đồ phân bố bão theo tháng 
ở TBTBD thời kỳ 1971-2000 và năm 2018
(Nguồn: Trung tâm Bão Tokyo và Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
3.2. Bão và ATNĐ hoạt động trên khu vực Biển 
Đông
Năm 2018 có 14 cơn bão và ATNĐ hoạt 
động trên Biển Đông, nhiều hơn TBNN (TBNN 
là 12,5 cơn). Mùa bão năm 2018 bắt đầu ngay 
từ tháng 1 và kết thúc vào tháng 11, kết thúc 
sớm hơn so với TBNN. Trong số đó có 9 cơn bão 
và 5 ATNĐ, 57% số lượng hình thành ngay trên 
Biển Đông (gồm 3 cơn bão và 5 ATNĐ), 43% còn 
lại có nguồn gốc từ TBTBD (đều là các cơn bão) 
(Hình 2a). 
Hướng di chuyển của bão năm 2018 trên khu 
vực Biển Đông chủ yếu là hướng Tây, hoặc Bắc 
đến Đông Bắc, hoạt động chủ yếu ở khu vực Bắc 
Biển Đông và Nam Biển Đông (Hình 2a). 
Về phân bố theo thời gian, mùa bão năm 
2018 trên khu vực Biển Đông kéo dài từ tháng 
1 đến tháng 11, tuy nhiên lại gián đoạn trong 
các tháng từ 2-5, không có XTNĐ nào hoạt động 
trong các tháng này. Số lượng XTNĐ trên Biển 
Đông năm 2018 tập trung nhiều nhất trong 
các tháng 6 và 7 (chiếm 50% số lượng cả năm, 
mỗi tháng có từ 3-4 cơn). Số lượng XTNĐ trong 
các tháng này cũng nhiều hơn TBNN khoảng 
(1)Trên thực tế, vào chiều 31/12/2018 có một ATNĐ hình 
thành ở phía Đông Nam quần đảo Trường Sa, sau mạnh 
lên thành bão có tên quốc tế là Pabuk và là bão số 1 
năm 2019 trên khu vực Biển Đông. Vì vậy, XTNĐ này 
không được thống kê vào số lượng XTNĐ năm 2018.
8 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
2 lần, các tháng còn lại hoặc ít hơn hoặc xấp 
xỉ (Hình 2b). 
Cường độ bão năm 2018 trên khu vực Biển 
Đông nhìn chung không mạnh hơn so với TBNN 
nhưng lại có những cơn rất mạnh, thậm chí 
mạnh nhất khu vực TBTBD trong năm 2018. Hầu 
hết các cơn bão rất mạnh đều có nguồn gốc từ 
TBTBD, hình thành trên Biển Đông chủ yếu là 
ATNĐ và bão có cường độ yếu. Trong tổng số 
14 XTNĐ trên Biển Đông trong năm 2018, có 
10 cơn đạt cấp ATNĐ và cấp bão (chiếm 72%), 
2 cơn đạt cấp bão mạnh và 2 cơn đạt cấp bão 
rất mạnh. Hai cơn rất mạnh là bão số 6 và số 7, 
hoạt động vào tháng 9 và tháng 10, trong đó, 
cơn bão số 7 (bão YUTU) là cơn bão mạnh nhất 
trên khu vực Thái Bình Dương năm 2018, tốc 
độ gió cực đại (Vmax) của 2 cơn bão này tương 
ứng là 110kts và 115kts, đều lớn hơn so với giá 
trị TBNN trên khu vực TBTBD nói chung và Biển 
Đông nói riêng. 
3.3. Bão đổ bộ vào Việt Nam
Năm 2018 có 3 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam 
trong các tháng 7, 8, 9, ít hơn TBNN (TBNN là 
5,5 cơn) trong đó có 2 cơn bão rất mạnh. Có 2 
Hình 2a. Đường đi của các XTNĐ 
trên khu vực Biển Đông năm 2018
Hình 2b. Biểu đồ phân bố XTNĐ theo tháng ở 
Biển Đông thời kỳ 1971-2000 và năm 2018
(Nguồn: Trung tâm Bão Tokyo và Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
cơn đổ bộ vào Bắc Trung Bộ, 1 cơn đổ bộ vào 
Nam Bộ; 2 cơn có nguồn gốc từ Tây Bắc Thái 
Bình Dương, 1 cơn phát sinh trong khu vực Biển 
Đông. 
