Đặc điểm doanh nghiệp và việc sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

TÓM TẮT:

Mục đích của bài nghiên cứu là nhằm kiểm tra mối quan hệ giữa đặc điểm của doanh nghiệp với tình hình

sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn boostrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam thông qua

một mẫu bao gồm 476 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp trẻ, quy mô vốn nhỏ thường lựa

chọn các kỹ thuật bootstrapping tài chính chủ sở hữu hoặc sử dụng chung nguồn lực với các doanh nghiệp

khác. Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao, hiệu quả kinh doanh kém hơn tìm đến bootstrapping giảm thiểu

các khoản phải thu hoặc tối thiểu hóa vốn đầu tư. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm

– thủy sản thường lựa chọn bootstrapping liên quan đến các chính sách hỗ trợ của nhà nước.

Từ khóa: kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping, đặc điểm doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa

pdf 13 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm doanh nghiệp và việc sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm doanh nghiệp và việc sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Đặc điểm doanh nghiệp và việc sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
38 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP VÀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC KỸ THUẬT 
TÀI TRỢ VỐN BOOTSTRAPPING TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ 
VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hường 
Khoa Kế toán tài chính 
Email: huong891@yahoo.com
Ngày nhận bài: 11/9/2020
Ngày PB đánh giá: 21/9/2020
Ngày duyệt đăng: 25/9/2020
TÓM TẮT: 
Mục đích của bài nghiên cứu là nhằm kiểm tra mối quan hệ giữa đặc điểm của doanh nghiệp với tình hình 
sử dụng các kỹ thuật tài trợ vốn boostrapping tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam thông qua 
một mẫu bao gồm 476 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp trẻ, quy mô vốn nhỏ thường lựa 
chọn các kỹ thuật bootstrapping tài chính chủ sở hữu hoặc sử dụng chung nguồn lực với các doanh nghiệp 
khác. Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao, hiệu quả kinh doanh kém hơn tìm đến bootstrapping giảm thiểu 
các khoản phải thu hoặc tối thiểu hóa vốn đầu tư. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm 
– thủy sản thường lựa chọn bootstrapping liên quan đến các chính sách hỗ trợ của nhà nước. 
Từ khóa: kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping, đặc điểm doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa
ENTERPRISE CHARACTERISTICS AND USE OF BOOSTRAPP FINANCING 
TECHNIQUES IN SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIET NAM
ABSTRACST: 
The purpose of the paper is to find the relationship between the enterprise’s characteristics and the use 
of boostrapp funding techniques with a sample of 476 Vietnamese SMEs. The results show that young, 
small-capital businesses often choose owners financing bootstrapping techniques or sharing resources 
with other businesses. Firms with high debt ratios and poorer performance turn to bootstrapping to 
minimize receivables or minimize capital investment. Enterprises operating in the agricultural, forestry 
and fishery sectors often choose subsidy – oriented bootstrapping
Key words: Boostrapping, enterprise characteristics, small and medium enterprises
1. GIỚI THIỆU
Tiếp cận được vốn là một trong 
những nhân tố quan trọng đối với hoạt 
động của bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc 
biệt đối với những doanh nghiệp có quy 
mô nhỏ vốn dĩ có khả năng chống đỡ 
trong thị trường thường yếu hơn so với 
các doanh nghiệp có quy mô lớn. Phần 
lớn các doanh nghiệp thường tiếp cận với 
nguồn vốn truyền thống thông qua việc 
gia tăng vốn chủ sở hữu hoặc thực hiện 
các hoạt động vay nợ trên thị trường tài 
chính. Tuy nhiên không phải lúc nào việc 
huy động vốn từ các nguồn này cũng trở 
nên dễ dàng đặc biệt là đối với các doanh 
nghiệp nhỏ và vừa. 
39TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Trong bối cảnh tiếp cận tài chính 
truyền thống trở nên khó khăn với những 
điều kiện không mong muốn, dưới góc 
độ quản trị kinh doanh, vai trò của chủ 
sở hữu là vô cùng quan trọng trong việc 
đưa ra quyết định tìm kiếm và lựa chọn 
sử dụng nguồn vốn thay thế. Nguồn vốn 
thay thế trong trường hợp này được các 
nhà nghiên cứu quốc tế gọi tên đó chính 
là các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping 
(gọi tắt là bootstrapping). Tuy nhiên, tại 
Việt Nam hiện nay các nghiên cứu về 
bootstrapping vẫn còn khá khiêm tốn, đặc 
biệt là các nghiên cứu liên quan đến mối 
quan hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp và 
vấn đề sử dụng các kỹ thuật tài trợ độc đáo 
này. Xuất phát từ lý do đó, bài báo muốn 
xem xét sự khác biệt về đặc điểm doanh 
nghiệp sẽ tác động đến việc lựa chọn và sử 
dụng bootstrapping tại các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa Việt Nam như thế nào?
