Đặc điểm doanh nghiệp và việc sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
TÓM TẮT:
Mục đích của bài nghiên cứu là nhằm kiểm tra mối quan hệ giữa đặc điểm của doanh nghiệp với tình hình
sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn boostrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam thông qua
một mẫu bao gồm 476 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp trẻ, quy mô vốn nhỏ thường lựa
chọn các kỹ thuật bootstrapping tài chính chủ sở hữu hoặc sử dụng chung nguồn lực với các doanh nghiệp
khác. Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao, hiệu quả kinh doanh kém hơn tìm đến bootstrapping giảm thiểu
các khoản phải thu hoặc tối thiểu hóa vốn đầu tư. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm
– thủy sản thường lựa chọn bootstrapping liên quan đến các chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Từ khóa: kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping, đặc điểm doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm doanh nghiệp và việc sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

38 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP VÀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC KỸ THUẬT TÀI TRỢ VỐN BOOTSTRAPPING TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Hường Khoa Kế toán tài chính Email: huong891@yahoo.com Ngày nhận bài: 11/9/2020 Ngày PB đánh giá: 21/9/2020 Ngày duyệt đăng: 25/9/2020 TÓM TẮT: Mục đích của bài nghiên cứu là nhằm kiểm tra mối quan hệ giữa đặc điểm của doanh nghiệp với tình hình sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn boostrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam thông qua một mẫu bao gồm 476 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp trẻ, quy mô vốn nhỏ thường lựa chọn các kỹ thuật bootstrapping tài chính chủ sở hữu hoặc sử dụng chung nguồn lực với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao, hiệu quả kinh doanh kém hơn tìm đến bootstrapping giảm thiểu các khoản phải thu hoặc tối thiểu hóa vốn đầu tư. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – thủy sản thường lựa chọn bootstrapping liên quan đến các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Từ khóa: kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping, đặc điểm doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa ENTERPRISE CHARACTERISTICS AND USE OF BOOSTRAPP FINANCING TECHNIQUES IN SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIET NAM ABSTRACST: The purpose of the paper is to find the relationship between the enterprise’s characteristics and the use of boostrapp funding techniques with a sample of 476 Vietnamese SMEs. The results show that young, small-capital businesses often choose owners financing bootstrapping techniques or sharing resources with other businesses. Firms with high debt ratios and poorer performance turn to bootstrapping to minimize receivables or minimize capital investment. Enterprises operating in the agricultural, forestry and fishery sectors often choose subsidy – oriented bootstrapping Key words: Boostrapping, enterprise characteristics, small and medium enterprises 1. GIỚI THIỆU Tiếp cận được vốn là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ vốn dĩ có khả năng chống đỡ trong thị trường thường yếu hơn so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Phần lớn các doanh nghiệp thường tiếp cận với nguồn vốn truyền thống thông qua việc gia tăng vốn chủ sở hữu hoặc thực hiện các hoạt động vay nợ trên thị trường tài chính. Tuy nhiên không phải lúc nào việc huy động vốn từ các nguồn này cũng trở nên dễ dàng đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 39TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020 Trong bối cảnh tiếp cận tài chính truyền thống trở nên khó khăn với những điều kiện không mong muốn, dưới góc độ quản trị kinh doanh, vai trò của chủ sở hữu là vô cùng quan trọng trong việc đưa ra quyết định tìm kiếm và lựa chọn sử dụng nguồn vốn thay thế. Nguồn vốn thay thế trong trường hợp này được các nhà nghiên cứu quốc tế gọi tên đó chính là các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping (gọi tắt là bootstrapping). Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay các nghiên cứu về bootstrapping vẫn còn khá khiêm tốn, đặc biệt là các nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp và vấn đề sử dụng các kỹ thuật tài trợ độc đáo này. Xuất phát từ lý do đó, bài báo muốn xem xét sự khác biệt về đặc điểm doanh nghiệp sẽ tác động đến việc lựa chọn và sử dụng bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam như thế nào? 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping Boostrapping trong lĩnh vực tài chính mặc dù bắt đầu được đề cập đến trong nghiên cứu của Bhide (1992), nhưng trước đó các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping cũng đã xuất hiện ở một vài nghiên cứu với các tên gọi khác nhau như vốn thay thế trong nghiên cứu của Van Auken & Carter (1989) hoặc tài chính thay thế trong nghiên cứu của Thorne (1989). Bhide (1992,110) cho rằng “Bootstrapping là sự sáng tạo của chủ sở hữu trong việc vận hành kinh doanh với các quỹ cá nhân khiêm tốn”. Sau nghiên cứu của Bhide (1992), bootstrapping được các nhà nghiên cứu khác bắt đầu quan tâm hơn. Freear và cộng sự (1995, 102) định nghĩa “bootstrapping là cách sáng tạo cao để có được việc sử dụng các nguồn lực mà không vay hoặc tăng vốn cổ phần từ các nguồn lực truyền thống”. Tiếp tục phát triển khái niệm về bootstrapping, Van Auken & Neeley (1996, 223) nhận định “Bootstrapping là vốn thu được từ các nguồn khác với các nguồn vốn truyền thống”. Winborgs & Landstrom (2001, 238) khi xem xét hành vi của người quản lý trong doanh nghiệp ở Thụy Điển đã đinh nghĩa bootstrapping là việc “sử dụng các phương pháp để đáp ứng nhu cầu vốn mà không dựa vào tài chính dài hạn bên ngoài từ các chủ nợ hoặc chủ sở hữu mới”. Như vậy có thể nhận thấy có sự đồng thuận trong hầu hết các quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đó khi cho rằng bootstrapping chính là tập hợp các phương pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp mà không làm gia tăng nợ và vốn cổ phần mới. 2.2. Đặc điểm doanh nghiệp và vấn đề sử dụng bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Các đặc điểm của doanh nghiệp được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở các góc độ: tính chất sở hữu, ngành nghề kinh doanh, giai đoạn phát triển, quy mô cũng như tình hình hình tài chính. Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến việc sử dụng bootstrapping được thể hiện như sau: Tính chất sở hữu đã được đề cập đến trong nghiên cứu của Van Auken & Neeley (1996) nhằm xem xét mối quan hệ của nó với vấn đề lựa chọn sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping. Trong nghiên cứu này, vốn bootstrapping được nhìn nhận dưới góc độ là tài chính phi 40 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG truyền thống. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, với các doanh nghiệp có loại quyền sở hữu duy nhất đã sử dụng bootstrapping ở mức độ cao hơn so với các doanh nghiệp khác. Sự không tách biệt về mục tiêu của chủ sở hữu với mục tiêu của doanh nghiệp làm cho rủi ro của doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào chủ sở hữu duy nhất chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới vấn đề khó tiếp cận nguồn vốn truyền thống đối với những loại hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Van Auken (2003) thì giữa bootstrapping và tính chất sở hữu tồn tại mối quan hệ không đáng kể. Ngành nghề kinh doanh cũng được xem là một trong những nhân tố có tác động đáng kể đến việc lựa chọn và sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrap- ping. Van Auken (2005) đã chứng minh mối quan hệ này thông qua so sánh việc sử dụng bootstrapping trong các ngành công nghiệp khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ ràng trong việc lựa chọn và