Bảng 1. Bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Việt Nam năm 2018
TT Tên bão và ATNĐ Thời gian 
tồn tại 
ở Biển Đông
Cường độ 
ở Biển Đông
Cường độ
 khi đổ bộ
Phạm vi hoạt động
Số 
QT
Tên QT Số 
VN
Từ 
ngày
Đến 
ngày
Pmin
(hPa)
Vmax
(kts)
Pmin
(hPa)
Vmax
(m/s)
Nơi phát sinh Khu vực 
đổ bộ
1 1809 SONTINH 3 16/7 19/7 990 45 990 18 18,7oN-125oE Nghệ An
2 1816 BEBINCA 4 8/8 17/8 985 50 986 26 18,1oN-111,9oE Thanh Hóa
3 1829 USAGI 9 22/11 25/11 985 55 1000 20 9,2oN-156,7oE Bà Rịa-Vũng Tàu
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
9
3.3.1. Đặc điểm về quỹ đạo 
Trong số 3 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam 
năm 2018 có 2 cơn có hướng di chuyển chủ 
đạo từ Tây đến Tây Nam, 1 cơn có hướng di 
chuyển phức tạp, thắt nút nhiều lần trước khi 
di chuyển ổn định (Hình 3). 
Bão số 3 (SONTINH): Sáng 16/7, một ATNĐ 
hình thành trên vùng biển phía Đông Bắc đảo 
Lu-dông (Philippin) và di chuyển nhanh theo 
hướng Tây. Sáng sớm 17/7, ATNĐ vượt qua 
đảo Lu-dông đi vào khu vực Bắc Biển Đông và 
mạnh lên thành bão, cơn bão số 3 có tên quốc 
tế là SONTINH. Bão tiếp tục di chuyển nhanh 
theo hướng Tây. Sáng 18/7, bão vượt qua đảo 
Hải Nam đi vào vùng biển Nam Vịnh Bắc Bộ. 
Nửa đêm 18/7, bão đổ bộ vào khu vực Nghệ 
An (tâm bão đi vào khu vực huyện Diễn Châu), 
sau đó suy yếu nhanh thành ATNĐ, tiếp tục 
di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc và suy yếu 
thành một vùng áp thấp trên khu vực Trung 
Lào vào chiều 19/7. 
Đây là một cơn bão có quỹ đạo di chuyển 
khá ổn định, tốc độ di chuyển nhanh, hướng di 
chuyển chủ đạo là hướng Tây từ lúc hình thành 
cho đến khi đổ bộ vào đất liền.
Bão số 4 (BEBINCA): Chiều 8/8, trên vùng 
biển phía Đông Nam quần đảo Hoàng Sa hình 
thành một vùng áp thấp trên dải hội tụ nhiệt 
đới. Sau khi hình thành, ATNĐ di chuyển chậm 
lên phía Bắc, đi vào vùng biển phía Tây Nam tỉnh 
Quảng Đông (Trung Quốc), thắt nút một vòng 
trên vùng biển này. Sáng 13/8, ATNĐ mạnh 
lên thành bão, cơn bão số 4, có tên quốc tế là 
BEBINCA. Sau khi mạnh lên, bão số 4 tiếp tục 
di chuyển chậm về phía Đông, lại thắt nút một 
vòng trên vùng biển phía Nam Ma Cao (Trung 
Quốc), đổi hướng di chuyển chậm về phía Tây 
từ sáng 14/8. Từ đây bão di chuyển ổn định 
theo hướng Tây Tây Nam và liên tục mạnh lên. 