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping 
Boostrapping trong lĩnh vực tài chính 
mặc dù bắt đầu được đề cập đến trong 
nghiên cứu của Bhide (1992), nhưng trước 
đó các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping 
cũng đã xuất hiện ở một vài nghiên cứu 
với các tên gọi khác nhau như vốn thay 
thế trong nghiên cứu của Van Auken & 
Carter (1989) hoặc tài chính thay thế trong 
nghiên cứu của Thorne (1989). 
Bhide (1992,110) cho rằng 
“Bootstrapping là sự sáng tạo của chủ sở 
hữu trong việc vận hành kinh doanh với 
các quỹ cá nhân khiêm tốn”. Sau nghiên 
cứu của Bhide (1992), bootstrapping 
được các nhà nghiên cứu khác bắt đầu 
quan tâm hơn. Freear và cộng sự (1995, 
102) định nghĩa “bootstrapping là cách 
sáng tạo cao để có được việc sử dụng các 
nguồn lực mà không vay hoặc tăng vốn cổ 
phần từ các nguồn lực truyền thống”. Tiếp 
tục phát triển khái niệm về bootstrapping, 
Van Auken & Neeley (1996, 223) nhận 
định “Bootstrapping là vốn thu được từ 
các nguồn khác với các nguồn vốn truyền 
thống”. Winborgs & Landstrom (2001, 
238) khi xem xét hành vi của người quản 
lý trong doanh nghiệp ở Thụy Điển đã 
đinh nghĩa bootstrapping là việc “sử dụng 
các phương pháp để đáp ứng nhu cầu vốn 
mà không dựa vào tài chính dài hạn bên 
ngoài từ các chủ nợ hoặc chủ sở hữu mới”. 
Như vậy có thể nhận thấy có sự đồng 
thuận trong hầu hết các quan điểm của 
các nhà nghiên cứu trước đó khi cho rằng 
bootstrapping chính là tập hợp các phương 
pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính của 
doanh nghiệp mà không làm gia tăng nợ 
và vốn cổ phần mới. 
2.2. Đặc điểm doanh nghiệp và vấn đề sử 
dụng bootstrapping tại các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa
Các đặc điểm của doanh nghiệp được 
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở các góc 
độ: tính chất sở hữu, ngành nghề kinh 
doanh, giai đoạn phát triển, quy mô cũng 
như tình hình hình tài chính. Mức độ ảnh 
hưởng của các nhân tố này đến việc sử 
dụng bootstrapping được thể hiện như sau:
Tính chất sở hữu đã được đề cập 
đến trong nghiên cứu của Van Auken & 
Neeley (1996) nhằm xem xét mối quan hệ 
của nó với vấn đề lựa chọn sử dụng các 
kỹ thuật tài trợ vốn bootstrapping. Trong 
nghiên cứu này, vốn bootstrapping được 
nhìn nhận dưới góc độ là tài chính phi 
40 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
truyền thống. Kết quả của nghiên cứu cho 
thấy, với các doanh nghiệp có loại quyền 
sở hữu duy nhất đã sử dụng bootstrapping 
ở mức độ cao hơn so với các doanh nghiệp 
khác. Sự không tách biệt về mục tiêu của 
chủ sở hữu với mục tiêu của doanh nghiệp 
làm cho rủi ro của doanh nghiệp sẽ phụ 
thuộc vào chủ sở hữu duy nhất chính là 
nguyên nhân cơ bản dẫn tới vấn đề khó 
tiếp cận nguồn vốn truyền thống đối với 
những loại hình doanh nghiệp này. Tuy 
nhiên trong nghiên cứu của Van Auken 
(2003) thì giữa bootstrapping và tính chất 
sở hữu tồn tại mối quan hệ không đáng kể.
Ngành nghề kinh doanh cũng được 
xem là một trong những nhân tố có tác 
động đáng kể đến việc lựa chọn và sử 
dụng các kỹ thuật tài trợ vốn bootstrap-
ping. Van Auken (2005) đã chứng minh 
mối quan hệ này thông qua so sánh việc 
sử dụng bootstrapping trong các ngành 
công nghiệp khác nhau. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy có sự khác biệt rõ ràng trong 
việc lựa chọn và sử dụng bootstrapping 
với các doanh nghiệp có các lĩnh vực kinh 
doanh cụ thể. Trong nghiên cứu của mình, 
Van Auken (2005) đã chỉ ra rằng với các 
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực 
công nghệ sử dụng bootstrapping ở một 
mức độ nhất định hơn so với các doanh 
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. 
Và khi sử dụng bootstrapping, thì các 
doanh nghiệp công nghệ quan tâm đến 
bootstrapping cải thiện dòng tiền trong khi 
các doanh nghiệp ở các lĩnh vực còn lại thì 
quan tâm đến bootstrapping liên quan đến 
trì hoãn thanh toán. Cũng đề cập đến sự 
khác biệt về ngành nghề kinh doanh trong 
việc sử dụng bootstrapping, Van Auken & 
Neeley (1996) xem xét các doanh nghiệp 
xây dựng, sản xuất sử dụng bootstrapping 
như thế nào so với các doanh nghiệp khác. 
