Đặc điểm giải phẫu dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay

Đặt vấn đề: Sửa chữa và tái tạo các dây chằng vùng cổ tay luôn là một thách thức đối với các nhà phẫu

thuật viên trong đó có dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay. Điều này đòi hỏi cần phải hiểu rõ các đặc

tính giải phẫu của chúng.

Mục tiêu: Xác định các đặc điểm giải phẫu của dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: 30 cổ bàn tay từ 15 xác ướp formol. Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.

Kết quả: Chúng tôi đã thực hiện phẫu tích 30 cổ tay từ 15 xác ướp tại Bộ môn Giải Phẫu Đại học Y Dược

TP. HCM, với độ tuổi trung bình 65,7 tuổi, tỉ lệ nam:nữ là 3,8:1. Tất cả các mẫu dây chằng quay cổ tay mu tay

bám vào mặt lưng đầu dưới xương quay, xương nguyệt và xương tháp. 43,3% dây chằng quay cổ tay mu tay có

thêm thành phần bên trụ, chiều dài bên quay trung bình là 32,1 mm, chiều dài bên trụ trung bình là 20,0 mm,

chiều rộng bờ gần trung bình là 20,0 mm, bề dày trung bình là 1,1 mm, khoảng cách từ tâm diện bám xương

tháp đến lồi củ Lister trung bình là 30,7 mm. Loại I dây chằng quay cổ tay mu tay theo phân loại Viegas chiếm tỉ

lệ cao nhất, loại IV chiếm tỉ lệ thấp nhất. Dây chằng gian cổ tay mu tay có tỉ lệ diện bám với các xương khá thay

đổi trong khi đó diện bám với xương thuyền, xương nguyệt và xương tháp là hằng định. Chiều dài trung bình

dây chằng gian cổ tay mu tay là 48,8 mm, chiều rộng trung bình là 6,9 mm, bề dày trung bình là 1,0 mm. Phân

loại dây chằng theo Viegas: loại A chiếm 36,7%, loại B chiếm 50% và loại C 13,3%.

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm giải phẫu dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm giải phẫu dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay

Đặc điểm giải phẫu dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 53
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU DÂY CHẰNG QUAY CỔ TAY 
VÀ GIAN CỔ TAY MU TAY 
Nguyễn Viết Trường1, Đỗ Phước Hùng2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sửa chữa và tái tạo các dây chằng vùng cổ tay luôn là một thách thức đối với các nhà phẫu 
thuật viên trong đó có dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay. Điều này đòi hỏi cần phải hiểu rõ các đặc 
tính giải phẫu của chúng. 
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm giải phẫu của dây chằng quay cổ tay và gian cổ tay mu tay. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: 30 cổ bàn tay từ 15 xác ướp formol. Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 
Kết quả: Chúng tôi đã thực hiện phẫu tích 30 cổ tay từ 15 xác ướp tại Bộ môn Giải Phẫu Đại học Y Dược 
TP. HCM, với độ tuổi trung bình 65,7 tuổi, tỉ lệ nam:nữ là 3,8:1. Tất cả các mẫu dây chằng quay cổ tay mu tay 
bám vào mặt lưng đầu dưới xương quay, xương nguyệt và xương tháp. 43,3% dây chằng quay cổ tay mu tay có 
thêm thành phần bên trụ, chiều dài bên quay trung bình là 32,1 mm, chiều dài bên trụ trung bình là 20,0 mm, 
chiều rộng bờ gần trung bình là 20,0 mm, bề dày trung bình là 1,1 mm, khoảng cách từ tâm diện bám xương 
tháp đến lồi củ Lister trung bình là 30,7 mm. Loại I dây chằng quay cổ tay mu tay theo phân loại Viegas chiếm tỉ 
lệ cao nhất, loại IV chiếm tỉ lệ thấp nhất. Dây chằng gian cổ tay mu tay có tỉ lệ diện bám với các xương khá thay 
đổi trong khi đó diện bám với xương thuyền, xương nguyệt và xương tháp là hằng định. Chiều dài trung bình 
dây chằng gian cổ tay mu tay là 48,8 mm, chiều rộng trung bình là 6,9 mm, bề dày trung bình là 1,0 mm. Phân 
loại dây chằng theo Viegas: loại A chiếm 36,7%, loại B chiếm 50% và loại C 13,3%. 
Kết luận: Dây chằng quay cổ tay mu tay có diện bám với các xương khá hằng định, thành phần bên trụ của 
dây chằng này không phải lúc nào cũng xuất hiện. Trong khi đó diện bám của dây chằng gian cổ tay mu tay khá 
thay đổi. Các loại của cả 2 dây chằng hiện diện với tỉ lệ khác nhau. Các chỉ số kích thước cũng như vị trí của 2 
dây chằng là cơ sở tham khảo để các nhà lâm sàng sửa chữa cũng như tái tạo chúng. 
Từ khóa: dây chằng quay cổ tay mu tay, dây chằng gian cổ tay mu tay 
ABSTRACT 
THE ANATOMICAL CHARACTERISTICS OF DORSAL RADIOCARPAL 
AND DORSAL INTERCARPAL LIGAMENTS 
Nguyen Viet Truong, Do Phuoc Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 53 - 58 
Background: Repairing and rescontructing ligaments of the wrist are always challenges for surgeons, 
including dorsal radiocarpal and dorsal intercarpal ligaments. This requires understanding of their anatomical 
characteristics. 
Objectives: Identify anatomical characteristics of dorsal radiocarpal and dorsal intercarpal ligaments. 
Methods: 30 wrists from 15 formalin embalmed cadavers. This is a serial case study. 
Results: In all specimens, dorsal radiocarpal ligament originated from dorsal of distal radius and attached to 
lunate and triquetrum. 43.3% of wrists had ulnar parts of dorsal radiocarpal ligament, average length along the 
1Bệnh viện Quốc tế Chấn thương Chỉnh hình Sài Gòn 
2Bộ môn Chấn thương Chỉnh hình và Phục hồi Chức năng, Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Viết Trường ĐT: 0353352157 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 54
radial rim was 32.1 mm, average length along the ulnar rim was 20.0 mm, average width at proximal aspect was 
20.0 mm, average thickness was 1,1mm and average distance from Lister’s tubercle to attached area at triquetrum 
was 30.7 mm. Classification of dorsal radialcarpal ligament according to Viegas: type I accounted for the highest 
ratio, type IV accounted for the lowest ratio. The dorsal intercarpal ligament had ratio of attached areas at wrist 