sử dụng bootstrapping với các doanh nghiệp có các lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Trong nghiên cứu của mình, Van Auken (2005) đã chỉ ra rằng với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sử dụng bootstrapping ở một mức độ nhất định hơn so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Và khi sử dụng bootstrapping, thì các doanh nghiệp công nghệ quan tâm đến bootstrapping cải thiện dòng tiền trong khi các doanh nghiệp ở các lĩnh vực còn lại thì quan tâm đến bootstrapping liên quan đến trì hoãn thanh toán. Cũng đề cập đến sự khác biệt về ngành nghề kinh doanh trong việc sử dụng bootstrapping, Van Auken & Neeley (1996) xem xét các doanh nghiệp xây dựng, sản xuất sử dụng bootstrapping như thế nào so với các doanh nghiệp khác. Kết quả nghiên cứu khẳng định, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất sử dụng bootstrapping ít hơn so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Winborgs & Landstrom (2001) cho rằng, các doanh nghiệp hoạt động chỉ trong lĩnh vực tư vấn thường sử dụng rất ít thậm chí là không sử dụng bootstrapping trong khi các doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác sẽ sử dụng bootstrap- ping dưới mỗi hình thức cụ thể. Trong ng- hiên cứu của Harrison và cộng sự (2004) cho biết các doanh nghiệp nhỏ hoạt động phổ biến trong lĩnh vực dịch vụ phần mềm có mức độ sử dụng bootstrapping thấp hơn so với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phát triển sản phẩm công nghệ. Như vậy, có thể thấy, việc lựa chọn có sử dụng bootstrapping hay không, mức độ sử dụng như thế nào, cách thức sử dụng ra sao cũng chịu ảnh hưởng từ việc doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực gì. Các giai đoạn phát triển khác nhau của doanh nghiệp cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng bootstrapping. Đề cập đến vấn đề này Winborgs & Landstrom (2001) cho rằng, mỗi giai đoạn phát triển khác nhau doanh nghiệp sẽ sử dụng bootstrapping theo các cách khác nhau. Doanh nghiệp ở giai đoạn mới thành lập thường lựa chọn sử dụng bootstrapping trì hoãn thanh toán hoặc bootstrapping liên quan đến tài chính chủ sở hữu, trong khi đó doanh nghiệp ở giai đoạn phát triển và mở rộng thì có xu hướng lựa chọn sử dụng Bootstrapping dựa trên các mối quan hệ 41TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020 hoặc giảm thiểu các khoản phải thu. Cơ bản đồng quan điểm với Winborgs & Landstrom (2001) trong nghiên cứu của Ebben & Johnson (2006) cũng cho rằng việc lựa chọn và sử dụng bootstrapping có sự thay đổi theo các giai đoạn phát triển khác nhau trong vòng đời của một doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có tuổi đời càng cao thì việc sử dụng các kỹ thuật boostrapping liên quan đến khách hàng càng nhiều trong khi với các doanh nghiệp có tuổi đời thấp hơn thì lại ưu tiên sử dụng các kỹ thuật bootstrapping liên quan đến chủ sở hữu, trì hoãn thanh toán và dùng chung nguồn lực. Quy mô doanh nghiệp cũng đã được xem xét trong nghiên cứu của Harrison và cộng sự (2004) về các doanh nghiệp ngành công nghiệp phần mềm. Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp nhỏ đánh giá tầm quan trọng của bootstrapping cho mục đích kinh doanh cao hơn so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ngoài ra, để phát triển kinh doanh, các công ty nhỏ sử dụng bootstrapping liên quan đến giảm thiểu chi phí, sử dụng tài chính cá nhân, trong khi các công ty lớn sử dụng bootstrapping cho phát triển sản phẩm. Mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô doanh nghiệp với bootstrapping cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Van Auken (2004). Trong nghiên cứu của Winborgs & Landstrom (2001) với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ (quy mô trong nghiên cứu này xác định bởi số lượng nhân viên) có khoảng 2 nhân viên thì xu hướng lựa chọn bootstrapping liên quan đến tài chính chủ sở hữu trong khi những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn có thể lựa chọn các hình thức bootstrapping khác. Vandenberg (2003) đi tìm cơ chế thích ứng với hạn chế trong việc tiếp cận nguồn tài chính truyền thống của các doanh nghiệp nhỏ ở Kenya đã phát hiện ra rằng giữa quy mô và các phương pháp bootstrapping liên quan đến giảm thiểu đầu tư thông qua mua bán chung của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có mối quan hệ thuận chiều với nhau. Như vậy, có thể thấy cùng xem xét quy mô doanh nghiệp sẽ quyết định đến việc sử dụng bootstrapping như thế nào thì mỗi nghiên cứu lại có những kết quả khác biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ địa điểm nghiên cứu, từ ngành nghề và từ nhiều yếu tố cụ thể khác. Mối quan hệ giữa tính thanh khoản với việc sử dụng bootstrapping được tìm thấy trong nghiên cứu của Ebben (2009). Nhà nghiên cứu này đã tìm thấy mối quan hệ giữa thanh khoản của doanh nghiệp với việc sử dụng bootstrapping. Với các doanh nghiệp có thanh khoản thấp thường lựa chọn sử dụng bootstrapping liên quan đến khách hàng và trì hoãn thanh toán hơn các loại bootstrapping khác. Và kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa bootstrapping với thanh khoản thông qua phân tích hồi quy cho thấy bootstrapping liên quan đến chủ sở hữu có mối quan hệ cùng chiều với thanh khoản. Đòn bảy tài chính được Ebben (2009) coi là một trong ba khía cạnh của điều kiện tài chính khi nghiên cứu mối quan hệ giữa bootstrapping và các điều kiện tài chính của các doanh nghiệp nhỏ. Khi doanh nghiệp có tỷ lệ đòn bảy tài chính cao sẽ có nhiều khả năng sử dụng bootstrapping liên quan đến khách hàng và trì hoãn thanh toán hơn là sử dụng bootstrapping liên quan đến chủ sở hữu và bootstrapping chia sẻ nguồn lực. Tuy là vậy, nhưng kết quả 42 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG của nghiên cứu chỉ ra rằng bootstrapping không phải là yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của đòn bảy tài chính. Trên đây là một số nhân tố cơ bản được các nhà nghiên cứu quốc tế xem là có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping trong các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trong phạm vi bài báo này, ngoài các yếu tố như tính chất sở hữu, ngành nghề kinh doanh, quy mô do- anh nghiệp, thanh khoản, đòn bảy tài chính đã được các nghiên cứu quốc tế xem xét, tác giả muốn kiểm tra thêm mối quan hệ của khả năng sinh lời, và tuổi doanh nghiệp với việc sử dụng bootstrapping tại các do- anh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Phương pháp điều tra chọn mẫu và xử lý Để có thể thu thập được thông tin của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, nghiên cứu áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện thông qua việc gửi email, gửi trực tiếp đồng thời gửi đường link khảo sát cho bạn bè, người quen để giúp đỡ, lan tỏa bảng khảo sát đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên khắp mọi miền tổ quốc. Bảng khảo sát được gửi đi từ tháng 4 năm 2020 và kết thúc vào tháng 8/2020. Tổng số phiếu thu về dưới các hình thức là 512 phiếu. Sau khi nhận được số lượng phiếu khảo sát này, nghiên cứu tiến hành kiểm tra một cách sơ bộ nhằm loại bỏ những phiếu khảo sát có các câu trả lời không phù hợp. Sau đó, các dữ liệu từ các phiếu khảo sát còn lại được nhập vào máy tính và dùng phần mềm SPSS để kiểm tra thêm. Kết quả cuối cùng có 476 phiếu khảo sát đáp ứng được các yêu cầu cần thiết. 