Kết quả nghiên cứu khẳng định, các doanh 
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, 
sản xuất sử dụng bootstrapping ít hơn so 
với các doanh nghiệp hoạt động trong các 
lĩnh vực khác. Winborgs & Landstrom 
(2001) cho rằng, các doanh nghiệp hoạt 
động chỉ trong lĩnh vực tư vấn thường 
sử dụng rất ít thậm chí là không sử dụng 
bootstrapping trong khi các doanh nghiệp 
ở các lĩnh vực khác sẽ sử dụng bootstrap-
ping dưới mỗi hình thức cụ thể. Trong ng-
hiên cứu của Harrison và cộng sự (2004) 
cho biết các doanh nghiệp nhỏ hoạt động 
phổ biến trong lĩnh vực dịch vụ phần mềm 
có mức độ sử dụng bootstrapping thấp 
hơn so với các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực phát triển sản phẩm công 
nghệ. Như vậy, có thể thấy, việc lựa chọn 
có sử dụng bootstrapping hay không, mức 
độ sử dụng như thế nào, cách thức sử dụng 
ra sao cũng chịu ảnh hưởng từ việc doanh 
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh 
vực gì.
Các giai đoạn phát triển khác nhau 
của doanh nghiệp cũng là một trong 
những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử 
dụng bootstrapping. Đề cập đến vấn đề 
này Winborgs & Landstrom (2001) cho 
rằng, mỗi giai đoạn phát triển khác nhau 
doanh nghiệp sẽ sử dụng bootstrapping 
theo các cách khác nhau. Doanh nghiệp ở 
giai đoạn mới thành lập thường lựa chọn 
sử dụng bootstrapping trì hoãn thanh 
toán hoặc bootstrapping liên quan đến 
tài chính chủ sở hữu, trong khi đó doanh 
nghiệp ở giai đoạn phát triển và mở 
rộng thì có xu hướng lựa chọn sử dụng 
Bootstrapping dựa trên các mối quan hệ 
41TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
hoặc giảm thiểu các khoản phải thu. Cơ 
bản đồng quan điểm với Winborgs & 
Landstrom (2001) trong nghiên cứu của 
Ebben & Johnson (2006) cũng cho rằng 
việc lựa chọn và sử dụng bootstrapping 
có sự thay đổi theo các giai đoạn phát 
triển khác nhau trong vòng đời của một 
doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có 
tuổi đời càng cao thì việc sử dụng các kỹ 
thuật boostrapping liên quan đến khách 
hàng càng nhiều trong khi với các doanh 
nghiệp có tuổi đời thấp hơn thì lại ưu tiên 
sử dụng các kỹ thuật bootstrapping liên 
quan đến chủ sở hữu, trì hoãn thanh toán 
và dùng chung nguồn lực. 
Quy mô doanh nghiệp cũng đã được 
xem xét trong nghiên cứu của Harrison 
và cộng sự (2004) về các doanh nghiệp 
ngành công nghiệp phần mềm. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp nhỏ 
đánh giá tầm quan trọng của bootstrapping 
cho mục đích kinh doanh cao hơn so với 
các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ngoài 
ra, để phát triển kinh doanh, các công ty 
nhỏ sử dụng bootstrapping liên quan đến 
giảm thiểu chi phí, sử dụng tài chính cá 
nhân, trong khi các công ty lớn sử dụng 
bootstrapping cho phát triển sản phẩm. 
Mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô 
doanh nghiệp với bootstrapping cũng được 
tìm thấy trong nghiên cứu của Van Auken 
(2004). Trong nghiên cứu của Winborgs & 
Landstrom (2001) với những doanh nghiệp 
có quy mô nhỏ (quy mô trong nghiên cứu 
này xác định bởi số lượng nhân viên) có 
khoảng 2 nhân viên thì xu hướng lựa chọn 
bootstrapping liên quan đến tài chính chủ 
sở hữu trong khi những doanh nghiệp có 
quy mô lớn hơn có thể lựa chọn các hình 
thức bootstrapping khác. Vandenberg 
(2003) đi tìm cơ chế thích ứng với hạn chế 
trong việc tiếp cận nguồn tài chính truyền 
thống của các doanh nghiệp nhỏ ở Kenya đã 
phát hiện ra rằng giữa quy mô và các phương 
pháp bootstrapping liên quan đến giảm thiểu 
đầu tư thông qua mua bán chung của các 
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có mối quan 
hệ thuận chiều với nhau. Như vậy, có thể 
thấy cùng xem xét quy mô doanh nghiệp sẽ 
quyết định đến việc sử dụng bootstrapping 
như thế nào thì mỗi nghiên cứu lại có những 
kết quả khác biệt. Sự khác biệt này xuất phát 
từ địa điểm nghiên cứu, từ ngành nghề và từ 
nhiều yếu tố cụ thể khác.
Mối quan hệ giữa tính thanh khoản 
với việc sử dụng bootstrapping được tìm 
thấy trong nghiên cứu của Ebben (2009). 
