Đặc điểm dịch tễ bất thường thai sản ở Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012-2016

Nghiên cứu nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bất thường thai sản ở Phù Cát giai đoạn 2012 -

2016. Quan sát 12.539 thai đã kết thúc của phụ nữ 15 - 49 tuổi. Kết quả tỷ lệ thai bị bất thường thai sản, bị

sẩy, chết lưu và con dị tật bẩm sinh trên số thai ở Phù Cát lần lượt là 8,05%; 6,32%; 0,57% và 1,17%. Tỷ lệ

bất thường thai sản mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 7,29%; 10,20%; 7,98%; 6,99% và 7,77%

(p-trend > 0,05). Tỷ lệ sẩy thai mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 5,5%; 7,21%; 6,67%; 5,83% và 6,64%

(p-trend > 0,05). Tỷ lệ bất thường thai sản ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 10,92%;

10,31%; 8,68% và 5,62% (p < 0,05).="" tỷ="" lệ="" bất="" thường="" thai="" sản="" ở="" khu="" vực="" từng="" phơi="" nhiễm="" dioxin="" là="" 9,58%="">

vùng còn lại là 7,68% (p < 0,05).="" kết="" luận:="" tỷ="" lệ="" bất="" thường="" thai="" sản="" ở="" phù="" cát="" cao,="" nhất="" là="" ở="" khu="" vực="">

phơi nhiễm với dioxin và không có chiều hướng giảm. Đây là vấn đề y tế công cộng cần được can thiệp.

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm dịch tễ bất thường thai sản ở Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012-2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm dịch tễ bất thường thai sản ở Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012-2016

Đặc điểm dịch tễ bất thường thai sản ở Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012-2016
 84 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BẤT THƯỜNG THAI SẢN 
Ở PHÙ CÁT - BÌNH ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2012 - 2016 
Trương Quang Đạt1, Ngô Văn Toàn2, Bùi Văn Nhơn2 
1Trường Cao đẳng Y tế Bình Định, 2Trường Đại học Y Hà Nội 
Nghiên cứu nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bất thường thai sản ở Phù Cát giai đoạn 2012 -
2016. Quan sát 12.539 thai đã kết thúc của phụ nữ 15 - 49 tuổi. Kết quả tỷ lệ thai bị bất thường thai sản, bị 
sẩy, chết lưu và con dị tật bẩm sinh trên số thai ở Phù Cát lần lượt là 8,05%; 6,32%; 0,57% và 1,17%. Tỷ lệ 
bất thường thai sản mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 7,29%; 10,20%; 7,98%; 6,99% và 7,77% 
(p-trend > 0,05). Tỷ lệ sẩy thai mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 5,5%; 7,21%; 6,67%; 5,83% và 6,64% 
(p-trend > 0,05). Tỷ lệ bất thường thai sản ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 10,92%; 
10,31%; 8,68% và 5,62% (p < 0,05). Tỷ lệ bất thường thai sản ở khu vực từng phơi nhiễm dioxin là 9,58% và 
vùng còn lại là 7,68% (p < 0,05). Kết luận: Tỷ lệ bất thường thai sản ở Phù Cát cao, nhất là ở khu vực từng 
phơi nhiễm với dioxin và không có chiều hướng giảm. Đây là vấn đề y tế công cộng cần được can thiệp. 