3.2 Phương pháp phân tích Sau khi xác định được các kỹ thuật bootstrapping mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể sử dụng để tìm kiếm nguồn tài trợ thông qua quá trình tổng quan nghiên cứu, nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức độ để đánh giá mức độ sử dụng các kỹ thuật tài trợ này từ 0 đến 4 tương ứng với mức độ không bao giờ sử dụng đến luôn luôn sử dụng. Quá trình thực hiện đánh giá sự khác biệt trong việc sử dụng bootstrapping trên cơ sở đặc điểm chủ sở hữu được thực hiện thông qua các bước như sau: Bước 1: tiến hành kiểm định chất lượng thang đo liên quan đến biến bootstrapping bằng hệ số Cronbach’s alpha. Mục đích của bước này nhằm kiểm định độ tin cậy của bộ thang đo đồng thời loại bỏ những biến quan sát không đảm bảo độ tin cậy cho các bước phân tích tiếp theo. Bước 2: Thực hiện phân tích nhân tố khám phá EFA. Mục đích là nhằm xác định giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, đánh giá bộ dữ liệu có phù hợp với việc sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá, đồng thời xác định các nhóm bootstrapping thông qua hệ số KMO (Kaise – Myer – Olkin), kiểm ... i các doanh nghiệp khác; nhóm nhân tố thứ 5 bao gồm 5 biến quan sát được đặt tên là nhóm tài chính chủ sở hữu; cuối cùng là nhóm nhân tố thứ 6, nhóm này có tất cả 3 biến quan sát có tên gọi tương ứng là nhóm trì hoãn thanh toán. 46 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 4.3 Đánh giá sự khác biệt của các yếu tố liên quan đến đặc điểm doanh nghiệp lên tình hình sử dụng bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Sau khi sử dụng thủ tục Ward để xác định số cụm trong nghiên cứu là 6, nghiên cứu tiếp tục sử dụng kỹ thuật phân cụm K-means dựa trên các điểm yếu tố được xác định trong phần phân tích nhân tố khám phá. Mục đích của phân tích cụm là xác định nhóm các doanh nghiệp lựa chọn sử dụng từng nhóm boostrapping cụ thể. Kết quả cuối cùng cho thấy có 6 cụm được chọn, giá trị trung bình của 6 cụm trên mỗi yếu tố được trình bày trong bảng 4. Biến Nhân tố 1 2 3 4 5 6 Lựa chọn khách hàng có khả năng thanh toán ngay bằng tiền 0,752 Áp dụng điều kiện mua hàng như nhau với tất cả khách hàng 0,750 Đẩy nhanh quá trình lập và xử lý chứng từ hóa đơn 0,749 Nhận hỗ trợ công nghệ cơ sở kỹ thuật 0,818 Nhận hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực 0,794 Nhận hỗ trợ mở rộng thị trường 0,744 Nhận hỗ trợ về mặt bằng sản xuất 0,732 Nhận bảo lãnh tín dụng 0,674 Nhận ưu đãi có thời hạn mức thuế suất thuế TNDN 0,611 Sử dụng chung máy móc, thiết bị với doanh nghiệp khác 0,903 Sử dụng chung lao động với doanh nghiệp khác 0,898 Sử dụng chung không gian văn phòng với doanh nghiệp khác 0,778 Hợp tác mua hàng với các doanh nghiệp khác 0,746 Sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của chủ sở hữu 0,843 Thuê người thân làm việc với mức lương thấp hơn thị trường 0,790 Sử dụng nhà riêng làm nơi điều hành doanh nghiệp 0,754 Sử dụng thu nhập của chủ sở hữu từ các công việc bên ngoài 0,667 Vay vốn từ bạn bè người thân 0,599 Trì hoãn thanh toán thuế cho nhà nước 0,823 Trì hoãn thanh toán cho nhà cung cấp 0,778 Trì hoãn thanh toán tiền công, tiền lương cho người lao động 0,679 Eigenvalue 7,268 4,180 3,814 2,764 2,148 1,787 Phương sai rút trích 5,371 4,455 3,468 3,103 2,870 2,695 Nguồn: Kết quả phân tích SPSS của tác giả 47TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020 Để xác định sự khác biệt trong trong việc sử dụng boostrapping của mỗi nhóm doanh nghiệp nói trên, tác giả tiếp tục tiến hành kiểm định phân biệt dựa trên đặc điểm của doanh nghiệp, kết quả cho thấy hệ số Wilk’s Lambda giao động trong khoảng từ 0,321 đến 0,956 và Sig. của 7 yếu tố liên quan đến đặc điểm doanh nghiệp đều có giá trị 0,000 nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, cho thấy có sự phân biệt có ý nghĩa thống kê ở các biến đặc điểm doanh nghiệp và có thể tiến hành giải thích kết quả. Từ bảng 4 cho thấy các doanh nghiệp hoạt động trong nhóm đầu tiên (cụm 1) sử dụng các phương pháp giảm thiểu nguồn lực (nhân tố 1) và các phương pháp liên quan đến tài chính chủ sở hữu. Tuy nhiên thì phổ biến vẫn là sử dụng các phương pháp giảm thiểu nguồn lực, do vậy, nhóm doanh nghiệp này sẽ được gắn mác là nhóm doanh nghiệp sử dụng các phương pháp boostrapping giảm thiểu nguồn lực. Nhóm các doanh nghiệp này bao gồm 155 doanh nghiệp chiếm 32,56%, cao nhất trong mẫu nghiên cứu. Dựa vào kết quả của bảng Group statistics trong phân tích tổng vốn trung bình khoảng 53.630 triệu đồng, doanh thu tạo ra gần 70.589 triệu