Nhà nghiên cứu này đã tìm thấy mối quan 
hệ giữa thanh khoản của doanh nghiệp 
với việc sử dụng bootstrapping. Với các 
doanh nghiệp có thanh khoản thấp thường 
lựa chọn sử dụng bootstrapping liên 
quan đến khách hàng và trì hoãn thanh 
toán hơn các loại bootstrapping khác. 
Và kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa 
bootstrapping với thanh khoản thông qua 
phân tích hồi quy cho thấy bootstrapping 
liên quan đến chủ sở hữu có mối quan hệ 
cùng chiều với thanh khoản.
Đòn bảy tài chính được Ebben (2009) 
coi là một trong ba khía cạnh của điều kiện 
tài chính khi nghiên cứu mối quan hệ giữa 
bootstrapping và các điều kiện tài chính 
của các doanh nghiệp nhỏ. Khi doanh 
nghiệp có tỷ lệ đòn bảy tài chính cao sẽ có 
nhiều khả năng sử dụng bootstrapping liên 
quan đến khách hàng và trì hoãn thanh 
toán hơn là sử dụng bootstrapping liên 
quan đến chủ sở hữu và bootstrapping chia 
sẻ nguồn lực. Tuy là vậy, nhưng kết quả 
42 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
của nghiên cứu chỉ ra rằng bootstrapping 
không phải là yếu tố ảnh hưởng đến sự 
thay đổi của đòn bảy tài chính.
Trên đây là một số nhân tố cơ bản được 
các nhà nghiên cứu quốc tế xem là có ảnh 
hưởng đến quyết định sử dụng các kỹ thuật 
tài trợ vốn bootstrapping trong các doanh 
nghiệp có quy mô nhỏ. Trong phạm vi bài 
báo này, ngoài các yếu tố như tính chất sở 
hữu, ngành nghề kinh doanh, quy mô do-
anh nghiệp, thanh khoản, đòn bảy tài chính 
đã được các nghiên cứu quốc tế xem xét, 
tác giả muốn kiểm tra thêm mối quan hệ 
của khả năng sinh lời, và tuổi doanh nghiệp 
với việc sử dụng bootstrapping tại các do-
anh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp điều tra chọn mẫu và 
xử lý 
Để có thể thu thập được thông tin của 
các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, 
nghiên cứu áp dụng phương pháp chọn 
mẫu thuận tiện thông qua việc gửi email, 
gửi trực tiếp đồng thời gửi đường link khảo 
sát cho bạn bè, người quen để giúp đỡ, lan 
tỏa bảng khảo sát đến các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa trên khắp mọi miền tổ quốc. 
Bảng khảo sát được gửi đi từ tháng 4 năm 
2020 và kết thúc vào tháng 8/2020. Tổng 
số phiếu thu về dưới các hình thức là 512 
phiếu. Sau khi nhận được số lượng phiếu 
khảo sát này, nghiên cứu tiến hành kiểm tra 
một cách sơ bộ nhằm loại bỏ những phiếu 
khảo sát có các câu trả lời không phù hợp. 
Sau đó, các dữ liệu từ các phiếu khảo sát 
còn lại được nhập vào máy tính và dùng 
phần mềm SPSS để kiểm tra thêm. Kết quả 
cuối cùng có 476 phiếu khảo sát đáp ứng 
được các yêu cầu cần thiết.
3.2 Phương pháp phân tích
Sau khi xác định được các kỹ thuật 
bootstrapping mà các doanh nghiệp nhỏ và 
vừa có thể sử dụng để tìm kiếm nguồn tài trợ 
thông qua quá trình tổng quan nghiên cứu, 
nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức 
độ để đánh giá mức độ sử dụng các kỹ thuật 
tài trợ này từ 0 đến 4 tương ứng với mức 
độ không bao giờ sử dụng đến luôn luôn sử 
dụng. Quá trình thực hiện đánh giá sự khác 
biệt trong việc sử dụng bootstrapping trên 
cơ sở đặc điểm chủ sở hữu được thực hiện 
thông qua các bước như sau:
Bước 1: tiến hành kiểm định chất lượng 
thang đo liên quan đến biến bootstrapping 
bằng hệ số Cronbach’s alpha. Mục đích 
của bước này nhằm kiểm định độ tin cậy 
của bộ thang đo đồng thời loại bỏ những 
biến quan sát không đảm bảo độ tin cậy 
cho các bước phân tích tiếp theo.
Bước 2: Thực hiện phân tích nhân tố khám 
phá EFA. Mục đích là nhằm xác định giá trị 
hội tụ, giá trị phân biệt, đánh giá bộ dữ liệu 
có phù hợp với việc sử dụng phương pháp 
phân tích nhân tố khám phá, đồng thời xác 
định các nhóm bootstrapping thông qua hệ 
số KMO (Kaise – Myer – Olkin), kiểm  ... i các 
doanh nghiệp khác; nhóm nhân tố thứ 5 
bao gồm 5 biến quan sát được đặt tên là 
nhóm tài chính chủ sở hữu; cuối cùng là 
nhóm nhân tố thứ 6, nhóm này có tất cả 
3 biến quan sát có tên gọi tương ứng là 
nhóm trì hoãn thanh toán. 