Từ khóa: Bất thường thai sản, sẩy thai, thai chết lưu, dị tật bẩm sinh, dioxin, Phù Cát 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cùng với sự phát triển của xã hội, mô hình 
bệnh tật cũng thay đổi. Tỷ lệ các bệnh truyền 
nhiễm giảm, các bệnh không lây nhiễm gia 
tăng; các bệnh lý liên quan đến sinh đẻ chiếm 
tỷ lệ cao trong tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt 
Nam. Bất thường sinh thai sản là hiện tượng 
làm giảm cơ hội sinh ra một đứa trẻ khỏe 
mạnh (không có khả năng có thai, kết thúc 
thai sớm, sinh con dị tật bẩm sinh, chết sơ 
sinh, chậm phát triển trí tuệ, v.v.) [1]. Đây là 
tình trạng bệnh lý thường gặp, ảnh hưởng 
nhiều đến chất lượng cuộc sống, trong đó dị 
tật bẩm sinh, sẩy thai và thai chết lưu thường 
được chú ý. Có nhiều nguyên nhân của bất 
thường sinh thai sản: do di truyền; do tác 
động của các tác nhân bất lợi từ môi trường 
như vật lý, hóa học và sinh vật học là phổ biến 
nhất [2]. Ở Việt Nam, nguyên nhân bất 
thường sinh thai sản do chất độc hóa học 
trong chiến tranh cũng được nhiều tác giả đề 
cập [3 - 7]. 
Phù Cát là một huyện duyên hải miền 
Trung, có đồng bằng và vùng núi, nơi có sân 
bay Phù Cát - được xác định là điểm nóng 
Dioxin ở Việt Nam [8]. Đồng thời các khu vực 
miền núi của huyện cũng là nơi từng bị rải 
chất độc hóa học trong chiến tranh. Năm 
2011, một nghiên cứu tại Phù Cát ghi nhận tỷ 
lệ phụ nữ từng bị sẩy thai, thai chết lưu và 
sinh con dị tật bẩm sinh lần lượt là 9,58%; 
1,29% và 4,38%. Tỷ lệ thai bị sẩy, chết lưu có 
chiều hướng tăng từ năm 1979 đến 2011 [9]. 
Ở Việt Nam, việc ghi nhận thông tin về bất 
thường sinh thai sản còn hạn chế, nên chưa 
có nhiều số liệu dịch tễ học có chất lượng về 
vấn đề sức khỏe này [10]. Các bất thường 
sinh thai sản không được cập nhật liên tục 
nên không đánh giá đúng mức sự phát sinh 
của nó vì thế các biện pháp can thiệp thường 
bị bỏ quên, muộn, hiệu quả thấp, đôi khi để lại 
những biến chứng. Vậy tình hình bất thường 
Địa chỉ liên hệ: Trương Quang Đạt, Trường Cao đẳng Y tế 
Bình Định 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 15/1/2018 
Ngày được chấp thuận: 18/6/2018 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 85 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
sinh thai sản ở Phù Cát từ sau 2011 như thế 
nào? Đây là thông tin dịch tễ học cần thiết để 
có cơ sở lập kế hoạch cũng như hoạch định 
các chính sách y tế nhằm giảm bất thường 
sinh thai sản ở cộng đồng còn ô nhiễm với 
chất độc hóa học trong chiến tranh. Để trả lời 
những vấn đề đặt ra ở trên, đề tài được thực 
hiện nhằm mô tả thực trạng bất thường sinh 
thai sản (sẩy thai, thai chết lưu, dị tật bẩm 
sinh) của phụ nữ độ tuổi 15 - 49 ở huyện Phù 
Cát - Bình Định giai đoạn 2012 - 2016. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Tất cả thai đã kết thúc của phụ nữ từ 15 
đến 49 tuổi đang sinh sống ở huyện Phù Cát 
tỉnh Bình Định từ ngày 1/1/2012 đến hết 
31/12/2016. 
Chúng tôi không tính các trường hợp nạo 
hút thai, phá thai chủ động. 
2. Phương pháp 
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, 
lấy số liệu thứ cấp và sơ cấp. 
- Phương pháp thu thập thông tin 
+ Sử dụng các phiếu ghi nhận bất thường 
sinh thai sản được thiết kế sẵn do chuyên 
trách bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em của từng 
xã cung cấp đối với số liệu sơ cấp.. 
