Đặc điểm dịch tễ bất thường thai sản ở Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012-2016
Nghiên cứu nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bất thường thai sản ở Phù Cát giai đoạn 2012 -
2016. Quan sát 12.539 thai đã kết thúc của phụ nữ 15 - 49 tuổi. Kết quả tỷ lệ thai bị bất thường thai sản, bị
sẩy, chết lưu và con dị tật bẩm sinh trên số thai ở Phù Cát lần lượt là 8,05%; 6,32%; 0,57% và 1,17%. Tỷ lệ
bất thường thai sản mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 7,29%; 10,20%; 7,98%; 6,99% và 7,77%
(p-trend > 0,05). Tỷ lệ sẩy thai mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 5,5%; 7,21%; 6,67%; 5,83% và 6,64%
(p-trend > 0,05). Tỷ lệ bất thường thai sản ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 10,92%;
10,31%; 8,68% và 5,62% (p < 0,05).="" tỷ="" lệ="" bất="" thường="" thai="" sản="" ở="" khu="" vực="" từng="" phơi="" nhiễm="" dioxin="" là="" 9,58%="">
vùng còn lại là 7,68% (p < 0,05).="" kết="" luận:="" tỷ="" lệ="" bất="" thường="" thai="" sản="" ở="" phù="" cát="" cao,="" nhất="" là="" ở="" khu="" vực="">
phơi nhiễm với dioxin và không có chiều hướng giảm. Đây là vấn đề y tế công cộng cần được can thiệp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm dịch tễ bất thường thai sản ở Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012-2016

84 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BẤT THƯỜNG THAI SẢN Ở PHÙ CÁT - BÌNH ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2012 - 2016 Trương Quang Đạt1, Ngô Văn Toàn2, Bùi Văn Nhơn2 1Trường Cao đẳng Y tế Bình Định, 2Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu nhằm mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bất thường thai sản ở Phù Cát giai đoạn 2012 - 2016. Quan sát 12.539 thai đã kết thúc của phụ nữ 15 - 49 tuổi. Kết quả tỷ lệ thai bị bất thường thai sản, bị sẩy, chết lưu và con dị tật bẩm sinh trên số thai ở Phù Cát lần lượt là 8,05%; 6,32%; 0,57% và 1,17%. Tỷ lệ bất thường thai sản mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 7,29%; 10,20%; 7,98%; 6,99% và 7,77% (p-trend > 0,05). Tỷ lệ sẩy thai mỗi năm từ 2012 đến 2016 lần lượt là 5,5%; 7,21%; 6,67%; 5,83% và 6,64% (p-trend > 0,05). Tỷ lệ bất thường thai sản ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 10,92%; 10,31%; 8,68% và 5,62% (p < 0,05). Tỷ lệ bất thường thai sản ở khu vực từng phơi nhiễm dioxin là 9,58% và vùng còn lại là 7,68% (p < 0,05). Kết luận: Tỷ lệ bất thường thai sản ở Phù Cát cao, nhất là ở khu vực từng phơi nhiễm với dioxin và không có chiều hướng giảm. Đây là vấn đề y tế công cộng cần được can thiệp. Từ khóa: Bất thường thai sản, sẩy thai, thai chết lưu, dị tật bẩm sinh, dioxin, Phù Cát I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển của xã hội, mô hình bệnh tật cũng thay đổi. Tỷ lệ các bệnh truyền nhiễm giảm, các bệnh không lây nhiễm gia tăng; các bệnh lý liên quan đến sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao trong tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Bất thường sinh thai sản là hiện tượng làm giảm cơ hội sinh ra một đứa trẻ khỏe mạnh (không có khả năng có thai, kết thúc thai sớm, sinh con dị tật bẩm sinh, chết sơ sinh, chậm phát triển trí tuệ, v.v.) [1]. Đây