46 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
4.3 Đánh giá sự khác biệt của các yếu tố 
liên quan đến đặc điểm doanh nghiệp lên 
tình hình sử dụng bootstrapping tại các 
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Sau khi sử dụng thủ tục Ward để xác 
định số cụm trong nghiên cứu là 6, nghiên 
cứu tiếp tục sử dụng kỹ thuật phân cụm 
K-means dựa trên các điểm yếu tố được 
xác định trong phần phân tích nhân tố 
khám phá. Mục đích của phân tích cụm là 
xác định nhóm các doanh nghiệp lựa chọn 
sử dụng từng nhóm boostrapping cụ thể. 
Kết quả cuối cùng cho thấy có 6 cụm được 
chọn, giá trị trung bình của 6 cụm trên mỗi 
yếu tố được trình bày trong bảng 4.
Biến
Nhân tố
1 2 3 4 5 6
Lựa chọn khách hàng có khả năng thanh 
toán ngay bằng tiền
0,752
Áp dụng điều kiện mua hàng như nhau với 
tất cả khách hàng
0,750
Đẩy nhanh quá trình lập và xử lý chứng từ 
hóa đơn
0,749
Nhận hỗ trợ công nghệ cơ sở kỹ thuật 0,818
Nhận hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực 0,794
Nhận hỗ trợ mở rộng thị trường 0,744
Nhận hỗ trợ về mặt bằng sản xuất 0,732
Nhận bảo lãnh tín dụng 0,674
Nhận ưu đãi có thời hạn mức thuế suất thuế 
TNDN
0,611
Sử dụng chung máy móc, thiết bị với doanh 
nghiệp khác
0,903
Sử dụng chung lao động với doanh nghiệp khác 0,898
Sử dụng chung không gian văn phòng với 
doanh nghiệp khác
0,778
Hợp tác mua hàng với các doanh nghiệp khác 0,746
Sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của chủ sở hữu 0,843
Thuê người thân làm việc với mức lương 
thấp hơn thị trường
0,790
Sử dụng nhà riêng làm nơi điều hành doanh 
nghiệp
0,754
Sử dụng thu nhập của chủ sở hữu từ các 
công việc bên ngoài
0,667
Vay vốn từ bạn bè người thân 0,599
Trì hoãn thanh toán thuế cho nhà nước 0,823
Trì hoãn thanh toán cho nhà cung cấp 0,778
Trì hoãn thanh toán tiền công, tiền lương 
cho người lao động
0,679
Eigenvalue 7,268 4,180 3,814 2,764 2,148 1,787
Phương sai rút trích 5,371 4,455 3,468 3,103 2,870 2,695
Nguồn: Kết quả phân tích SPSS của tác giả
47TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Để xác định sự khác biệt trong trong 
việc sử dụng boostrapping của mỗi nhóm 
doanh nghiệp nói trên, tác giả tiếp tục tiến 
hành kiểm định phân biệt dựa trên đặc điểm 
của doanh nghiệp, kết quả cho thấy hệ số 
Wilk’s Lambda giao động trong khoảng từ 
0,321 đến 0,956 và Sig. của 7 yếu tố liên 
quan đến đặc điểm doanh nghiệp đều có 
giá trị 0,000 nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, cho 
thấy có sự phân biệt có ý nghĩa thống kê ở 
các biến đặc điểm doanh nghiệp và có thể 
tiến hành giải thích kết quả. 
Từ bảng 4 cho thấy các doanh nghiệp 
hoạt động trong nhóm đầu tiên (cụm 1) sử 
dụng các phương pháp giảm thiểu nguồn 
lực (nhân tố 1) và các phương pháp liên 
quan đến tài chính chủ sở hữu. Tuy nhiên 
thì phổ biến vẫn là sử dụng các phương 
pháp giảm thiểu nguồn lực, do vậy, nhóm 
doanh nghiệp này sẽ được gắn mác là 
nhóm doanh nghiệp sử dụng các phương 
pháp boostrapping giảm thiểu nguồn lực. 
Nhóm các doanh nghiệp này bao gồm 155 
doanh nghiệp chiếm 32,56%, cao nhất 
trong mẫu nghiên cứu. Dựa vào kết quả 
của bảng Group statistics trong phân tích 
tổng vốn trung bình khoảng 53.630 triệu 
đồng, doanh thu tạo ra gần 70.589 triệu 
đồng. Nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ nợ là 
47,83%, cao hơn so với mức trung bình 
của toàn bộ mẫu nghiên cứu tuy nhiên 
vẫn đảm bảo được khả năng thanh toán, 
với khả năng thanh toán hiện thời là 1,6, 
khả năng sinh lời thuộc nhóm tốt nhất 
trong mẫu nghiên cứu, với suất sinh lời 
của doanh thu là 3,05%. Đánh giá chung, 
đây là nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn 
trong mẫu nghiên cứu, hoạt động chủ yếu 
trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, sử 
dụng đòn bảy cao, khả năng sinh lời tốt.