đồng. Nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ nợ là 47,83%, cao hơn so với mức trung bình của toàn bộ mẫu nghiên cứu tuy nhiên vẫn đảm bảo được khả năng thanh toán, với khả năng thanh toán hiện thời là 1,6, khả năng sinh lời thuộc nhóm tốt nhất trong mẫu nghiên cứu, với suất sinh lời của doanh thu là 3,05%. Đánh giá chung, đây là nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn trong mẫu nghiên cứu, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, sử dụng đòn bảy cao, khả năng sinh lời tốt. Nhóm doanh nghiệp thứ 2 (cụm 2) chủ yếu sử dụng các phương pháp sử dụng chung nguồn lực với các doanh nghiệp khác (nhân tố 4) và các phương pháp có liên quan đến tài chính chủ sở hữu (nhân tố 5), tuy nhiên mức độ sử dụng chung nguồn lực vẫn nhỉnh hơn. Do vậy, nhóm các doanh nghiệp này sẽ được gọi tên là nhóm doanh nghiệp sử dụng các phương pháp boostrapping sử dụng chung với 92 doanh nghiệp, chiếm 19,33%. Nhóm tập hợp những doanh nghiệp có thời gian hoạt động trung bình khoảng 7 năm trong lĩnh vực sản xuất, với quy mô tài sản nhỏ, giá trị vốn khoảng 19.540 triệu đồng, doanh thu được tạo ra cũng ở mức khiêm tốn hơn nhiều so với nhóm 1, đạt khoảng 28.415 triệu đồng. Tỷ lệ nợ ở mức 48% Bảng 4. Kết quả phân tích cụm Nhóm nhân tố Cụm 1 2 3 4 5 6 1 0,723 -0,627 0,214 0,057 0,092 -0,161 2 -0,431 -0,095 0,661 0,365 0,278 -0,398 3 0,262 0,302 -0,106 0,563 0,594 0,400 4 0,309 0,492 0,607 -0,509 0,098 0,158 5 0,328 0,441 0,062 0,483 -0,594 -0,329 6 -0,139 -0,265 0,365 0,234 -0,447 0,723 Kích thước cụm 155 92 55 124 14 36 Nguồn: Kết quả phân tích SPSS của tác giả 48 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG thấp hơn nhóm 1, đảm bảo được khả năng thanh toán, tuy nhiên hiệu quả kinh doanh hạn chế, ROS là 1,45%. Đánh giá chung, đây là nhóm doanh nghiệp trẻ trong mẫu nghiên cứu, nên quy mô kinh doanh còn hạn chế, mặc dù đòn bảy cao nhưng khả năng sinh lời thấp hơn so với nhóm 1. Nhóm doanh nghiệp 3 là nhóm sử dụng boostrapping giảm thiểu các khoản phải thu bao gồm 55 doanh nghiệp, chiếm 11,55% trong tổng số các doanh nghiệp thuộc mẫu nghiên cứu. Đây là những doanh nghiệp có thời gian hoạt động gần 14 năm trong lĩnh sản xuất, được đánh giá là một trong những nhóm doanh nghiệp có thời gian hoạt động dài trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ nợ cao, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán thuộc diện những nhóm doanh nghiệp thấp nhất trong trong mẫu nghiên cứu. Đánh giá chung, đây là nhóm doanh nghiệp sản xuất, có thời gian hoạt động lâu dài, tình trạng đảm bảo vốn chưa tốt, hiệu quả kinh doanh kém. Nhóm doanh nghiệp thứ 4 bao gồm 124 doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 26,05% là nhóm những doanh nghiệp sử dụng boostrapping tài chính chủ sở hữu, nhóm tập hợp những doanh nghiệp có thời gian kinh doanh trung bình chưa đến 9 năm, ngành nghề kinh doanh trong lĩnh vực tư vấn, dịch vụ. Doanh nghiệp có quy mô vốn tương đối thấp trong mẫu nghiên cứu, với khoảng 28.061 triệu đồng, doanh thu trung bình của nhóm là 37.302 triệu đồng. Tỷ lệ nợ không cao, dưới 30%, đảm bảo khả năng thanh toán tốt tuy nhiên suất sinh lợi còn hạn chế. Đánh giá chung, nhóm doanh nghiệp trẻ, hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, quy mô nhỏ, khả năng sinh lời tốt. Nhóm doanh nghiệp 5 bao gồm 14 doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp 2,94 % sử dụng boostrapping hỗ trợ của nhà nước, điều này cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực sự tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ của nhà nước như mong đợi. Nhóm này có đặc điểm: quy mô kinh doanh ở mức trung bình, với tổng vốn kinh doanh là 39.439 triệu tạo ra doanh thu khoảng 51.985 triệu đồng, hoạt động trong lĩnh vực Nông – lâm – thủy sản. Tỷ lệ nợ của nhóm doanh nghiệp này khá thấp, với 38,3% tuy nhiên khả năng sinh lợi tốt. Suất sinh lời của tài sản cao nhất trong số các nhóm doanh nghiệp thuộc mẫu nghiên cứu với suất sinh lời doanh thu