Sáng sớm 16/8, bão số 4 vượt qua phía Nam 
bán đảo Lôi Châu và đi vào Vịnh Bắc Bộ. Trưa 
16/8, bão số 4 đi qua phía Nam đảo Bạch Long 
Vĩ, giữ hướng di chuyển ổn định giữa Tây và Tây 
Tây Nam. Sáng sớm 17/8, khi đi vào vùng biển 
từ Nam Định đến Nghệ An, bão số 4 suy yếu 
thành ATNĐ đi vào đất liền (vùng tâm bão đi 
qua khu vực huyện Tĩnh Gia - Thanh Hóa), tiếp 
tục suy yếu thành một vùng áp thấp vào sáng 
17/8 trên vùng núi Nghệ An. 
Bão số 4 là một cơn bão có quỹ đạo di 
chuyển rất phức tạp, hướng di chuyển thay 
đổi liên tục ở khu vực ven biển phía Tây Nam 
tỉnh Quảng Đông và phía Nam Ma Cao (Trung 
Quốc), thắt nút hai lần tạo ra quỹ đạo có hình 
dáng như một chiếc nơ trước khi giữ hướng 
di chuyển ổn định là hướng Tây Tây Nam đi về 
phía đất liền Việt Nam.
Bão số 9 (USAGI): Sáng 18/11, một ANTĐ 
hình thành trên vùng biển ngoài khơi miền Nam 
Philippin. Sau khi hình thành ATNĐ di chuyển 
theo hướng Tây Bắc sau đó là hướng Tây. 
Sáng sớm 22/11, ATNĐ vượt qua đảo Palaoan 
(Philippin) đi vào vùng biển phía Đông Nam 
Biển Đông và chiều cùng ngày mạnh lên thành 
bão, cơn bão số 9, có tên quốc tế là USAGI. Sau 
khi hình thành, bão số 9 đổi hướng di chuyển 
theo hướng Tây Tây Nam. Sáng sớm 24/11, sau 
khi đi vào vùng biển phía Đông Nam đảo Phú 
Quý (Bình Thuận), bão số 9 lại đổi hướng di 
chuyển theo hướng Tây Nam. Chiều 24/11, bão 
số 9 lại một lần nữa đổi hướng di chuyển theo 
hướng Tây rồi Tây Tây Bắc. Trưa 25/11, sau khi 
đi sát vào vùng bờ biển từ Bình Thuận đến Bến 
Tre, bão số 9 suy yếu thành ATNĐ đi vào khu 
vực Bà Rịa - Vũng Tàu, sau đó tiếp tục di chuyển 
theo hướng Tây Tây Bắc, đi sâu vào đất liền và 
suy yếu thành một vùng áp thấp trên khu vực 
các tỉnh miền Đông Nam Bộ. 
Bão số 9 cũng là một cơn bão có hướng di 
chuyển thay đổi liên tục, nhất là ở giai đoạn bão 
đi qua khu vực quần đảo Trường Sa cho đến khi 
vào gần bờ. Từ hướng di chuyển là hướng Tây 
khi bão bắt đầu vào khu vực Biển Đông, đến 
khu vực quần đảo Trường Sa bão đổi hướng 
Tây Tây Bắc, sau đó là Tây đến Tây Tây Nam. Khi 
đi vào khu vực ven biển Bình Thuận - Bà Rịa 
Vũng Tàu bão lại đổi hướng di chuyển thành 
hướng Tây Tây Bắc và đi vào đất liền. 
10 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
Hình 3. Quỹ đạo của những cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 2018
3.3.2. Đặc điểm về cường độ
Trong số 3 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 
2018 có 1 cơn đạt cấp bão, 2 cơn đạt cấp bão 
mạnh và hầu hết đều có xu hướng mạnh lên 
trước khi đổ bộ vào đất liền (Hình 4). Cường độ 
cực đại của 3 cơn bão đều ở cấp 9-10, giật cấp 
11-12. 