Nhóm doanh nghiệp thứ 2 (cụm 2) chủ 
yếu sử dụng các phương pháp sử dụng 
chung nguồn lực với các doanh nghiệp 
khác (nhân tố 4) và các phương pháp có 
liên quan đến tài chính chủ sở hữu (nhân 
tố 5), tuy nhiên mức độ sử dụng chung 
nguồn lực vẫn nhỉnh hơn. Do vậy, nhóm 
các doanh nghiệp này sẽ được gọi tên là 
nhóm doanh nghiệp sử dụng các phương 
pháp boostrapping sử dụng chung với 92 
doanh nghiệp, chiếm 19,33%. Nhóm tập 
hợp những doanh nghiệp có thời gian hoạt 
động trung bình khoảng 7 năm trong lĩnh 
vực sản xuất, với quy mô tài sản nhỏ, giá 
trị vốn khoảng 19.540 triệu đồng, doanh 
thu được tạo ra cũng ở mức khiêm tốn 
hơn nhiều so với nhóm 1, đạt khoảng 
28.415 triệu đồng. Tỷ lệ nợ ở mức 48% 
Bảng 4. Kết quả phân tích cụm
Nhóm nhân tố
Cụm
1 2 3 4 5 6
1 0,723 -0,627 0,214 0,057 0,092 -0,161
2 -0,431 -0,095 0,661 0,365 0,278 -0,398
3 0,262 0,302 -0,106 0,563 0,594 0,400
4 0,309 0,492 0,607 -0,509 0,098 0,158
5 0,328 0,441 0,062 0,483 -0,594 -0,329
6 -0,139 -0,265 0,365 0,234 -0,447 0,723
Kích thước cụm 155 92 55 124 14 36
Nguồn: Kết quả phân tích SPSS của tác giả
48 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
thấp hơn nhóm 1, đảm bảo được khả năng 
thanh toán, tuy nhiên hiệu quả kinh doanh 
hạn chế, ROS là 1,45%. Đánh giá chung, 
đây là nhóm doanh nghiệp trẻ trong mẫu 
nghiên cứu, nên quy mô kinh doanh còn 
hạn chế, mặc dù đòn bảy cao nhưng khả 
năng sinh lời thấp hơn so với nhóm 1.
Nhóm doanh nghiệp 3 là nhóm sử 
dụng boostrapping giảm thiểu các khoản 
phải thu bao gồm 55 doanh nghiệp, chiếm 
11,55% trong tổng số các doanh nghiệp 
thuộc mẫu nghiên cứu. Đây là những 
doanh nghiệp có thời gian hoạt động gần 
14 năm trong lĩnh sản xuất, được đánh giá 
là một trong những nhóm doanh nghiệp có 
thời gian hoạt động dài trong mẫu nghiên 
cứu, tỷ lệ nợ cao, khả năng sinh lời và khả 
năng thanh toán thuộc diện những nhóm 
doanh nghiệp thấp nhất trong trong mẫu 
nghiên cứu. Đánh giá chung, đây là nhóm 
doanh nghiệp sản xuất, có thời gian hoạt 
động lâu dài, tình trạng đảm bảo vốn chưa 
tốt, hiệu quả kinh doanh kém.
Nhóm doanh nghiệp thứ 4 bao gồm 124 
doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 26,05% là nhóm 
những doanh nghiệp sử dụng boostrapping 
tài chính chủ sở hữu, nhóm tập hợp những 
doanh nghiệp có thời gian kinh doanh 
trung bình chưa đến 9 năm, ngành nghề 
kinh doanh trong lĩnh vực tư vấn, dịch vụ. 
Doanh nghiệp có quy mô vốn tương đối 
thấp trong mẫu nghiên cứu, với khoảng 
28.061 triệu đồng, doanh thu trung bình của 
nhóm là 37.302 triệu đồng. Tỷ lệ nợ không 
cao, dưới 30%, đảm bảo khả năng thanh 
toán tốt tuy nhiên suất sinh lợi còn hạn chế. 
Đánh giá chung, nhóm doanh nghiệp trẻ, 
hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch 
vụ, quy mô nhỏ, khả năng sinh lời tốt.
Nhóm doanh nghiệp 5 bao gồm 14 
doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp 2,94 
% sử dụng boostrapping hỗ trợ của nhà 
nước, điều này cho thấy các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa chưa thực sự tiếp cận được 
với các chính sách hỗ trợ của nhà nước 
như mong đợi. Nhóm này có đặc điểm: 
quy mô kinh doanh ở mức trung bình, với 
tổng vốn kinh doanh là 39.439 triệu tạo ra 
doanh thu khoảng 51.985 triệu đồng, hoạt 
động trong lĩnh vực Nông – lâm – thủy 
sản. Tỷ lệ nợ của nhóm doanh nghiệp này 
khá thấp, với 38,3% tuy nhiên khả năng 
sinh lợi tốt. Suất sinh lời của tài sản cao 
nhất trong số các nhóm doanh nghiệp 
thuộc mẫu nghiên cứu với suất sinh lời 
doanh thu tương ứng 3,62%. 