+ Sử dụng thông tin từ báo cáo hoạt động 
chăm sóc sức khỏe trẻ em theo biểu số 4/
BMTE - H theo quy định báo cáo hiện hành 
của Bộ Y tế do Đội Bảo vệ Sức khỏe Bà mẹ 
Trẻ em và Kế hoạch hóa Gia đình của Trung 
tâm Y tế huyện cung cấp đối với số liệu thứ 
cấp.. 
- Cỡ mẫu: Chọn toàn bộ. 
- Chọn mẫu: Chọn mẫu chủ đích. 
- Các biến số chủ yếu: 
+ Bất thường sinh thai sản là sẩy thai hoặc 
thai chết lưu hoặc sinh con dị tật bẩm sinh 
hoặc có hơn một dạng bất thường sinh thai 
sản nêu trên [1]. 
+ Sẩy thai, thai chết lưu được áp dụng 
theo “Hướng dẫn Quốc gia về các Dịch vụ 
Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản” của Bộ Y tế 
(2016) [11]. Theo đó, sẩy thai là trường hợp 
thai và rau bị tống ra khỏi buồng tử cung trước 
22 tuần (tính từ ngày đầu của kỳ kinh cuối; 
Thai chết lưu là thai chết và lưu lại trong 
buồng tử cung của người mẹ, có thể xảy ra ở 
bất kỳ tuổi thai nào khi chưa có chuyển dạ. 
+ Dị tật bẩm sinh là những bất thường về 
cấu trúc, chức năng bao gồm các rối loạn 
chuyển hóa có mặt lúc mới sinh [12]. 
+ Các vùng sinh thái: miền núi gồm các xã 
Cát Sơn, Cát Tài và Cát Hưng, thành thị (thị 
trấn Ngô Mây), ven biển gồm Cát Minh, Cát 
Khánh, Cát Thành, Cát Hải, Cát Tiến và Cát 
Chánh và đồng bằng gồm các xã còn lại của 
huyện. 
+ Điểm nóng dioxin: là địa điểm từng bị 
phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến 
tranh gồm vùng sân bay (xã Cát Tân), vùng 
miền núi. 
3. Xử lý số liệu 
- Số liệu thu thập được xử lý dựa vào phần 
mềm thống kê Stata 12.0. 
- Đơn vị phân tích: số thai. Các trường hợp 
nạo hút thai chủ động, thai trứng không đưa 
vào phân tích số liệu. 
- Để tính các chỉ số, các công thức sau 
được sử dụng: 
Tổng số thai = số trẻ đẻ ra sống + thai chết 
lưu + sẩy thai + thai ngoài tử cung. 
 86 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Tỷ lệ sẩy thai = (số sẩy thai)/(tổng số thai) 
x 100%; Tỷ lệ thai chết lưu = (số thai chết 
lưu)/(tổng số thai) x 100%. 
Tỷ lệ dị tật bẩm sinh = (số con bị dị tật bẩm 
sinh)/(tổng số thai) x 100%. 
Tỷ lệ con bị dị tật bẩm sinh = (số con bị dị 
tật bẩm sinh)/(tổng con sinh	 sống) x 100%. 
Tỷ lệ bất thường sinh thai sản = (số bất 
thường sinh	 sản)/(tổng số thai) x 100%. 
- Mức ý nghĩa thống kê được xác định 
p < 0,05. 
- Phân tích khuynh hướng bất thường sinh 
thai sản. So sánh các tỷ lệ được kiểm định 
bằng các test χ2; Fisher's exact test nếu tần số 
mong đợi dưới 5. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Mọi thông tin đều được mã hóa, đảm bảo 
bí mật. Số liệu chỉ được sử dụng cho mục 
đích nghiên cứu. 
III. KẾT QUẢ 
Từ 2012 đến 2016 có 12.539 thai đã kết 
thúc, trong đó 11.676 trường hợp đẻ ra sống. 