tương ứng 3,62%. Nhóm doanh nghiệp thứ 6 (cụm 6) bao gồm 36 doanh nghiệp, chiếm 7,56%, nhóm các doanh nghiệp này sử dụng chủ yếu các phương pháp bootstrapping trì hoãn thanh toán (nhóm 6), do vậy nhóm này được gắn nhãn là nhóm doanh nghiệp sử dụng boostrapping trì hoãn thanh toán. Nhóm này bao gồm các doanh nghiệp có thời gian kinh doanh trung bình cao nhất trong số các nhóm doanh nghiệp thuộc mẫu nghiên cứu, với thời gian hoạt động trung bình là hơn 14 năm, lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là thương mại. Xét về quy mô vốn, đây là nhóm có quy mô vốn lớn nhất, với số vốn bình quân khoảng 50.081 triệu đồng, doanh thu tạo ra cũng cao nhất với 82.476triệu đồng, tuy nhiên khả năng sinh lời còn hạn chế. Nếu như theo nghiên cứu của Winborg & Landstrom (2001) cũng có 6 nhóm doanh nghiệp được xác định, cụ thể là nhóm doanh nghiệp sử dụng boostrapping trì hoãn thanh toán, định hướng mối quan hệ, sử dụng trợ cấp, giảm thiểu vốn đầu tư, sử dụng trợ cấp, tài chính chủ sở hữu và nhóm doanh nghiệp không sử dụng bất cứ một phương pháp boostrapping nào. 49TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020 Nghiên cứu này khác với nghiên cứu của Winborg & Landstrom (2001) ở chỗ, các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đều có sử dụng boostrapping, với những cách thức và mức độ khác nhau. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra mối quan hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp với tình hình sử dụng bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, và đã tìm thấy có sự khác biệt giữa các đặc điểm của doanh nghiệp trong việc lựa chọn sử dụng từng nhóm kỹ thuật boostrapping. Với kết quả như đã trình bày ở bên trên, được coi là những gợi ý cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ thay thế cho nguồn tài trợ truyền thống vốn dĩ khó tiếp cận đối với những doanh nghiệp khá nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế. Một số gợi ý trong quá trình tìm kiếm nguồn tài trợ bootstrapping đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: Thứ nhất, với các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp hoạt động trong với thời gian chưa đến 10 năm, và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên lựa chọn các kỹ thuật boostrapping tài chính chủ sở hữu thông qua vay vốn từ bạn bè người thân, sử dụng nhà riêng làm nơi điều hành doanh nghiệp, thuê người thân làm việc với mức lương thấp hơn thị trường, đồng thời có thể lựa chọn các kỹ thuật boostrapping liên quan đến sử dụng chung nguồn lực với các doanh nghiệp khác thông qua sử dụng chung máy móc thiết bị, lao động, hợp tác mua hàng Thứ hai, với các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao, khả năng sinh lời còn hạn chế nên sử dụng các kỹ thuật bootstrapping giảm thiểu các khoản phải thu, hoặc bootstrapping giảm thiểu nguồn lực (tối thiểu hóa vốn đầu tư) như thuê máy móc thiết bị thay vì đầu tư mua sắm, thuê lao động tạm thời thay vì tuyển dụng lâu dài, mua máy móc thiết bị đã qua sử dụng thay vì mua mới Thứ ba, với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm –thủy sản nên tìm hiểu các chính sách hỗ trợ của nhà nước để được hưởng những ưu đãi, hỗ trợ nhằm giảm thiểu chi phí kinh doanh, tăng năng lực hoạt động. Ngoài ra, các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp hoạt động trong với thời gian chưa đến 10 năm, và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên tham gia vào hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh, thành phố để có thể có thong tin và những gợi ý trong quá trình tìm hiểu và tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của nhà nước nhằm được hưởng những ưu đãi phù hợp với tình hình kinh doanh của mình. Thứ tư, với các doanh nghiệp hoạt động với thời gian dài (trên 10 năm trở lên) có thể tận dụng các mối quan hệ với các doanh nghiệp khác trong việc sử dụng các kỹ thuật bootstrapping trì hoãn thanh toán. Như vậy, ngoài việc mở rộng các nghiên cứu