Bão số 3 (SONTINH): Hình thành từ một 
ATNĐ trên vùng biển phía Đông Bắc đảo 
Lu-dông (Philippin), mạnh lên thành bão khi đi 
vào khu vực Đông Bắc Biển Đông. Sau khi hình 
thành, sáng sớm ngày 17/7, sức gió mạnh nhất 
vùng gần tâm bão mạnh cấp 9, giật cấp 10. Một 
ngày sau, ngày 18/7, khi đi vào vùng biển phía 
Đông đảo Hải Nam bão đạt cường độ cực đại, 
cấp 9, giật cấp 11. Sau khi vượt qua phía Nam 
đảo Hải Nam, đi vào vùng biển phía Nam Vịnh 
Bắc Bộ cường độ của bão cũng giảm dần. Nửa 
đêm 18/7, bão đổ bộ vào Nghệ An với cường độ 
cấp 8, giật cấp 9, sau đó suy yếu thành ATNĐ. 
Bão số 3 đã gây gió mạnh cấp 8, giật cấp 9 
trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ, vùng ven biển từ 
Thái Bình đến Nghệ An có gió mạnh cấp 6-7, 
gió giật cấp 8-9. Trị số khí áp thấp nhất trong 
thời gian bão đổ bộ là 990,4mb tại trạm Quỳnh 
Lưu vào ngày 19/7/2018. Ở các trạm từ khu vực 
Quảng Ninh đến Nghệ An đo được tốc độ gió 
giật lớn nhất là 22-23m/s (cấp 9) tại các trạm: 
Đảo Cô Tô (Quảng Ninh), đảo Hòn Ngư (Nghệ 
An), Tĩnh Gia (Thanh Hóa; một số nơi có gió giật 
từ 18-20m/s (cấp 8) như: Đảo Bạch Long Vĩ (Hải 
Phòng), Văn Lý (Nam Định), Sầm Sơn (Thanh 
Hóa), Quỳ Hợp, Quỳnh Lưu (Nghệ An). 
Bão số 4 (BEBINCA): Là cơn bão hình thành 
ngay trên khu vực Biển Đông và liên tục có xu 
hướng mạnh lên cùng với hướng di chuyển 
phức tạp. Sáng sớm 16/8, khi vượt qua bán 
đảo Lôi Châu vào Vịnh Bắc Bộ, bão có cường 
độ cấp 9, giật cấp 11. Trưa 16/8, khi đi qua 
phía Nam đảo Bạch Long Vĩ, bão đạt cường 
độ cực đại, cấp 10, giật cấp 12. Chiều 16/8, 
sau khi vượt qua đảo Bạch Long Vĩ, bão bắt 
đầu suy giảm nhanh về cường độ. Sáng sớm 
17/8, khi đi vào vùng bờ biển từ Nam Định 
đến Nghệ An, bão số 4 suy yếu thành ATNĐ, 
đi vào đất liền Thanh Hóa và tiếp tục suy yếu 
thành vùng áp thấp. 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
11
Bão số 4 đã gây gió mạnh cấp 8, vùng gần 
tâm bão cấp 10, giật cấp 12 trên vùng biển Vịnh 
Bắc Bộ; gió mạnh cấp 6-7, giật cấp 8 trên vùng 
ven biển các tỉnh từ Thái Bình đến Thanh Hóa. 
Trị số khí áp thấp nhất trong thời gian bão đổ bộ 
quan trắc được là 986,4mb tại Tĩnh Gia (Thanh 
Hóa) vào ngày 17/8. Tại đảo Bạch Long Vĩ đã 
có gió giật 33m/s (cấp 12), tại một số trạm Cô 
Tô (Quảng Ninh), Văn Lý (Nam Định), Sầm Sơn 
(Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã có gió từ 
18-20m/s (cấp 8).