Tỷ lệ trẻ đẻ ra sống/ tổng số thai đã kết thúc là 
93,12%. 
Bảng 1. Phân bố tỷ lệ bất thường thai sản theo thời gian 
Năm 
Số thai 
(12.539) 
Sẩy thai Thai chết lưu Dị tật bẩm sinh 
Bất thường 
thai sản 
n % n % n % n % 
Tổng 792 6,32 71 0,57 147 1,17 1.010 8,05 
2012 2,853 157 5,50 22 0,77 29 1,02 208 7,29 
2013 2,609 188 7,21 24 0,92 54 2,07 266 10,20 
2014 2,369 158 6,67 6 0,25 25 1,06 189 7,98 
2015 2,418 141 5,83 7 0,29 21 0,87 169 6,99 
2016 2,290 148 6,46 12 0,52 18 0,79 178 7,77 
p-trend > 0,05 0,05 
Tỷ lệ sẩy thai: 6,32%; thai chết lưu: 0,55% và sinh con sống bị dị tật: 1,17%. bất thường thai 
sản: 8,05%. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh/tổng số sinh ra sống: 147/11.676 = 1,26%.Tỷ lệ sẩy thai qua 
5 năm lần lượt là 5,5%; 7,21%; 6,67%; 5,83% và 6,64% (p-trend > 0,05). Tỷ lệ sinh con dị tật qua 
các năm lần lượt là 1,02%; 2,07%; 1,06%; 0,87% và 0,79%; có khuynh hướng giảm dần (p - 
trend < 0,05). 
Tỷ lệ sẩy thai ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 8,89%; 9,19%; 6,56% và 
4,42% (p < 0,05) (bảng 2). 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 87 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 2. Phân bố sẩy thai theo các vùng sinh thái 
Vùng 
sinh thái 
Tổng thai 
Sẩy thai Không sẩy thai 
p 
n % n % 
Miền núi 1,428 127 8,89 1,301 91,11 
< 0,05 
Thị trấn 892 82 9,19 810 90,81 
Đồng bằng 6,144 403 6,56 5,741 93,44 
Ven biển 4,075 180 4,42 3,895 95,58 
Tổng 12,539 792 6,32 11,747 93,68 
Bảng 3. Phân bố bất thường thai sản theo các vùng sinh thái 
Vùng 
sinh thái 
Tổng thai 
Bất thường Không bất thường 
p 
n % n % 
Miền núi 1,428 156 10,92 1,272 89,08 
< 0,05 
Thị trấn 892 92 10,31 800 89,69 
Đồng bằng 6,144 533 8,68 5,611 91,32 
Ven biển 4,075 229 5,62 3,846 94,38 
Tổng 12,539 1.010 8,03 11,747 93,68 
Tỷ lệ bất thường thai sản ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 10,92%; 
10,31%; 8,68% và 5,62% (p < 0,05). 
Bảng 4. Phân bố sẩy thai theo khu vực từng phơi nhiễm dioxin 
Khu vực từng phơi 
nhiễm với dioxin 
Tổng thai 
Sẩy thai Không sẩy thai 
p 
n % n % 
Có 2,485 186 7,48 2,299 92,52 
< 0,05 
Không 10,054 606 6,03 9,448 93,97 
Tổng 12,539 792 6,32 11,747 93,68 
Tỷ lệ sẩy thai ở khu vực từng phơi nhiễm dioxin là 7,48% và vùng còn lại là 6,03% (p < 0,05). 
 88 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 5. Phân bố bất thường thai sản theo khu vực từng phơi nhiễm dioxin 
Khu vực từng phơi 
nhiễm với dioxin 
Tổng 
thai 
Bất thường Không bất thường 
p 
n % n % 
Có 2,485 238 9,58 2,247 90,42 
< 0,05 
Không 10,054 772 7,68 9,282 92,32 
Tổng 12,539 1,010 8,05 11,529 91,95 
Tỷ lệ bất thường thai sản ở khu vực từng phơi nhiễm dioxin là 9,58% và vùng còn lại là 7,68% 
(p < 0,05). 