Nhóm doanh nghiệp thứ 6 (cụm 6) bao 
gồm 36 doanh nghiệp, chiếm 7,56%, nhóm 
các doanh nghiệp này sử dụng chủ yếu các 
phương pháp bootstrapping trì hoãn thanh 
toán (nhóm 6), do vậy nhóm này được 
gắn nhãn là nhóm doanh nghiệp sử dụng 
boostrapping trì hoãn thanh toán. Nhóm 
này bao gồm các doanh nghiệp có thời gian 
kinh doanh trung bình cao nhất trong số các 
nhóm doanh nghiệp thuộc mẫu nghiên cứu, 
với thời gian hoạt động trung bình là hơn 14 
năm, lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là thương 
mại. Xét về quy mô vốn, đây là nhóm có 
quy mô vốn lớn nhất, với số vốn bình quân 
khoảng 50.081 triệu đồng, doanh thu tạo 
ra cũng cao nhất với 82.476triệu đồng, tuy 
nhiên khả năng sinh lời còn hạn chế. 
Nếu như theo nghiên cứu của Winborg 
& Landstrom (2001) cũng có 6 nhóm 
doanh nghiệp được xác định, cụ thể là 
nhóm doanh nghiệp sử dụng boostrapping 
trì hoãn thanh toán, định hướng mối quan 
hệ, sử dụng trợ cấp, giảm thiểu vốn đầu 
tư, sử dụng trợ cấp, tài chính chủ sở hữu 
và nhóm doanh nghiệp không sử dụng bất 
cứ một phương pháp boostrapping nào. 
49TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Nghiên cứu này khác với nghiên cứu của 
Winborg & Landstrom (2001) ở chỗ, các 
doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đều 
có sử dụng boostrapping, với những cách 
thức và mức độ khác nhau. 
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra mối 
quan hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp với 
tình hình sử dụng bootstrapping tại các 
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, 
và đã tìm thấy có sự khác biệt giữa các 
đặc điểm của doanh nghiệp trong việc 
lựa chọn sử dụng từng nhóm kỹ thuật 
boostrapping. Với kết quả như đã trình 
bày ở bên trên, được coi là những gợi ý 
cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm 
nguồn tài trợ thay thế cho nguồn tài trợ 
truyền thống vốn dĩ khó tiếp cận đối với 
những doanh nghiệp khá nhạy cảm với 
sự biến động của nền kinh tế. Một số gợi 
ý trong quá trình tìm kiếm nguồn tài trợ 
bootstrapping đối với các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa như sau:
Thứ nhất, với các doanh nghiệp mới, 
doanh nghiệp hoạt động trong với thời 
gian chưa đến 10 năm, và các doanh 
nghiệp có quy mô nhỏ nên lựa chọn các 
kỹ thuật boostrapping tài chính chủ sở hữu 
thông qua vay vốn từ bạn bè người thân, 
sử dụng nhà riêng làm nơi điều hành doanh 
nghiệp, thuê người thân làm việc với mức 
lương thấp hơn thị trường, đồng thời có 
thể lựa chọn các kỹ thuật boostrapping 
liên quan đến sử dụng chung nguồn lực 
với các doanh nghiệp khác thông qua sử 
dụng chung máy móc thiết bị, lao động, 
hợp tác mua hàng
Thứ hai, với các doanh nghiệp có tỷ lệ 
nợ cao, khả năng sinh lời còn hạn chế nên sử 
dụng các kỹ thuật bootstrapping giảm thiểu 
các khoản phải thu, hoặc bootstrapping 
giảm thiểu nguồn lực (tối thiểu hóa vốn đầu 
tư) như thuê máy móc thiết bị thay vì đầu 
tư mua sắm, thuê lao động tạm thời thay vì 
tuyển dụng lâu dài, mua máy móc thiết bị 
đã qua sử dụng thay vì mua mới
Thứ ba, với các doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực nông – lâm –thủy sản 
nên tìm hiểu các chính sách hỗ trợ của nhà 
nước để được hưởng những ưu đãi, hỗ trợ 
nhằm giảm thiểu chi phí kinh doanh, tăng 
năng lực hoạt động. Ngoài ra, các doanh 
nghiệp mới, doanh nghiệp hoạt động trong 
với thời gian chưa đến 10 năm, và các 
doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên tham gia 
vào hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa 
của tỉnh, thành phố để có thể có thong tin 
và những gợi ý trong quá trình tìm hiểu và 
tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của nhà 
nước nhằm được hưởng những ưu đãi phù 
hợp với tình hình kinh doanh của mình.
Thứ tư, với các doanh nghiệp hoạt động 
với thời gian dài (trên 10 năm trở lên) có 
thể tận dụng các mối quan hệ với các doanh 
nghiệp khác trong việc sử dụng các kỹ thuật 
bootstrapping trì hoãn thanh toán.