Bão số 9 (USAGI): Từ một ATNĐ được 
hình thành ở vùng biển ngoài khơi miền Nam 
Phillippin, mạnh lên thành bão số 9 (USAGI) 
vào ngày 22/11 khi đi vào Biển Đông. Sáng sớm 
24/11, sau khi đi vào vùng biển phía Đông Nam 
đảo Phú Quý (Bình Thuận), bão số 9 đạt cường 
độ cực đại, cấp 10, giật cấp 12. Chiều 24/11, 
bão có dấu hiệu suy giảm cường độ. Trưa 25/11, 
sau khi đi sát vào vùng bờ biển từ Bình Thuận 
đến Bến Tre, bão suy yếu thành ATNĐ và đi vào 
khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu vào chiều 25/11 với 
sức gió mạnh cấp 7-8, giật cấp 9. ATNĐ tiếp tục 
suy yếu khi đi vào đất liền Bà Rịa - Vũng Tàu, trở 
thành một vùng áp thấp trên khu vực các tỉnh 
miền Đông Nam Bộ. 
Bão số 9 được đánh giá là một cơn bão có 
diễn biến về cường độ tương đối phức tạp. 
Cường độ bão khi càng vào gần bờ càng mạnh, 
sau đó lại suy yếu rất nhanh khi di chuyển vào 
sát bờ biển. Bão đã gây gió mạnh cấp 10, giật 
cấp 12 trên vùng biển ngoài khơi từ Bình Thuận 
đến Cà Mau, gây gió mạnh cấp 7-8, giật cấp 9 
ở Phan Thiết và Vũng Tàu; khu vực ven biển từ 
Khánh Hòa đến Bến Tre có gió giật mạnh cấp 
6-7. Trị số khí áp thấp nhất trong quá trình bão 
đổ bộ là 999,6mb tại trạm Vũng Tàu ngày 25/11. 
Tốc độ gió đo tại trạm: 20m/s (cấp 8) ở đảo Phú 
Quý và trạm Phan Thiết (Bình Thuận), các trạm 
khác như Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa), 
Phan Rang (Ninh Thuận), Hàm Tân (Bình Thuận), 
Vũng Tàu có tốc độ gió 14-17m/s (cấp 7). 
So sánh cường độ gió mạnh của bão đổ bộ 
vào Việt Nam năm 2018 với “Kết quả phân vùng 
bão, xác định nguy cơ bão, phân vùng gió cho 
các vùng ở sâu trong đất liền khi bão mạnh, 
siêu bão đổ bộ” trong Quyết định số 2901/QĐ-
BTNMT, ngày 16/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài 
b) 
c) 
Hình 4. Diễn biến khí áp thấp nhất 
tại tâm bão các cơn bão đổ bộ Việt Nam 
năm 2018: 
a) Bão số 3; b) Bão số 4; c) Bão số 9
(Nguồn: agora.ex.nii.ac.jp/digital-typhoon)
a) 
12 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
nguyên và Môi trường (sau đây gọi là Kết quả 
phân vùng bão 2016) cho thấy, cấp gió bão khi 
bão đổ bộ ghi nhận được trong 2018 thấp hơn 
so với Kết quả phân vùng bão 2016, cụ thể: 
Vùng III (Quảng Ninh đến Thanh Hóa): Theo 
Kết quả phân vùng bão 2016, cấp gió mạnh nhất 
quan trắc là cấp 14, giật cấp 15-16. Năm 2018, 
có 1 cơn bão đổ bộ vào khu vực này (bão số 4) 
với cấp gió mạnh nhất quan trắc được là cấp 12 
(tại trạm đảo Bạch Long Vĩ - Hải Phòng). Trong 
đất liền các tỉnh từ Quảng Ninh đến Nghệ An 
phổ biến quan trắc được gió cấp 7-8. 
Vùng IV (Nghệ An đến Thừa Thiên Huế): Theo 
Kết quả phân vùng bão 2016, cấp gió mạnh nhất 
quan trắc là cấp 14, giật cấp 15-16. Năm 2018, 
có 1 cơn bão đổ bộ vào khu vực này (bão số 3) 
với cấp gió mạnh nhất quan trắc được là cấp 9 
tại trạm đảo Cô Tô (Quảng Ninh), trạm Tĩnh Gia 
(Thanh Hóa) và trạm đảo Hòn Ngư (Nghệ An). 
Trong đất liền các tỉnh từ Quảng Ninh đến Nghệ 
An phổ biến quan trắc được gió cấp 7-8. 