bones differently, whereas attached areas at scaphoid, lunate and triquetrum were constant. The dorsal intercarpal 
ligament had average length was 48.8 mm, mean of width was 6.9 mm and mean of thickness was 1.0 mm. 
Classification of dorsal intercarpal ligament according to Viegas: type A accounted for 36.7%, type B accounted 
for 50%, type C accounted for 13.3%. 
Conclusions: The dorsal radiocarpal ligament had attached areas at bones constantly, the ulnar part of 
ligament did not always appear. Whereas, attached area of the dorsal intercarpal ligament was various. The types 
of these ligaments appeared with different ratios. The dimensions as well as position of ligaments was references 
for clinical doctors to repair and reconstruct them. 
Keywords: dorsal radiocarpal ligament, dorsal intercarpal ligaments 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mất vững khớp thuyền-nguyệt và tháp-
nguyệt là các dạng mất vững thường gặp nhất 
của cổ tay(1). Năm 1987 Ruby LK đã phát hiện ra 
rằng trật thuyền-nguyệt do chấn thương không 
chỉ liên quan đến dây chằng gian xương thuyền-
nguyệt mà còn liên quan đến các dây chằng cổ 
tay mu tay(2). Trong một nghiên cứu của 
Mitsuyasu H năm 2004 ông kết luận rằng sự đứt 
hoàn toàn dây chằng gian xương thuyền nguyệt 
không làm mất vững tĩnh của xương nguyệt và 
dây chằng gian cổ tay mu tay (GCTMT) đóng 
vai trò quan trọng trong việc giữ vững xương 
thuyền và xương nguyệt ngăn các biến dạng do 
mất vững đoạn xen giữa ở mặt lưng (DISI: 
dorsal intercalated segmental instability)(3). 
Mất vững khớp cổ tay giữa mặt lòng (PMCI: 
Palmar midcarpal instability) là một trong 
những nguyên nhân gây đau cổ tay bên trụ mãn 
tính. Cơ chế bệnh học có thể là do lỏng đồng thời 
cả hai dây chằng quay cổ tay mu tay (QCTMT) 
và dây chằng cả tháp móc(4,5,6). Lichtman DM 
năm 1993 đã thực hiện việc tái tạo dây chằng 
trên những bệnh nhân mất vững khớp cổ tay 
giữa mặt lòng tuy nhiên kết quả còn khá hạn 
chế(7). Gần đây nhằm hạn chế việc hàn khớp ở 
những bệnh nhân thất bại với điều trị bảo tồn, 
Ho PC đã thực hiện nghiên cứu về tái tạo dây 
chằng QCTMT bằng bán phần gân gấp cổ tay 
trụ. Kết quả phẫu thuật khá tốt tuy nhiên số mẫu 
vẫn còn tương đối ít(8). 
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về giải 
phẫu các dây chằng QCTMT và GCTMT 
nhưng kết quả chưa thống nhất đặc biệt là về 
phân loại và diện bám của các dây chằng 
này(9,10,11,12,13). Từ đó chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này với câu hỏi: đặc điểm giải phẫu của 
các dây chằng QCTMT và GCTMT ở người 
Việt Nam có giống như các tài liệu trên thế 
giới mô tả không? 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn lựa 
1/3 dưới cẳng bàn tay hai bên từ xác ướp 
formol của người Việt Nam trưởng thành tại bộ 
môn Giải phẫu, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các cẳng bàn tay có dị tật bẩm sinh hoặc tổn 
thương vùng cần phẫu tích về đại thể hoặc quan 
sát được khi phẫu tích. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 758/HĐĐĐ ngày 
12/12/2019. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 55
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Trong số 30 cổ tay xác ướp đã được phẫu 
tích có 15 cổ tay phải (50%) và 15 cổ tay trái 
(50%). Trong đó nam là 22 cổ tay (73,3%), nữ có 8 
cổ tay (16,7%). Tỉ lệ nam: nữ là 3,8:1. Tuổi trung 
bình của cả mẫu nghiên cứu là 65,7 tuổi. 
Các đặc điểm giải phẫu của dây chằng QCTMT 
Hình 1: Thành phần bên quay và bên trụ của dây 
chằng QCTMT “Nguồn: tư liệu nghiên cứu” 
Dây chằng QCTMT gồm thành phần bên trụ 
và thành phần bên quay (Hình 1). Các chỉ số kích 
thước của dây chằng này được mô tả trong Bảng 1. 
Thành phần bên trụ của dây chằng 
Có 13/30 (43,3%) mẫu có thành phần bên trụ 