IV. BÀN LUẬN 
Nghiên cứu ghi nhận 12.539 thai đã kết 
thúc, số trẻ đẻ ra sống là 11.676; tỷ lệ đẻ ra 
sống/số thai đã kết thúc là 93,12%; tương 
đương với kết quả theo dõi dọc bất thường 
thai sản tại Phù Cát giai đoạn 2012 - 2013 đã 
ghi nhận tỷ lệ đẻ ra sống/số thai đã kết thúc là 
93,6% [10]. Có 1.010 thai bị bất thường thai 
sản (sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh) 
chiếm 8,05%. Thai bị bất thường thai sản 
trong nghiên cứu này khá cao khi so sánh với 
kết quả nghiên cứu tại Phù Cát năm 2002 và 
năm 2011 [4; 9]. 
Tỷ lệ sẩy thai 6,32%; thấp hơn tỷ lệ sẩy 
thai tại một số địa điểm nghiên cứu khác mà ở 
đó đối tượng được chọn là phơi nhiễm với 
chất độc hóa học trong chiến tranh; nhưng 
cao hơn so với điều tra trước đó ở Phù Cát, 
Thanh Khê - Đà Nẵng và Thái Bình [4; 9]. Như 
vậy, tần số sẩy thai ở Phù Cát không giảm so 
với giai đoạn trước đó. Thanh Khê có sân bay 
Đà Nẵng và cũng được xác định là điểm nóng 
Dioxin [8]. Mặt khác, người dân ở Thanh Khê - 
Đà Nẵng dùng các loại thực phẩm khác nhau, 
trong đó phần quan trọng là cá biển; người 
dân ở Phù Cát thường ăn cá nước ngọt từ hồ, 
ao chiếm phần lớn nên nguy cơ phơi nhiễm 
với chất độc hóa học trong chiến tranh trong 
chuỗi thức ăn có thể cao, có thể là lý do làm 
tần số sẩy thai cao hơn ở Phù Cát so với 
Thanh Khê và Thái Bình. 
Tỷ lệ thai chết lưu tại Phù Cát giai đoạn 
2012 - 2016 là 0,57% thấp hơn so với điều tra 
ở Phù Cát, Thanh Khê - Đà Nẵng và Thái 
Bình năm 2002. Sự khác biệt này có thể do 
sự cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe sinh 
sản ở Phù Cát và sự phát triển kinh tế - xã hội 
của địa phương trong những năm gần đây. 
Tỷ lệ dị tật bẩm sinh trên số thai là 1,17%; 
trên số trẻ sinh sống là 1,26%. Con của cựu 
chiến binh đã xác định có tiếp xúc với chất 
độc hóa học trong chiến tranh ở chiến trường 
miền Nam có tỷ lệ dị tật bẩm sinh là 2,3% và 
2,6% cao hơn so với kết quả của chúng tôi [5; 
6]. Tần số dị tật bẩm sinh ở Phù Cát trong 
nghiên cứu này đều thấp hơn so với các 
nghiên cứu trước đây ở Phù Cát,Thanh Khê - 
Đà Nẵng và Thái Bình [4; 9]. Sự khác biệt này 
có thể do sự cải thiện kinh tế - xã hội của địa 
phương, sự cải thiện công tác chăm sóc sức 
khỏe nói chung và sinh sản nói riêng ở Phù 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 89 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Cát đặc biệt là triển khai chẩn đoán trước 
sinh, kết thúc sớm thai bị dị tật cũng có thể 
góp phần làm giảm tần số trẻ đẻ sống dị tật 
bẩm sinh. Hơn nữa, nghiên cứu vào năm 
2002, 2011, các tác giả chọn mẫu có chủ đích 
gồm 8 xã xung quanh sân bay và khu vực 
miền núi được cho là phơi nhiễm với chất độc 
hóa học trong chiến tranh và chọn mẫu xác 
suất trong khi nghiên cứu này mẫu toàn bộ 
được sử dụng [4; 9]. 