Vùng VIII (Bình Thuận đến Cà Mau - Kiên 
Giang): Theo kết quả phân vùng bão 2016, cấp 
gió mạnh nhất quan trắc là cấp 10, giật cấp 12-
13. Năm 2018 có một cơn bão đổ bộ vào khu 
vực này (bão số 9) với cấp gió mạnh nhất quan 
trắc thời điểm bão đổ bộ là cấp 8 tại trạm đảo 
Phú Quý (Bình Thuận) và trạm Phan Thiết (Bình 
Thuận). Những nơi khác trong đất liền từ Khánh 
Hòa đến Vũng Tàu quan trắc được gió cấp 7. 
3.3.3. Đặc điểm mưa trong bão
Bão số 3 (SONTINH): Bão số 3 đổ bộ vào 
Nghệ An đã gây mưa vừa, mưa to, mưa rất to 
cho các tỉnh ven biển, đồng bằng, trung du Bắc 
Bộ và khu vực Bắc Trung Bộ. Tổng lượng mưa từ 
13h ngày 18/7 đến 19h ngày 19/7 phổ biến từ 
50-100mm, riêng khu vực Hòa Bình và Bắc Trung 
Bộ là 100-200mm. Tổng lượng mưa bão trong cả 
đợt (từ 18-19/7) ở một số trạm có lượng mưa 
lớn điển hình được trình bày trong Bảng 2.
Quan sát trên Hình 3 và Bảng 2 có thể thấy 
trong bão số 3, hoàn lưu bão chủ yếu gây mưa cho 
các tỉnh nằm ở phía bắc vị trí đổ bộ của bão. Bão 
đổ bộ vào Nghệ An (huyện Diễn Châu) tuy nhiên 
phạm vi mưa lớn mở rộng từ khu vực Tây Bắc (Hòa 
Bình) đến Đông Bắc (Lạng Sơn, Hải Phòng, Quảng 
Ninh) và phạm vi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An cả 
trong ngày bão đổ bộ và ngày sau đó. Ở tỉnh Hà 
Tĩnh (phía Nam vị trí đổ bộ của bão) có mưa nhưng 
lượng mưa không lớn như các tỉnh phía Bắc và chỉ 
mưa trong ngày bão đổ bộ. 
Bảng 2. Lượng mưa trong bão số 3 từ ngày 18-19/7/2018
Trạm Lượng mưa (mm) Trạm Lượng mưa (mm)
Lạng Sơn 90 Mai Châu 208
Phù Liễn 108 Cửa Đạt 210
Tiên Yên 293 Đô Lương 216
Kim Bôi 223 Vinh 124
Cao Phong 208
Bão số 4 (BEBINCA): Bão số 4 đổ bộ vào Thanh 
Hóa ngày 17/8, tuy nhiên hoàn lưu bão số 4 đã 
gây mưa lớn cho các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Nam 
đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ từ ngày 15/8. Tuy 
nhiên mưa lớn tập trung chủ yếu trước và trong 
ngày bão đổ bộ (ngày 16, 17/8). Đặc biệt, trong 
đêm 16/8 (trước thời điểm đổ bộ của bão là sáng 
sớm 17/8), chỉ trong vòng 12 giờ, lượng mưa tại 
trạm Tây Hiếu 216mm, Quỳnh Lưu 202mm (Nghệ 
An). Ngày 17/8, mưa giảm mạnh, lượng mưa 
quan trắc cao nhất là 57mm tại Quỳnh Lưu. Tổng 
lượng mưa cả đợt ở một số trạm được trình bày 
trên Bảng 3 và Hình 3.
Như vậy, bão số 4 tuy đổ bộ vào Bắc Trung Bộ 
(Tĩnh Gia - Thanh Hóa) nhưng hoàn lưu bão đã 
gây mưa cho hầu hết các tỉnh thuộc Tây Bắc (Sơn 
La, Hòa Bình) đến các tỉnh thuộc Đông Bắc (Lạng 
Sơn), miền núi trung du Bắc Bộ (Vĩnh Phúc). 