dây chằng QCTMT. Tất cả các thành phần bên 
trụ đều bắt đầu bám từ bờ gian cốt của đầu dưới 
xương quay, đi dọc theo bờ gian cốt và hòa lẫn 
vào thành phần bên quay của dây chằng, cuối 
cùng bám tận tại mặt lưng của xương tháp. 
Thành phần bên trụ nằm cùng lớp với thành 
phần bên quay của dây chằng QCTMT. Về 
tương quan, thành phần bên trụ này nằm sâu 
dưới vị trí của khoang gân duỗi 4,5. Thành phần 
bên trụ của dây chằng QCTMT chỉ xuất hiện ở 
nam, chiếm 59,1% trong số cổ tay của nam và 
chiếm 43,3% trong tổng số mẫu. 
Thành phần bên quay của dây chằng 
Tất cả bám ở bờ xa phía trụ mặt lưng đầu 
dưới xương quay, mặt lưng xương nguyệt và 
xương tháp. Bắt đầu từ bờ xa mặt lưng đầu dưới 
xương quay đi về phía trụ rồi bám vào mặt lưng 
xương nguyệt và xương tháp. Dính với vách 
ngăn giữa khoang gân duỗi 3,4 tại lồi củ Lister 
và dính với vách ngăn giữa khoang gân duỗi 4,5 
lồi củ mặt lưng xương tháp. 
Bảng 1: Các chỉ số kích thước của dây chằng QCTMT (N=30) 
Trung bình (mm) Độ lệch chuẩn (mm) Nhỏ nhất (mm) Lớn nhất (mm) 
Chiều dài bờ quay 32,1 4,4 24,2 40,8 
Chiều dài bên trụ 20,0 2,8 15,4 28,2 
Chiều rộng bờ gần 20,0 6,1 13,4 31,5 
Bề dày 1,1 0,2 0,6 1,6 
Khoảng cách tâm diện bám xương tháp đến 
lồi củ Lister 
30,7 2,6 25,7 37,9 
Phân loại dây chằng QCTMT 
Loại I chiếm tỉ lệ cao nhất (56,7%), các sợi của 
dây chằng bám từ bên trụ của mặt lưng đầu 
dưới xương quay, giới hạn ở bên quay lồi củ 
Lister, dưới khoang gân duỗi thứ 2, bám đến 
mặt lưng xương tháp. 
Loại II (6,7%) ngoài thành phần bên phía trụ 
giống loại I thì còn có một thành phần bên quay 
tách riêng bám từ mặt lưng đầu dưới xương 
quay ngang mức gân duỗi cổ tay quay dài và 
bám đến mặt lưng xương tháp. 
Loại III (33,3) diện bám của dây chằng tại 
xương quay rộng hơn loại I, trải dài từ góc bên 
trụ vượt qua lồi củ Lister và tận cùng ở vị trí gân 
duỗi cổ tay quay dài. 
Loại IV chiếm tỉ lệ thấp nhất (3,3%), trong 
loại này giới hạn của dây chằng giống loại I tuy 
nhiên có 2 bó sợi dây chằng riêng biệt xuất phát 
từ bờ trụ mặt lưng đầu dưới xương quay. 
Có 11/15 cặp cổ tay (73,3%) có cùng loại với nhau. 
Các đặc điểm giải phẫu của dây chằng GCTMT 
Về hướng đi, dây chằng này bắt đầu từ mặt 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 56
lưng xương tháp đi ngang qua các xương cổ tay, 
cho diện bám với một số xương và tận cùng ở 
cực xa mặt lưng xương thuyền. Cùng với dây 
chằng QCTMT nó tạo thành hình chữ “V” nằm 
ngang với đỉnh ở xương tháp. 
Tất cả các mẫu nghiên cứu, dây chằng 
GCTMT đều cho diện bám với xương thuyền, 
xương nguyệt và xương tháp. Các diện bám với 
các xương thang, xương thê, xương cả, xương 
móc không hằng định nhưng có tỉ lệ khá cao. 
Các chỉ số kích thước của dây chằng này được 
mô tả trong Bảng 2. 
Bảng 2: Các chỉ số kích thước dây chằng GCTMT 
(N=30) 
Trung 
bình (mm) 
Độ lệch 
chuẩn 
(mm) 
Nhỏ 
nhất 
(mm) 
Lớn 
nhất 
(mm) 
Chiều dài 48,8 5,0 36,9 56,2 
Chiều rộng 6,9 1,4 5,0 10,9 
Bề dày 1,0 0,2 0,7 1,3 
Phân loại dây chằng gian cổ tay mu tay 
Hình 2: Dây chằng QCTMT và dây chằng GCTMT 
loại B “Nguồn: tư liệu nghiên cứu” 
Loại A (36,7%) các sợi của dây chằng chỉ 
phân bố thành 1 dải sợi dày. Loại B (Hình 2) 
chiếm tỉ lệ cao nhất (50,0%), trong loại này các 
sợi của dây chằng phân bố thành 2 dải sợi dày. 
Loại C chiếm tỉ lệ thấp nhất (13,3%), các sợi của 
dây chằng phân bố thành ít nhất 3 dải sợi dày. 
Có 10/15 cặp cổ tay (66,7%) có cùng loại với nhau. 
BÀN LUẬN 
Dây chằng QCTMT 
Thành phần bên trụ 
So sánh với 2 nghiên cứu gần đây về thành 
phần bên trụ của dây chằng thì nghiên cứu của 
chúng tôi có một vài sự khác biệt. Nghiên cứu 
của Shaaban H năm 2006(14) cho thấy về diện 
bám ở xương quay và hướng đi thì tương tự với 
nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên nghiên cứu 
này lại chỉ ra rằng thành phần bên trụ của dây 