Tỷ lệ bất thường thai sản (8,05%) là khá 
cao và ít thay đổi trong khoảng thời gian từ 
2012 đến 2016. Giai đoạn trước đó, bất 
thường thai sản ở Phù Cát có khuynh hướng 
tăng dần, trong đó từ 1979 - 1992 tỷ lệ này là 
5,26%; từ 1992 - 2001 là 6,32% và từ 2002 - 
2011 là 7,94% [10]. 
Tỷ lệ sẩy thai chung (6,32%) cũng khá cao 
và cũng ít thay đổi trong khoảng thời gian từ 
2012 đến 2016. Giai đoạn 1979 - 1992 tỷ lệ 
này là 3,41%; từ 1992 - 2001 là 3,87% và từ 
2002 - 2011 là 5,72% [10]. Có thể đang tồn tại 
những yếu tố nguy cơ sẩy thai ở Phù Cát như 
ô nhiễm chất độc hóa học trong chiến tranh, ô 
nhiễm môi trường; hơn nữa, các phương 
pháp phát hiện có thai sớm, chết thai sớm 
như dùng que thử nước tiểu được sử dụng 
trong thời gian gần đây có thể làm tăng khả 
năng phát hiện sẩy thai. 
Tỷ lệ thai chết lưu (0,57%) có khuynh 
hướng giảm từ 2012 - 2016. Đây có thể là kết 
quả của sự cải thiện hệ thống y tế, mức sống 
và chăm sóc trước sinh. 
Khuynh hướng dị tật bẩm sinh trên số thai 
ở Phù Cát trong giai đoạn 2012 - 2016 giảm 
dần. Một nghiên cứu trước đó cho thấy tỷ lệ dị 
tật bẩm sinh giai đoạn 1979 - 1992 là 1,56%; 
1992 - 2001 là 2% và 2002 - 2011 là 1,48% 
[10]. Đây có thể là kết quả của các can thiệp 
giảm bất thường thai sản như chương trình tư 
vấn di truyền, chẩn đoán trước sinh, chấm dứt 
sớm thai dị tật mà Phù Cát đã thực hiện trong 
những năm gần đây. 
Bất thường thai sản có các nguyên nhân 
chung nhưng cũng có các nguyên nhân đặc 
thù riêng của từng dạng bất thường thai sản, 
phôi thai còn sống sót cho đến khi được sinh 
ra bị dị tật bẩm sinh là một phần nhỏ của 
những phôi thai bất thường [12]. Những thai 
nhi bị dị tật cũng là nguyên nhân của sẩy thai, 
thai chết lưu và dị tật bẩm sinh; vì thế mô hình 
thay đổi tỷ lệ từng dạng bất thường thai sản 
có khuynh hướng không đồng nhất nhưng 
chung cho cả 3 dạng bất thường thai sản thì 
có chiều hướng ít thay đổi. 
Theo đặc điểm địa lý, huyện Phù Cát được 
chia thành 4 vùng sinh thái đó là thành thị, 
miền núi, ven biển và đồng bằng. Ghi nhận có 
sự khác biệt về tỷ lệ bất thường thai sản và 
sẩy thai giữa các vùng sinh thái. Tỷ lệ bất 
thường thai sản cao nhất ở miền núi (10,92%) 
và tỷ lệ sẩy thai cao nhất ở thành thị (9,19%) 
và vùng miền núi (8,89%). Tỷ lệ bất thường 
thai sản và sẩy thai thấp nhất ở vùng ven 
biển. Kết quả gợi ý có sự liên quan giữa các 
vùng sinh thái và bất thường thai sản. 