Hoàn lưu bão đã gây mưa cho cả các tỉnh nằm 
ở phía Bắc và phía Nam vị trí đổ bộ của bão, tuy 
nhiên phạm vi phía Bắc mở rộng hơn phạm vi 
phía Nam (Hình 3). 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
13
Bão số 9 (USAGI): Bão số 9 đổ bộ vào Bà 
Rịa - Vũng Tàu vào chiều 25/11, tuy nhiên 
hoàn lưu bão đã gây mưa lớn cho nhiều tỉnh 
thuộc khu vực Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ 
từ ngày 24/11. Tổng lượng mưa cả đợt (từ 
ngày 24-26/11) ở miền Đông Nam Bộ phổ 
biến 100-200mm, các tỉnh Nam Trung Bộ phổ 
biến 200-300mm, riêng khu vực Thành phố 
Hồ Chí Minh 300-400mm.
Mưa bão tập trung chủ yếu trong ngày 24 
và 25/11, trước và trong ngày bão đổ bộ. Ngày 
26/11, chỉ còn một vài điểm có mưa lớn. Ngày 
bão đổ bộ, ngoài Trung Trung Bộ và Nam Trung 
Bộ, diện mưa lớn do hoàn lưu bão còn mở rộng 
Bảng 3. Lượng mưa trong bão số 4 từ ngày 15-17/8/2018
Trạm Lượng mưa (mm) Trạm Lượng mưa (mm)
Tam Đảo 288 Quỳ Hợp 280
Mẫu Sơn 532 Tây Hiếu 294
TP. Lạng Sơn 351 Quỳnh Lưu 309
sang các tỉnh thuộc Đông Nam Bộ, lượng mưa 
tích lũy 24 giờ phổ biển từ 50mm đến trên 
100mm, riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh mưa 
đặc biệt lớn: 366mm/24 giờ. Ngày 26/11, mưa 
giảm hẳn ở vùng bão đi qua (Đông Nam Bộ), tuy 
nhiên một vài nơi thuộc các tỉnh Quảng Ngãi, 
Bình Định, Phú Yên vẫn có mưa trên 50mm.
Tổng lượng mưa từ 13h ngày 24/11 đến 19h 
ngày 26/11 ở một số trạm điển hình được trình 
bày trong Bảng 4. Có thể thấy, cũng như đối với 
bão số 3 và số 4, phạm vi mưa lớn trong bão số 
9 cũng tập trung chủ yếu ở khu vực phía Bắc vị 
trí đổ bộ của bão, cả trước và trong thời điểm 
bão đổ bộ. 
Bảng 4. Lượng mưa trong bão số 9 từ ngày 24-26/11/2018
Trạm Lượng mưa (mm) Trạm Lượng mưa (mm)
Tuy Hòa 164 Vũng Tàu 193
Quy Nhơn 190 Nhà Bè 408
Phan Rang 177 Tân Sơn Hòa 401
Sở Sao 236 Tây Ninh 109
So sánh về lượng mưa quan trắc trong các 
cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 2018 với Kết 
quả phân vùng bão 2016, cho thấy:
- Lượng mưa trung bình một đợt bão năm 
2018 của 2 cơn bão số 3 và số 4 thấp hơn so 
với Kết quả phân vùng bão 2016 (kết quả 
phân vùng: Vùng III từ 150-200mm, vùng IV từ 
200-300mm). Riêng đối với cơn bão số 9, lượng 
mưa cả đợt gây ra do cơn bão này lớn hơn rất 
nhiều so với Kết quả phân vùng bão 2016 (kết 
quả phân vùng: Vùng VIII từ 50-100mm). Lượng 
mưa lớn nhất trong 24 giờ đo được trong các 
cơn bão số 3 và số 4 năm 2018 cũng nhỏ hơn 
so với Kết quả phân vùng bão 2016. Lượng mưa 
lớn nhất trong 24 giờ trong bão số 9 lớn hơn so 
với Kết quả phân vùng bão 2016. 