chằng QCTMT nằm nông hơn, trên đường đi 
hòa lẫn với dây chằng quay trụ dưới mặt lưng 
và bám tận ở xương nguyệt và xương tháp. Và 
cũng trong nghiên cứu này, tỉ lệ xuất hiện của 
thành phần bên trụ lên đến 100%. 
Nghiên cứu của Jariwala A năm 2012(15) lại 
cho thấy diện bám tận của thành phần bên trụ 
này khá thay đổi, 12/18 mẫu thành phần này 
bám vào xương tháp và 6/18 mẫu bám vào thành 
phần bên quay của dây chằng. Trong khi đó, 
trong nghiên cứu của chúng tôi ở những mẫu có 
xuất hiện thành phần bên trụ thì tất cả các mẫu 
thành phần này đều hòa lẫn vào thành phần bên 
quay và sau đó bám tận ở mặt lưng của xương 
tháp. Nghiên cứu này cũng cho thấy 2 thành 
phần của dây chằng nằm cùng lớp với nhau. Tỉ 
lệ xuất hiện thành phần bên trụ trong nghiên 
cứu cũng khá cao 90%. 
Những sự khác biệt trên có thể do sự khác 
biệt về chủng tộc, số lượng mẫu chúng tôi và của 
2 nghiên cứu trên còn hạn chế và chưa đại diện 
cho toàn bộ dân số do đó để đánh giá chính xác 
tỉ lệ chung cho dân số có thể cần nghiên cứu lớn 
hơn đại diện dân số. Ngoài ra nghiên cứu của 
chúng tôi và của Jarriwala thực hiện trên xác 
ướp còn của Shaaban thực hiện trên xác tươi 
đông lạnh, điều này có thể dẫn tới một vài sự 
khác biệt khi quan sát. 
Thành phần bên quay 
Về đặc điểm đại thể, nghiên cứu của chúng 
tôi và hai nghiên cứu của Mizuseki T và Viegas 
SF đều cho thấy sự tương đồng. Thành phần bên 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Ngoại Khoa 57
quay của dây chằng QCTMT luôn bắt đầu từ 
phía bên trụ của mặt lưng đầu dưới xương quay, 
hướng về phía trụ và cho diện bám với mặt lưng 
xương tháp và xương nguyệt. Thành phần này 
của dây chằng có liên quan với các vách ngăn 
của khoang gân duỗi và bao khớp vùng cổ tay. 
Chiều dài bờ quay và chiều rộng bờ gần 
trung bình của dây chằng trong nghiên cứu của 
Viegas SF nhỏ hơn so với chúng tôi. Điều này có 
thể là do khác biệt về tỉ lệ của các loại dây chằng, 
loại I và IV có diện bám ở đầu dưới xương quay 
hẹp hơn loại II và loại III dẫn đến chiều dài bên 
quay và chiều rộng bờ gần sẽ lớn hơn. Ngoài ra 
sự khác biệt này còn có thể do khác biệt về 
chủng tộc và tỉ lệ nam nữ trong mẫu nghiên cứu. 
Bề dày của dây chằng QCTMT trong nghiên 
cứu của Viegas và cộng sự tương đương với 
nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên trong 
nghiên cứu của Mizuseki T thì kích thước này lại 
lớn hơn đáng kể. Chỉ số chiều dài bên trụ và 
khoảng cách từ tâm diện bám xương tháp đến 
lồi củ Lister không được đề cập trong các nghiên 
cứu khác. 
Về sự tương quan giữa các kích thước của 
dây chằng QCTMT, các nghiên cứu trước đây 
không đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên trong 
nghiên cứu của chúng tôi đã xác nhận có một vài 
sự tương quan giữa chúng. Các chỉ số chiều rộng 
bờ gần và khoảng cách từ tâm diện bám xương 
tháp đến lồi củ Lister ta có thể xác định một cách 
tương đối ngoài da, từ đó dựa trên các phương 
trình hồi quy ta có thể xác định các chỉ số kích 
thước khác của dây chằng. Điều này sẽ tạo thuận 
lợi cho việc lên kế hoạch cuộc mổ và chuẩn bị 
mảnh ghép phù hợp. 
Dây chằng QCTMT trong nghiên cứu của 
chúng tôi được phân làm 4 loại giống với mô tả 
của Viegas và cộng sự. Có sự tương đồng về tỉ lệ 
loại I trong khi đó tỉ lệ loại II, III, IV trong nghiên 
cứu của chúng tôi lại khác biệt đáng kể. 
Dây chằng GCTMT 
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi 100% 
dây chằng GCTMT có diện bám tại xương 
thuyền, xương nguyệt và xương tháp. Kết quả 
này tương tự với quan sát của Viegas, khi nghiên 
cứu của ông chỉ ra rằng dây chằng này có diện 
bám tại các xương này là gần như hằng định. 
Tuy nhiên về tỉ lệ diện bám tại các xương còn lại 
bao gồm xương thang, xương thê, xương cả, 
xương móc lại có sự khác biệt. 
Chiều dài trung bình của dây chằng trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với kích 