Như vậy, ngoài việc mở rộng các 
nghiên cứu trước đây liên quan đến 
mối quan hệ về đặc điểm doanh nghiệp 
với việc sử dụng các kỹ thuật tài chính 
bootstrapping, nghiên cứu này kỳ vọng 
mang đến những gợi ý hữu ích đối với các 
doanh nhân Việt Nam trong quá trình tìm 
kiếm nguồn tài trợ mới phù hợp với đặc 
điểm của từng doanh nghiệp. Cùng với đó, 
tác giả hy vọng các chủ đề nghiên cứu liên 
quan đến các vấn đề xoay quanh tình hình 
sử dụng nguồn tài trợ đặc biệt này sẽ được 
thực hiện một cách đa dạng ở Việt Nam 
trong thời gian tới, bởi vai trò quan trọng 
của bootstrapping đối với các start up, các 
50 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
doanh nghiệp mới thành lập, các doanh 
nghiệp có quy mô nhỏ và vừa đã được 
thừa nhận trong các nghiên cứu quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhide A. (1992) ‘Bootstrap Finance - The Art 
of Start-ups’, Harvard Business Review 70, 109-117.
2. Carter, R. B. & Van Auken, H. (2005), 
‘Bootstrap financing and owner’s perception of 
their business constraints and opportunities’, 
Entrepreneurship & Regional Development, 17, 
March (2005), pp. 129-144.
3. Ebben, J. & Johnson, A. (2006), 
‘Bootstraping in small firms: An empirical 
analysis of change over time’, Journal of Business 
Venturing 21 (2006), pp.851-865.
4. Ebben, J. (2009), ‘Bootstrapping and the 
financial condition of small firms’, International 
Journal of Entrepreneurial Behaviour & Research 
Vol. 15 No. 4, 2009, pp. 346-363.
5. Freear, J., Sohl, J. E. & Wetzel, W. E. (1995), 
Early stage software ventures: what is working 
is not and what Centre for Venture Economies, 
University of New Hampshire, Durham, NH.
6. Grichnik, D., Brinckmann, J., Singh, L. 
& Manigart, S. (2014), ‘Beyond environmental 
scarcity: Hunam and social capital as driving 
forces of bootstrapping activities’, Journal of 
Business Venturing, Vol.29, pp.310-326.
7. Harrison, R., Mason , M., & Girling, 
P. (2004), ‘Financial Bootstrapping and 
venture development in the software industry’, 
Entrepreneurship & Regional Development, 16, 
July (2004), pp. 307-333.
8. Neeley, L. & Van Auken. H. (2009), ‘The 
Relationship between Owner Characteristics and Use 
of Bootstrap Finacing Methods’, Journal of small 
Business and Entrepreurship, 22:4, pp.399-412.
9. Neeley, L. & Van Auken, H. (2010), 
‘Differences between female and male 
entrepreneurs use of bootstrap financing 
methods’, Journal of Developmental 
Entrepreneurship, 15, 19-34.
10. Neeley, L. & Van Auken, H. (2012), 
An examination of Small Firm Bootstrap 
Financing and Use of Debt’, Journal of 
Developmental Entrepreneurship, 17, 
27-39.
11. Perry, J.T., Chandler, G.N., Yao, X. & 
Wolff, J.A. (2011), ‘Bootstrapping Techniques and 
New Venture Emergence’, New England Journal 
of Entrepreneurship, Vol.14, No. 1, pp.35-44.
12. Thorne, J.R. (1989), ‘Alternative financing 
for entrepreneurial ventures’, Entrepreneurship: 
Theory & Practice, 13, 7-9.
13. Van Auken, H. (2003), ‘An Empirical 
Investigation of Bootstrap Fiancing Among Small 
Firms’, Journal of Small Business Strategy Vol.14, 
No.2 Fall/Winter 2003, pp. 22-36.
14. Van Auken, H.(2004), ‘The Use of 
Bootstrap Financing Among Small Technology-
Based Firms’, Journal of Developmental 
Entrepreneurship, 9, 145-159.
15. Van Auken, H. & Carter, R. (1989), 
‘Acquisition of capital by small business’, Journal 
of Small Business Management, 27, 1-9.
16. Van Auken, H. & Neeley, L. (1996), 
‘Evidence of Bootstrap Finacing among Small 
Start-up Firm’, The Journal of Entrepreurial 
Finance, Vol.5(3), pp.235-249.
17. Vandenberg, P. (2003), ‘Adapting to the 
Finacial Landscape: Evidence from Small Firms 
in Nairobi’, World Development Vol.31, No.11, 
pp.1829-1843, 2003.
18. Winborgs, J., & Landstrom H. (2001), 
‘Financial Bootstrapping in small businesses: 
examining small business manager’s resource 
acquisition behaviors’, Journal of Business 
Venturing 16, pp.235-254.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_doanh_nghiep_va_viec_su_dung_cac_ky_thuat_tai_tro_v.pdf