là tình trạng bệnh lý thường gặp, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống, trong đó dị tật bẩm sinh, sẩy thai và thai chết lưu thường được chú ý. Có nhiều nguyên nhân của bất thường sinh thai sản: do di truyền; do tác động của các tác nhân bất lợi từ môi trường như vật lý, hóa học và sinh vật học là phổ biến nhất [2]. Ở Việt Nam, nguyên nhân bất thường sinh thai sản do chất độc hóa học trong chiến tranh cũng được nhiều tác giả đề cập [3 - 7]. Phù Cát là một huyện duyên hải miền Trung, có đồng bằng và vùng núi, nơi có sân bay Phù Cát - được xác định là điểm nóng Dioxin ở Việt Nam [8]. Đồng thời các khu vực miền núi của huyện cũng là nơi từng bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh. Năm 2011, một nghiên cứu tại Phù Cát ghi nhận tỷ lệ phụ nữ từng bị sẩy thai, thai chết lưu và sinh con dị tật bẩm sinh lần lượt là 9,58%; 1,29% và 4,38%. Tỷ lệ thai bị sẩy, chết lưu có chiều hướng tăng từ năm 1979 đến 2011 [9]. Ở Việt Nam, việc ghi nhận thông tin về bất thường sinh thai sản còn hạn chế, nên chưa có nhiều số liệu dịch tễ học có chất lượng về vấn đề sức khỏe này [10]. Các bất thường sinh thai sản không được cập nhật liên tục nên không đánh giá đúng mức sự phát sinh của nó vì thế các biện pháp can thiệp thường bị bỏ quên, muộn, hiệu quả thấp, đôi khi để lại những biến chứng. Vậy tình hình bất thường Địa chỉ liên hệ: Trương Quang Đạt, Trường Cao đẳng Y tế Bình Định Email: [email protected] Ngày nhận: 15/1/2018 Ngày được chấp thuận: 18/6/2018 TCNCYH 114 (5) - 2018 85 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC sinh thai sản ở Phù Cát từ sau 2011 như thế nào? Đây là thông tin dịch tễ học cần thiết để có cơ sở lập kế hoạch cũng như hoạch định các chính sách y tế nhằm giảm bất thường sinh thai sản ở cộng đồng còn ô nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh. Để trả lời những vấn đề đặt ra ở trên, đề tài được thực hiện nhằm mô tả thực trạng bất thường sinh thai sản (sẩy thai, thai chết lưu, dị tật bẩm sinh) của phụ nữ độ tuổi 15 - 49 ở huyện Phù Cát - Bình Định giai đoạn 2012 - 2016. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Tất cả thai đã kết thúc của phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi đang sinh sống ở huyện Phù Cát tỉnh Bình Định từ ngày 1/1/2012 đến hết 31/12/2016. Chúng tôi không tính các trường hợp nạo hút thai, phá thai chủ động. 2. Phương pháp - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, lấy số liệu thứ cấp và sơ cấp. - Phương pháp thu thập thông tin + Sử dụng các phiếu ghi nhận bất thường sinh thai sản được thiết kế sẵn do chuyên trách bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em của từng xã cung cấp đối với số liệu sơ cấp.. + Sử dụng thông tin từ báo cáo hoạt động chăm sóc sức khỏe trẻ em theo biểu số 4/ BMTE - H theo quy định báo cáo hiện hành của Bộ Y tế do Đội Bảo vệ Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em và Kế hoạch hóa Gia đình của Trung tâm Y tế huyện cung cấp đối với số liệu thứ cấp.. - Cỡ mẫu: Chọn toàn bộ. - Chọn mẫu: Chọn mẫu chủ đích. - Các biến số chủ yếu: + Bất thường sinh thai sản là sẩy thai hoặc thai chết lưu hoặc sinh con dị tật bẩm sinh hoặc có hơn một dạng bất thường sinh thai sản nêu trên [1]. + Sẩy thai, thai chết lưu được áp dụng theo “Hướng dẫn Quốc gia về các Dịch vụ Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản” của Bộ Y tế (2016) [11]. Theo đó, sẩy thai là trường hợp thai và rau bị tống ra khỏi buồng tử cung trước 22 tuần (tính từ ngày đầu của kỳ kinh cuối; Thai chết lưu là thai chết và lưu lại trong buồng tử cung của người mẹ, có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi thai nào khi chưa có chuyển dạ. + Dị tật bẩm sinh là những bất thường về cấu trúc, chức năng bao gồm các rối loạn chuyển hóa có mặt lúc mới sinh [12]. + Các vùng sinh thái: miền núi gồm các xã Cát Sơn, Cát Tài và Cát Hưng, thành thị (thị trấn Ngô Mây), ven biển gồm Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải, Cát Tiến và Cát Chánh và đồng bằng gồm các xã còn lại của huyện. + Điểm nóng dioxin: là địa điểm từng bị phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh gồm vùng sân bay (xã Cát Tân), vùng miền núi. 3. Xử lý số liệu - Số liệu thu thập được xử lý dựa vào phần mềm thống kê Stata 12.0. - Đơn vị phân tích: số thai. Các trường hợp nạo hút thai chủ động, thai trứng không đưa vào phân tích số liệu. - Để tính các chỉ số, các công thức sau được sử dụng: Tổng số thai = số trẻ đẻ ra sống + thai chết lưu + sẩy thai + thai ngoài tử cung. 86 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỷ lệ sẩy thai = (số sẩy thai)/(tổng số thai) x 100%; Tỷ lệ thai chết lưu = (số thai chết lưu)/(tổng số thai) x 100%. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh = (số con bị dị tật bẩm sinh)/(tổng số thai) x 100%. Tỷ lệ con bị dị tật bẩm sinh = (số con bị dị tật bẩm sinh)/(tổng con sinh sống) x 100%. Tỷ lệ bất thường sinh thai sản = (số bất thường sinh sản)/(tổng số thai) x 100%. - Mức ý nghĩa thống kê được xác định p < 0,05. - Phân tích khuynh hướng bất thường sinh thai sản. So sánh các tỷ lệ được kiểm định bằng các test χ2; Fisher's exact test nếu tần số mong đợi dưới 5. 4. Đạo đức nghiên cứu Mọi thông tin đều được mã hóa, đảm bảo bí mật. Số liệu chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ Từ 2012 đến 2016 có 12.539 thai đã kết thúc, trong đó 11.676 trường hợp đẻ ra sống. Tỷ lệ trẻ đẻ ra sống/ tổng số thai đã kết thúc là 93,12%. Bảng 1. Phân bố tỷ lệ bất thường thai sản theo thời gian Năm Số thai (12.539) Sẩy thai Thai chết lưu Dị tật bẩm sinh Bất thường thai sản n % n % n % n % Tổng 792 6,32 71 0,57 147 1,17 1.010 8,05 2012 2,853 157 5,50 22 0,77 29 1,02 208 7,29 2013 2,609 188 7,21 24 0,92 54 2,07 266 10,20 2014 2,369 158 6,67 6 0,25 25 1,06 189 7,98 2015 2,418 141 5,83 7 0,29 21 0,87 169 6,99 2016 2,290 148 6,46 12 0,52 18 0,79 178 7,77 p-trend > 0,05 0,05 Tỷ lệ sẩy thai: 6,32%; thai chết lưu: 0,55% và sinh con sống bị dị tật: 1,17%. bất thường thai sản: 8,05%. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh/tổng số sinh ra sống: 147/11.676 = 1,26%.Tỷ lệ sẩy thai qua 5 năm lần lượt là 5,5%; 7,21%; 6,67%; 5,83% và 6,64% (p-trend > 0,05). Tỷ lệ sinh con dị tật qua các năm lần lượt là 1,02%; 2,07%; 1,06%; 0,87% và 0,79%; có khuynh hướng giảm dần (p - trend < 0,05). Tỷ lệ sẩy thai ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 8,89%; 9,19%; 6,56% và 4,42% (p < 0,05) (bảng 2). TCNCYH 114 (5) - 2018 87 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Phân bố sẩy thai theo các vùng sinh thái Vùng sinh thái Tổng thai Sẩy thai Không sẩy thai p n % n % Miền núi 1,428 127 8,89 1,301 91,11 < 0,05 Thị trấn 892 82 9,19 810 90,81 Đồng bằng 6,144 403 6,56 5,741 93,44 Ven biển 4,075 180 4,42 3,895 95,58 Tổng 12,539 792 6,32 11,747 93,68 Bảng 3. Phân bố bất thường thai sản theo các vùng sinh thái Vùng sinh thái Tổng thai Bất thường Không bất thường p n % n % Miền núi 1,428 156 10,92 1,272 89,08 < 0,05 Thị trấn 892 92 10,31 800 89,69 Đồng bằng 6,144 533 8,68 5,611 91,32 Ven biển 4,075 229 5,62 3,846 94,38 Tổng 12,539 1.010 8,03 11,747 93,68 Tỷ lệ bất thường thai sản ở miền núi, thị trấn, đồng bằng và ven biển lần lượt là 10,92%; 10,31%; 8,68% và 5,62% (p < 0,05). Bảng 4. Phân bố sẩy thai theo khu vực từng phơi nhiễm dioxin Khu vực từng phơi nhiễm với dioxin Tổng thai Sẩy thai Không sẩy thai p n % n % Có 2,485 186 7,48 2,299 92,52 < 0,05 Không 10,054 606 6,03 9,448 93,97 Tổng 12,539 792 6,32 11,747 93,68 Tỷ lệ sẩy thai ở khu vực từng phơi nhiễm dioxin là 7,48% và vùng còn lại là 6,03% (p < 0,05). 88 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 5. Phân bố bất thường thai sản theo khu vực từng phơi nhiễm dioxin Khu vực từng phơi nhiễm với dioxin Tổng thai Bất thường Không bất thường p n % n % Có 2,485 238 9,58 2,247 90,42 < 0,05 Không 10,054 772 7,68 9,282 92,32 Tổng 12,539 1,010 8,05 11,529 91,95 Tỷ lệ bất thường thai sản ở khu vực từng phơi nhiễm dioxin là 9,58% và vùng còn lại là 7,68% (p < 0,05). IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu ghi nhận 12.539 thai đã kết thúc, số trẻ đẻ ra sống là 11.676; tỷ lệ đẻ ra sống/số thai đã kết thúc là 93,12%; tương đương với kết quả theo dõi dọc bất thường thai sản tại Phù Cát giai đoạn 2012 - 2013 đã ghi nhận tỷ lệ đẻ ra sống/số thai đã kết thúc là 93,6% [10]. Có 1.010 thai bị bất thường thai sản (sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh) chiếm 8,05%. Thai bị bất thường thai sản trong nghiên cứu này khá cao khi so sánh với kết quả nghiên cứu tại Phù Cát năm 2002 và năm 2011 [4; 9]. Tỷ lệ sẩy thai 6,32%; thấp hơn tỷ lệ sẩy thai tại một số địa điểm nghiên cứu khác mà ở đó đối tượng được chọn là phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh; nhưng cao hơn so với điều tra trước đó ở Phù Cát, Thanh Khê - Đà Nẵng và Thái Bình [4; 9]. Như vậy, tần số sẩy thai ở Phù Cát không giảm so với giai đoạn trước đó. Thanh Khê có sân bay Đà Nẵng và cũng được xác định là điểm nóng Dioxin [8]. Mặt khác, người dân ở Thanh Khê - Đà Nẵng dùng các loại thực phẩm khác nhau, trong đó phần quan trọng là cá biển; người dân ở Phù Cát thường ăn cá nước ngọt từ hồ, ao chiếm phần lớn nên nguy cơ phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh trong chuỗi thức ăn có thể cao, có thể là lý do làm tần số sẩy thai cao hơn ở Phù Cát so với Thanh Khê và Thái Bình. Tỷ lệ thai chết lưu tại Phù Cát giai đoạn 2012 - 2016 là 0,57% thấp hơn so với điều tra ở Phù Cát, Thanh Khê - Đà Nẵng và Thái Bình năm 2002. Sự khác biệt này có thể do sự cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở Phù Cát và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong những năm gần đây. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh trên số thai là 1,17%; trên số trẻ sinh sống là 1,26%. Con của cựu chiến binh đã xác định có tiếp xúc với chất độc hóa học trong chiến tranh ở chiến trường miền Nam có tỷ lệ dị tật bẩm sinh là 2,3% và 2,6% cao hơn so với kết quả của chúng tôi [5; 6]. Tần số dị tật bẩm sinh ở Phù Cát trong nghiên cứu này đều thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây ở Phù Cát,Thanh Khê - Đà Nẵng và Thái Bình [4; 9]. Sự khác biệt này có thể do sự cải thiện kinh tế - xã hội của địa phương, sự cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe nói chung và sinh sản nói riêng ở Phù TCNCYH 114 (5) - 2018 89 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Cát đặc biệt là triển khai chẩn đoán trước sinh, kết thúc sớm thai bị dị tật cũng có thể góp phần làm giảm tần số trẻ đẻ sống dị tật bẩm sinh. Hơn nữa, nghiên cứu vào năm 2002, 2011, các tác giả chọn mẫu có chủ đích gồm 8 xã xung quanh sân bay và khu vực miền núi được cho là phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh và chọn mẫu xác suất trong khi nghiên cứu này mẫu toàn bộ được sử dụng [4; 9]. Tỷ lệ bất thường thai sản (8,05%) là khá cao và ít thay đổi trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. Giai đoạn trước đó, bất thường thai sản ở Phù Cát có khuynh hướng tăng dần, trong đó từ 1979 - 1992 tỷ lệ này là 5,26%; từ 1992 - 2001 là 6,32% và từ 2002 - 2011 là 7,94% [10]. Tỷ lệ sẩy thai chung (6,32%) cũng khá cao và cũng ít thay đổi trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. Giai đoạn 1979 - 1992 tỷ lệ này là 3,41%; từ 1992 - 2001 là 3,87% và từ 2002 - 2011 là 5,72% [10]. Có thể đang tồn tại những yếu tố nguy cơ sẩy thai ở Phù Cát như ô nhiễm chất độc hóa học trong chiến tranh, ô nhiễm môi trường; hơn nữa, các phương pháp phát hiện có thai sớm, chết thai sớm như dùng que thử nước tiểu được sử dụng trong thời gian gần đây có thể làm tăng khả năng phát hiện sẩy thai. Tỷ lệ thai chết lưu (0,57%) có khuynh hướng giảm từ 2012 - 2016. Đây có thể là kết quả của sự cải thiện hệ thống y tế, mức sống và chăm sóc trước sinh. Khuynh hướng dị tật bẩm sinh trên số thai ở Phù Cát trong giai đoạn 2012 - 2016 giảm dần. Một nghiên cứu trước đó cho thấy tỷ lệ dị tật bẩm sinh giai đoạn 1979 - 1992 là 1,56%; 1992 - 2001 là 2% và 2002 - 2011 là 1,48% [10]. Đây có thể là kết quả của các can thiệp giảm bất thường thai sản như chương trình tư vấn di truyền, chẩn đoán trước sinh, chấm dứt sớm thai dị tật mà Phù Cát đã thực hiện trong những năm gần đây. Bất thường thai sản có các nguyên nhân chung nhưng cũng có các nguyên nhân đặc thù riêng của từng dạng bất thường thai sản, phôi thai còn sống sót cho đến khi được sinh ra bị dị tật bẩm sinh là một phần nhỏ của những phôi thai bất thường [12]. Những thai nhi bị dị tật cũng là nguyên nhân của sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh; vì thế mô hình thay đổi tỷ lệ từng dạng bất thường thai sản có khuynh hướng không đồng nhất nhưng chung cho cả 3 dạng bất thường thai sản thì có chiều hướng ít thay đổi. Theo đặc điểm địa lý, huyện Phù Cát được chia thành 4 vùng sinh thái đó là thành thị, miền núi, ven biển và đồng bằng. Ghi nhận có sự khác biệt về