Xét về mặt lịch sử và địa lý, huyện Phù Cát 
được phân thành 2 khu vực: khu vực đã từng 
phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến 
tranh (gọi là điểm nóng dioxin) là vùng sân 
bay (xã Cát Tân) và các xã miền núi của 
huyện Phù Cát (nơi từng bị rải chất độc hóa 
học trong chiến tranh) và khu vực khác là các 
địa phương còn lại. Ghi nhận tỷ lệ bất thường 
thai sản và sẩy thai ở điểm nóng lần lượt là 
9,58% và 7,48% cao hơn so với nhóm còn lại. 
Như vậy sống ở vùng từng phơi nhiễm với 
dioxin gợi ý có liên quan đến sẩy thai. Bảng 5 
 90 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
cho thấy tỷ lệ sẩy thai ở điểm nóng 7,48% (tỷ 
lệ này rất cao so với một số vùng miền khác 
[4]). Phải chăng huyện Phù Cát - Bình Định, 
trong thời gian chiến tranh bị rải chất độc hóa 
học trong chiến tranh với mật độ rất cao nhất 
là vùng núi, đồng thời lại có sân bay Phù Cát 
là nơi chứa chất da cam/Dioxin là nguyên 
nhân chính của thực trạng này. Dioxin có thể 
phơi nhiễm đến con người ở chung quanh 
bằng nhiều con đường khác nhau như sữa 
mẹ, thực phẩm [13; 14]. 
Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng nguồn số 
liệu thứ cấp và dựa vào các báo cáo của các 
chuyên trách từ trạm y tế xã nên có một số số 
liệu có thể bị bỏ sót và không được báo cáo 
đầy đủ; đây là hạn chế của nghiên cứu. 
V. KẾT LUẬN 
Tỷ lệ bất thường thai sản ở Phù Cát giai 
đoạn 2012 - 2016 là 8,05% là khá cao và ít 
thay đổi trong giai đoạn 2012 - 2016. Tỷ lệ bất 
thường thai sản rất cao ở khu vực từng phơi 
nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh. 
Đây là vấn đề y tế công cộng cần được can 
thiệp. 
Lời cám ơn 
Nhóm tác giả chúng tôi chân thành cảm ơn 
Cố Giáo sư, Tiến sĩ Trịnh Văn Bảo đã cho 
chúng tôi ý tưởng để thực hiện nghiên cứu; 
cảm ơn Trung tâm Y tế huyện Phù Cát đã tạo 
điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực hiện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Institute of Medicine (1995). Adverse 
Reproductive Outcomes in Families of Atomic 
Veterans: The Feasibility of Epidemiologic 
Studies. National Academy Press, Washington 
D. C., 42 - 43. 
2. Petrozza J. C. and Barbara O'Brien 
(2011). Recurrent Early Pregnancy Loss. 
eMedicine Medical Textbooks. 
3. Hội nghị khoa học Việt - Mỹ về ảnh 
hưởng của chất độc da cam/ Dioxin lên 
sức khỏe con người và môi trường (2002). 
Báo cáo toàn văn các công trình khoa học tại 
Hội nghị khoa học Việt - Mỹ, Hà Nội. 
4. Trịnh Văn Bảo (2006). Tư vấn di truyền: 
biện pháp hạn chế sinh con dị tật bẩm 
sinh.Tạp chí độc học, 2, 14-21. 
5. Cung Bỉnh Trung (1983). Tình hình sẩy 
thai tự nhiên và những dị tật bẩm sinh ở một 
số xã bị rải chất độc hoá học trong huyện 
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, Việt Nam. Hội thảo 
quốc tế về tác động lâu dài của chiến tranh 
hoá học ở Việt Nam. Tập III, 95 - 99. 