4. Kết luận
Năm 2018, trên khu vực Tây Bắc Thái Bình 
Dương có 29 XTNĐ đạt cấp bão hoạt động, 
nhiều hơn TBNN trong đó có 19 cơn bão mạnh 
và rất mạnh, ít hơn so với TBNN (TBNN là 
20,7 cơn). Tháng 8 là tháng có nhiều bão nhất, 
tương tự như TBNN. 
Năm 2018, trên khu vực Biển Đông có 
14 XTNĐ, nhiều hơn TBNN. Tháng 7 là tháng 
có nhiều XTNĐ nhất, gấp khoảng 2 lần TBNN. 
Cường độ cực đại của bão hoạt động ở Biển 
Đông năm 2018 mạnh hơn cường độ TBNN.
Năm 2018 có 3 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam, 
ít hơn TBNN (TBNN là 5,5 cơn) trong đó có 2 cơn 
đổ bộ vào Bắc Trung Bộ, 1 cơn đổ bộ vào Nam 
Bộ. Trong số đó có 2 cơn bão có cường độ mạnh, 
1 cơn được hình thành ngay trên khu vực Đông 
Bắc Biển Đông và 1 cơn di chuyển vào từ Tây 
Bắc Thái Bình Dương. Nhìn chung, quỹ đạo của 
các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam năm 2018 có 
hướng di chuyển phức tạp, thay đổi hướng di 
14 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 10 - Tháng 6/2019
chuyển liên tục và đều có xu hướng mạnh lên 
khi vào gần bờ. Phạm vi gây mưa lớn của các cơn 
bão đều rất rộng, chủ yếu tập trung ở phía Bắc vị 
trí đổ bộ của bão.
So với Kết quả phân vùng bão 2016, cấp gió 
mạnh nhất quan trắc trong các cơn bão đổ bộ 
năm 2018 ở cả 3 vùng III, IV, VIII đều nhỏ hơn, 
tuy nhiên tổng lượng mưa cả đợt và lượng mưa 
24 giờ ở vùng VIII (trong bão số 9) lại lớn hơn so 
với kết quả phân vùng bão 2016. 
 Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng Việt
1. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 46/2014/QĐ-TTg, ngày 15/8/2014 Quy định về dự báo, 
cảnh báo và truyền tin thiên tai.
2. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Quyết định số 2901/QĐ-BTNMT, ngày 16/12/2016 
về việc công bố kết quả cập nhật phân vùng bão, xác định nguy cơ bão, nước dâng do bão và phân 
vùng gió cho các vùng ở sâu trong đất liền khi bão mạnh, siêu bão đổ bộ. 
3. Đặc điểm Khí tượng Thủy văn năm 2018, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 
4. Nguyễn Đức Ngữ (1998), Bão và phòng chống bão, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr.42-43.
5. Nguyễn Đức Ngữ (2004), Khí hậu và tài nguyên khí hậu Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 
tr.117.
Tài liệu tiếng Anh
6. 
7. 
ACTIVITIES OF TROPICAL CYCLONES 
IN NORTH-WESTERN PACIFIC OCEAN, EAST SEA THAT MADE 
LANDFALL INTO VIET NAMESE COASTLINE IN 2018
Vu Van Thang, Truong Ba Kien, La Thi Tuyet, Tran Thi Thao, Le Van Tuan
Viet Nam Institute of Meteorology, Hydrology and Climate Change
Received: 5/4/2019; Accepted: 5/5/2019
Abstract: Typhoons and tropical depressions, commonly referred to tropical cyclones, are usually 
active from May to December in the Northwestern Pacific Ocean area and from June to November in the Viet 
Nam’s East Sea. With the purpose of providing information on the 2018 tropical cyclone season, this article 
summarizes all of the activities of tropical cyclones in the Northwestern Pacific Ocean, Viet Nam’s East Sea 
that made landfall Viet Nam’s coastline. Simultaneously, the tropical cyclones characteristics, intensity and its 
consequences of strong winds and downpours in 2018 are also evaluated. 
Keywords: Tropical cyclone, typhoon landfall.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_hoat_dong_cua_xoay_thuan_nhiet_doi_o_tay_bac_thai_b.pdf