tỷ lệ bất thường thai sản và sẩy thai giữa các vùng sinh thái. Tỷ lệ bất thường thai sản cao nhất ở miền núi (10,92%) và tỷ lệ sẩy thai cao nhất ở thành thị (9,19%) và vùng miền núi (8,89%). Tỷ lệ bất thường thai sản và sẩy thai thấp nhất ở vùng ven biển. Kết quả gợi ý có sự liên quan giữa các vùng sinh thái và bất thường thai sản. Xét về mặt lịch sử và địa lý, huyện Phù Cát được phân thành 2 khu vực: khu vực đã từng phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh (gọi là điểm nóng dioxin) là vùng sân bay (xã Cát Tân) và các xã miền núi của huyện Phù Cát (nơi từng bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh) và khu vực khác là các địa phương còn lại. Ghi nhận tỷ lệ bất thường thai sản và sẩy thai ở điểm nóng lần lượt là 9,58% và 7,48% cao hơn so với nhóm còn lại. Như vậy sống ở vùng từng phơi nhiễm với dioxin gợi ý có liên quan đến sẩy thai. Bảng 5 90 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC cho thấy tỷ lệ sẩy thai ở điểm nóng 7,48% (tỷ lệ này rất cao so với một số vùng miền khác [4]). Phải chăng huyện Phù Cát - Bình Định, trong thời gian chiến tranh bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh với mật độ rất cao nhất là vùng núi, đồng thời lại có sân bay Phù Cát là nơi chứa chất da cam/Dioxin là nguyên nhân chính của thực trạng này. Dioxin có thể phơi nhiễm đến con người ở chung quanh bằng nhiều con đường khác nhau như sữa mẹ, thực phẩm [13; 14]. Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng nguồn số liệu thứ cấp và dựa vào các báo cáo của các chuyên trách từ trạm y tế xã nên có một số số liệu có thể bị bỏ sót và không được báo cáo đầy đủ; đây là hạn chế của nghiên cứu. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ bất thường thai sản ở Phù Cát giai đoạn 2012 - 2016 là 8,05% là khá cao và ít thay đổi trong giai đoạn 2012 - 2016. Tỷ lệ bất thường thai sản rất cao ở khu vực từng phơi nhiễm với chất độc hóa học trong chiến tranh. Đây là vấn đề y tế công cộng cần được can thiệp. Lời cám ơn Nhóm tác giả chúng tôi chân thành cảm ơn Cố Giáo sư, Tiến sĩ Trịnh Văn Bảo đã cho chúng tôi ý tưởng để thực hiện nghiên cứu; cảm ơn Trung tâm Y tế huyện Phù Cát đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực hiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Institute of Medicine (1995). Adverse Reproductive Outcomes in Families of Atomic Veterans: The Feasibility of Epidemiologic Studies. National Academy Press, Washington D. C., 42 - 43. 2. Petrozza J. C. and Barbara O'Brien (2011). Recurrent Early Pregnancy Loss. eMedicine Medical Textbooks. 3. Hội nghị khoa học Việt - Mỹ về ảnh hưởng của chất độc da cam/ Dioxin lên sức khỏe con người và môi trường (2002). Báo cáo toàn văn các công trình khoa học tại Hội nghị khoa học Việt - Mỹ, Hà Nội. 4. Trịnh Văn Bảo (2006). Tư vấn di truyền: biện pháp hạn chế sinh con dị tật bẩm sinh.Tạp chí độc học, 2, 14-21. 5. Cung Bỉnh Trung (1983). Tình hình sẩy thai tự nhiên và những dị tật bẩm sinh ở một số xã bị rải chất độc hoá học trong huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, Việt Nam. Hội thảo quốc tế về tác động lâu dài của chiến tranh hoá học ở Việt Nam. Tập III, 95 - 99. 