6. Lê Cao Đài (1993). Điều tra tình hình 
biến chứng sinh sản và dị tật bẩm sinh ở gia 
đình cựu chiến binh huyện Việt Yên - Hà Bắc, 
Chất diệt cỏ trong chiến tranh, tác hại lâu dài 
đối với con người và thiên nhiên. Hội thảo 
quốc tế lần thứ II. 224 - 232. 
7. Tôn Đức Lang, Đỗ Đức Vân, Tôn Thất 
Tùng (1983). Tác dụng gây đột biến của các 
chất diệt cỏ lên thế hệ thứ hai. Hội thảo quốc 
tế về tác động lâu dài của chiến tranh hoá học 
ở Việt Nam. Tập III, 88 - 94. 
8. U.S. - Vietnam Dialogue Group on 
Agent Orange/Dioxin 2010 - 2019 (2012). 
Declaration and plan of action. 
9. Trương Quang Đạt, Trần Đức Phấn, 
Ngô Văn Toàn (2013). Tỷ lệ sẩy thai, thai chết 
lưu và dị tật bẩm sinh ở huyện Phù Cát - Bình 
Định. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 81(1), 98 - 
103. 
10. Trương Quang Đạt, Trần Đức Phấn, 
Ngô Văn Toàn (2014). Kết quả ghi nhận bất 
thường thai sản dựa vào y tế cơ sở ở huyện 
Phù Cát - Bình Định. Tạp chí Y học Việt Nam. 
419(1), 54 - 58. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 91 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
11. Bộ Y tế (2016). Hướng dẫn Quốc gia 
về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, 
Hà Nội. 
12. Christianson A. D (2006). Global Re-
port on Birth Defects, March of Dimes. 
13. Nhu D. D (2009). A GIS study of dioxin 
contamination in a Vietnamese region sprayed 
with herbicide. Environ Health, Prev Med. 14
(6), 353 - 360. 
14. Tuyet Hanh T. T (2010). Environ-
mental health risk assessment of dioxin expo-
sure through foods in a dioxin hot spot - Bien 
Hoa City, Vietnam. Int. J. Environ. Res. Public 
Health, 7(5), 2395 - 406. 
Summary 
EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERISTICS OF ADVERSE PREGNANCY 
OUTCOMES IN PHU CAT - BINH DINH FOR THE PERIOD 2012 - 2016 
The aim of the study was to describe some epidemiological characteristics of adverse preg-
nancy outcomes in Phu Cat for the period 2012 - 2016. There were 12,539 ended pregnancies 
among women aged from 15 to 49 during the period. Findings of the study: The proportion of 
adverse pregnancy outcomes, spontaneous abortions, stillbirths and birth defects per pregnancies 
in Phu Cat for the period 2012 - 2016 was 8.05%, 6.32%, 0.57% and 1.17%, respectively. The 
proportion of adverse pregnancy outcomes for each year from 2012 to 2016 was 7.29%, 10.20%, 
7.98%, 6.99% and 7.77%, respectively (p - trend > 0.05). The proportion of spontaneous abor-
tions for each year from 2012 to 2016 was 5.5%, 7.21%, 6.67%, 5.83% and 6.64%, respectively 
(p - trend > 0.05). The proportion of adverse pregnancy outcomes in mountainous areas, towns, 
plains and coastal areas was 10.92%, 10.31%, 8.68% and 5.62%, respectively (p < 0.05). The 
proportion of adverse pregnancy outcomes at the areas exposed to dioxin contamination was 
9.58% and at the rest was 7.68% (p < 0.05). Conclusion: The proportion of adverse pregnancy 
outcomes is high and there is little sign of decline. Adverse pregnancy outcomes are critically high 
at the areas exposed to dioxin contamination. This has constituted a major problem to public 
health and intervention is of great necessity. 
Keywords: Adverse pregnancy outcomes, spontaneous abortions, stillbirths, birth defects, 
dioxin, Phu Cat 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_dich_te_bat_thuong_thai_san_o_phu_cat_binh_dinh_gia.pdf