thước trong nghiên cứu của Viegas SF. Sự khác 
biệt này có thể là do sự chênh lệch về tỉ lệ 
nam/nữ trong nghiên cứu của chúng tôi và cỡ 
mẫu còn hạn chế. Chiều rộng và bề dày trung 
bình giữa nghiên cứu chúng tôi và Viegas lại 
khác biệt không đáng kể. 
Về sự tương quan giữa các kích thước của 
dây chằng GCTMT, các nghiên cứu trước đây 
cũng không đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên 
trong nghiên cứu của chúng tôi đã xác nhận có 
sự tương quan giữa chiều dài và chiều rộng của 
dây chằng. 
Dây chằng GCTMT trong nghiên cứu của 
chúng tôi được phân làm 3 loại tương tự với mô 
tả của Viegas SF. 
KẾT LUẬN 
Dây chằng quay cổ tay mu tay có diện bám 
với các xương khá hằng định, thành phần bên 
trụ của dây chằng này không phải lúc nào cũng 
xuất hiện. Trong khi đó diện bám của dây chằng 
gian cổ tay mu tay khá thay đổi. Các loại của cả 2 
dây chằng hiện diện với tỉ lệ khác nhau. Các chỉ 
số kích thước cũng như vị trí của 2 dây chằng là 
cơ sở tham khảo để các nhà lâm sàng sửa chữa 
cũng như tái tạo chúng. 
Tuy nhiên cần phải có thêm nghiên cứu với 
cỡ mẫu lớn hơn với tỉ lệ nam/nữ đồng đều 
hơn. Trên nền tảng những hiểu biết về giải 
phẫu cần có thêm các nghiên cứu về cơ sinh 
học, mô học của dây chằng QCTMT và 
GCTMT đặc biệt là thành phần bên trụ của 
dây chằng QCTMT cũng như các nghiên cứu 
lâm sàng ứng dụng trong việc điều trị các 
bệnh nhân mất vững khớp cổ tay. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Manuel J, Moran SL (2007). The Diagnosis and Treatment of 
Scapholunate Instability. Orthopedic Clinics, 38(2):261-277. 
2. Ruby LK, An KN, Linscheid RL, et al (1987). The effect of 
scapholunate ligament section on scapholunate motion. J Hand 
Surg Am, 12(5Pt1):767-71. 
3. Mitsuyasu H, Patterson RM, Shah MA, et al (2004). The role of 
the dorsal intercarpal ligament in dynamic and static 
scapholunate instability. J Hand Surg Am, 29(2):279-88. 
4. Lichtman D M, Wroten ES (2006). Understanding midcarpal 
instability. Journal of Hand Surgery, 31(3):491-498. 
5. Trumble TE, Bour CJ, Smith RJ, et al (1990). Kinematics of the 
ulnar carpus related to the volar intercalated segment instability 
pattern. Journal of Hand Surgery, 15(3):384-392. 
6. Viegas SF, Patterson RM, Peterson PD, et al (1990). Ulnar-sided 
perilunate instability: an anatomic and biomechanic study. J 
Hand Surg Am, 15(2):268-78. 
7. Lichtman DM, Bruckner JD, Culp RW, et al. (1993). Palmar 
midcarpal instability: results of surgical reconstruction. Journal of 
Hand Surgery, 18(2):307-315. 
8. Ho PC, Tse WL, Wong CW (2017). Palmer Midcarpal Instability: 
An algorithm of diagnosis and surgical management, Journal of 
Wrist Surgery, 6(4):262. 
9. Berger RA, Garcia-Elias M (1991). General Anatomy of the 
Wrist. In An KN, Berger RA, Cooney WP (eds), Biomechanics 
of the Wrist Joint, pp. 1-22. Springer, New York. 
10. Bogumill GP (1988). Anatomy of the wrist. In Lichman DM (ed). 
The Wrist and Its Disorders. pp. 14-26. WB Saunders, 
Philadelphia, PA. 
11. Fahrer M (1981). Introduction to the anatomy of the wrist. In 
Tubiana R (ed.). The hand. pp. 130-135. WB Saunders, 
Philadelphia.PA. 
12. Mizuseki T, Ikuta Y (1989). The dorsal carpal ligaments: their 
anatomy and function, J Hand Surg Br, 14(1):91-8. 
13. Taleisnik J (1976). The ligaments of the wrist. J Hand Surg Am, 
1(2):110-8. 
14. Shaaban H, Lees VC (2006). The two parts of the dorsal 
radiocarpal (radiolunotriquetral) ligament. J Hand Surg Br, 
31(2):213-5. 
15. Jariwala A, Khurjekar K, Whiton S, et al (2012). Exploring the 
anatomy of dorsal radiocarpal ligament of the wrist and its 
ulnar part: a cadaveric study. Hand Surg, 17(3):307-10. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_giai_phau_day_chang_quay_co_tay_va_gian_co_tay_mu_t.pdf