trước đây liên quan đến mối quan hệ về đặc điểm doanh nghiệp với việc sử dụng các kỹ thuật tài chính bootstrapping, nghiên cứu này kỳ vọng mang đến những gợi ý hữu ích đối với các doanh nhân Việt Nam trong quá trình tìm kiếm nguồn tài trợ mới phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp. Cùng với đó, tác giả hy vọng các chủ đề nghiên cứu liên quan đến các vấn đề xoay quanh tình hình sử dụng nguồn tài trợ đặc biệt này sẽ được thực hiện một cách đa dạng ở Việt Nam trong thời gian tới, bởi vai trò quan trọng của bootstrapping đối với các start up, các 50 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG doanh nghiệp mới thành lập, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa đã được thừa nhận trong các nghiên cứu quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bhide A. (1992) ‘Bootstrap Finance - The Art of Start-ups’, Harvard Business Review 70, 109-117. 2. Carter, R. B. & Van Auken, H. (2005), ‘Bootstrap financing and owner’s perception of their business constraints and opportunities’, Entrepreneurship & Regional Development, 17, March (2005), pp. 129-144. 3. Ebben, J. & Johnson, A. (2006), ‘Bootstraping in small firms: An empirical analysis of change over time’, Journal of Business Venturing 21 (2006), pp.851-865. 4. Ebben, J. (2009), ‘Bootstrapping and the financial condition of small firms’, International Journal of Entrepreneurial Behaviour & Research Vol. 15 No. 4, 2009, pp. 346-363. 5. Freear, J., Sohl, J. E. & Wetzel, W. E. (1995), Early stage software ventures: what is working is not and what Centre for Venture Economies, University of New Hampshire, Durham, NH. 6. Grichnik, D., Brinckmann, J., Singh, L. & Manigart, S. (2014), ‘Beyond environmental scarcity: Hunam and social capital as driving forces of bootstrapping activities’, Journal of Business Venturing, Vol.29, pp.310-326. 7. Harrison, R., Mason , M., & Girling, P. (2004), ‘Financial Bootstrapping and venture development in the software industry’, Entrepreneurship & Regional Development, 16, July (2004), pp. 307-333. 8. Neeley, L. & Van Auken. H. (2009), ‘The Relationship between Owner Characteristics and Use of Bootstrap Finacing Methods’, Journal of small Business and Entrepreurship, 22:4, pp.399-412. 9. Neeley, L. & Van Auken, H. (2010), ‘Differences between female and male entrepreneurs use of bootstrap financing methods’, Journal of Developmental Entrepreneurship, 15, 19-34. 10. Neeley, L. & Van Auken, H. (2012), An examination of Small Firm Bootstrap Financing and Use of Debt’, Journal of Developmental Entrepreneurship, 17, 27-39. 11. Perry, J.T., Chandler, G.N., Yao, X. & Wolff, J.A. (2011), ‘Bootstrapping Techniques and New Venture Emergence’, New England Journal of Entrepreneurship, Vol.14, No. 1, pp.35-44. 12. Thorne, J.R. (1989), ‘Alternative financing for entrepreneurial ventures’, Entrepreneurship: Theory & Practice, 13, 7-9. 13. Van Auken, H. (2003), ‘An Empirical Investigation of Bootstrap Fiancing Among Small Firms’, Journal of Small Business Strategy Vol.14, No.2 Fall/Winter 2003, pp. 22-36. 14. Van Auken, H.(2004), ‘The Use of Bootstrap Financing Among Small Technology- Based Firms’, Journal of Developmental Entrepreneurship, 9, 145-159. 15. Van Auken, H. & Carter, R. (1989), ‘Acquisition of capital by small business’, Journal of Small Business Management, 27, 1-9. 16. Van Auken, H. & Neeley, L. (1996), ‘Evidence of Bootstrap Finacing among Small Start-up Firm’, The Journal of Entrepreurial Finance, Vol.5(3), pp.235-249. 17. Vandenberg, P. (2003), ‘Adapting to the Finacial Landscape: Evidence from Small Firms in Nairobi’, World Development Vol.31, No.11, pp.1829-1843, 2003. 18. Winborgs, J., & Landstrom H. (2001), ‘Financial Bootstrapping in small businesses: examining small business manager’s resource acquisition behaviors’, Journal of Business Venturing 16, pp.235-254.
File đính kèm:
dac_diem_doanh_nghiep_va_viec_su_dung_cac_ky_thuat_tai_tro_v.pdf