6. Lê Cao Đài (1993). Điều tra tình hình biến chứng sinh sản và dị tật bẩm sinh ở gia đình cựu chiến binh huyện Việt Yên - Hà Bắc, Chất diệt cỏ trong chiến tranh, tác hại lâu dài đối với con người và thiên nhiên. Hội thảo quốc tế lần thứ II. 224 - 232. 7. Tôn Đức Lang, Đỗ Đức Vân, Tôn Thất Tùng (1983). Tác dụng gây đột biến của các chất diệt cỏ lên thế hệ thứ hai. Hội thảo quốc tế về tác động lâu dài của chiến tranh hoá học ở Việt Nam. Tập III, 88 - 94. 8. U.S. - Vietnam Dialogue Group on Agent Orange/Dioxin 2010 - 2019 (2012). Declaration and plan of action. 9. Trương Quang Đạt, Trần Đức Phấn, Ngô Văn Toàn (2013). Tỷ lệ sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh ở huyện Phù Cát - Bình Định. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 81(1), 98 - 103. 10. Trương Quang Đạt, Trần Đức Phấn, Ngô Văn Toàn (2014). Kết quả ghi nhận bất thường thai sản dựa vào y tế cơ sở ở huyện Phù Cát - Bình Định. Tạp chí Y học Việt Nam. 419(1), 54 - 58. TCNCYH 114 (5) - 2018 91 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 11. Bộ Y tế (2016). Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, Hà Nội. 12. Christianson A. D (2006). Global Re- port on Birth Defects, March of Dimes. 13. Nhu D. D (2009). A GIS study of dioxin contamination in a Vietnamese region sprayed with herbicide. Environ Health, Prev Med. 14 (6), 353 - 360. 14. Tuyet Hanh T. T (2010). Environ- mental health risk assessment of dioxin expo- sure through foods in a dioxin hot spot - Bien Hoa City, Vietnam. Int. J. Environ. Res. Public Health, 7(5), 2395 - 406. Summary EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERISTICS OF ADVERSE PREGNANCY OUTCOMES IN PHU CAT - BINH DINH FOR THE PERIOD 2012 - 2016 The aim of the study was to describe some epidemiological characteristics of adverse preg- nancy outcomes in Phu Cat for the period 2012 - 2016. There were 12,539 ended pregnancies among women aged from 15 to 49 during the period. Findings of the study: The proportion of adverse pregnancy outcomes, spontaneous abortions, stillbirths and birth defects per pregnancies in Phu Cat for the period 2012 - 2016 was 8.05%, 6.32%, 0.57% and 1.17%, respectively. The proportion of adverse pregnancy outcomes for each year from 2012 to 2016 was 7.29%, 10.20%, 7.98%, 6.99% and 7.77%, respectively (p - trend > 0.05). The proportion of spontaneous abor- tions for each year from 2012 to 2016 was 5.5%, 7.21%, 6.67%, 5.83% and 6.64%, respectively (p - trend > 0.05). The proportion of adverse pregnancy outcomes in mountainous areas, towns, plains and coastal areas was 10.92%, 10.31%, 8.68% and 5.62%, respectively (p < 0.05). The proportion of adverse pregnancy outcomes at the areas exposed to dioxin contamination was 9.58% and at the rest was 7.68% (p < 0.05). Conclusion: The proportion of adverse pregnancy outcomes is high and there is little sign of decline. Adverse pregnancy outcomes are critically high at the areas exposed to dioxin contamination. This has constituted a major problem to public health and intervention is of great necessity. Keywords: Adverse pregnancy outcomes, spontaneous abortions, stillbirths, birth defects, dioxin, Phu Cat
File đính kèm:
dac_diem_dich_te_bat_thuong_thai_san_o_phu_cat_binh_dinh_gia.pdf