Đặc điểm bệnh lao ở bệnh nhân sau ghép thận

Ở quần thể bệnh nhân ghép tạng, lao là bệnh nhiễm trùng có tỷ lệ mắc và tử vong cao. Nghiên cứu

nhằm mô tả đặc điểm tổn thương lao và nhận xét kết quả điều trị lao ở bệnh nhân sau ghép thận. Nghiên

cứu hồi cứu mô tả trên 663 bệnh nhân được theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu bệnh viện Việt Đức từ 2000 -

2018. Bệnh lao được chẩn đoán theo thực hành thường quy. Ghi nhận đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng,

điều trị và kết quả điều trị. 13/663 bệnh nhân (2,0%) bùng phát lao, trung bình 57,2 ± 29,5 tháng sau ghép.

Các vị trí bị tổn thương lao gồm: phổi 7/13 (53,8%); hạch 3/13 (23,1%); ruột 1/13 (7,7%); đường tiết niệu

1/13 (7,7%); hệ thần kinh trung ương (não) 1/13 (7,7%), đa cơ quan 2/13 (15,4%). 3/13 bệnh nhân (23,1%)

nhiễm lao kháng rifampicin. 1/13 bệnh nhân (7,7%) tử vong do suy hô hấp, 6/13 bệnh nhân (46,1%) khỏi

bệnh, 5/13 bệnh nhân (38,5%) đang điều trị và có đáp ứng tốt. Mặc dù lao ngoài phổi và lao kháng thuốc

khá phổ biến, điều trị có thể đạt kết quả tốt

pdf 7 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm bệnh lao ở bệnh nhân sau ghép thận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm bệnh lao ở bệnh nhân sau ghép thận

Đặc điểm bệnh lao ở bệnh nhân sau ghép thận
 78 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
ĐẶC ĐIỂM BỆNH LAO Ở BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN 
Hà Phan Hải An1,2, Man Thị Thu Hương2, Hoàng Thị Điểm2, Nguyễn Thế Cường2 
1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức 
Ở quần thể bệnh nhân ghép tạng, lao là bệnh nhiễm trùng có tỷ lệ mắc và tử vong cao. Nghiên cứu 
nhằm mô tả đặc điểm tổn thương lao và nhận xét kết quả điều trị lao ở bệnh nhân sau ghép thận. Nghiên 
cứu hồi cứu mô tả trên 663 bệnh nhân được theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu bệnh viện Việt Đức từ 2000 -
2018. Bệnh lao được chẩn đoán theo thực hành thường quy. Ghi nhận đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, 
điều trị và kết quả điều trị. 13/663 bệnh nhân (2,0%) bùng phát lao, trung bình 57,2 ± 29,5 tháng sau ghép. 
Các vị trí bị tổn thương lao gồm: phổi 7/13 (53,8%); hạch 3/13 (23,1%); ruột 1/13 (7,7%); đường tiết niệu 
1/13 (7,7%); hệ thần kinh trung ương (não) 1/13 (7,7%), đa cơ quan 2/13 (15,4%). 3/13 bệnh nhân (23,1%) 
nhiễm lao kháng rifampicin. 1/13 bệnh nhân (7,7%) tử vong do suy hô hấp, 6/13 bệnh nhân (46,1%) khỏi 
bệnh, 5/13 bệnh nhân (38,5%) đang điều trị và có đáp ứng tốt. Mặc dù lao ngoài phổi và lao kháng thuốc 
khá phổ biến, điều trị có thể đạt kết quả tốt. 
Từ khóa: bệnh lao, ghép thận 
Địa chỉ liên hệ: Hà Phan Hải An, Bộ môn Nội Tổng hợp 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 14/6/2018 
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Lao là một trong 10 bệnh gây tử vong 
đứng hàng đầu trên toàn cầu và hầu hết các 
trường hợp tử vong tập trung ở các nước có 
thu nhập thấp và trung bình [1]. Đây là một 
vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn tại các quốc 
gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tại 
Việt Nam, tần suất nhiễm lao trong cộng đồng 
khá cao, ở mức 147/1.000.000 dân (số liệu 
của Ngân hàng thế giới năm 2012). Việt nam 
cũng là một trong những quốc gia đi đầu về 
kiểm soát bệnh lao trong cộng đồng, với các 
hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị rất đầy đủ 
và thường xuyên cập nhật [2]. Trên quần thể 
bệnh nhân ghép tạng, tỷ lệ nhiễm lao còn cao 
hơn dân số chung do nhiều yếu tố thuận lợi và 
làm gia tăng tỷ lệ tử vong. Ở các nước phát 
triển như Tây Ban Nha, tỷ lệ nhiễm lao trên 
bệnh nhân ghép thận là 6,24% so với tỷ lệ 
mắc ở cộng đồng chung là 0,14% [3]. Ấn Độ 
là quốc gia đứng đầu thế giới về tỷ lệ nhiễm 
lao trong cộng đồng, tỉ lệ này sau ghép tạng là 
10 - 20% và có tới 20 - 25% số bệnh nhân 
mắc lao tử vong [4]. Việc phát hiện, theo dõi, 
quản lý và điều trị bệnh lao ở những bệnh 
nhân này rất khó khăn, do việc sử dụng các 
thuốc ức chế miễn dịch sau ghép khiến bệnh 
nhân dễ bị mắc hơn, biểu hiện bệnh phức tạp, 
có thể không điển hình và diễn biến nặng hơn, 
thuốc điều trị lao có thể gây ảnh hưởng tiêu 
cực đến chức năng thận ghép [5]. 
Ở Việt Nam ghép thận được thực hiện từ 
tháng 6/1992. Tuy nhiên cho đến nay, có rất ít 
số liệu về nhiễm lao trên đối tượng bệnh nhân 
ghép thận của Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu 
của chúng tôi được tiến hành với mục tiêu 
sau: 
1. Mô tả đặc điểm tổn thương lao ở bệnh 
nhân sau ghép thận theo dõi tại khoa Thận - 
Lọc máu Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. 
2. Nhận xét kết quả điều trị lao ở nhóm 
bệnh nhân trên. 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 79 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng và phương pháp 
Nghiên cứu hồi cứu mô tả dựa vào hồ sơ 
bệnh án của tất cả các bệnh nhân ghép thận 
được theo dõi định kỳ ngoại trú tại khoa Thận 
- Lọc máu Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. 
Thời gian: từ 1/1/2000 đến 30/4/2018 và 
chọn ra các bệnh nhân được chẩn đoán xác 
định bị bệnh lao bằng bất kỳ biện pháp 
thường quy chuẩn nào. 
Các thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, 
lâm sàng, cận lâm sàng, thuốc ức chế miễn 
dịch, các biện pháp chẩn đoán, phác đồ điều 
trị lao và kết quả điều trị dựa vào biến động 
các chỉ số lâm sàng, xét nghiệm, chẩn đoán 
hình ảnh, vi sinh học và/hoặc mô bệnh học 
được ghi nhận. Những bệnh nhân chuyển đi 
cơ sở khác, không có đủ bằng chứng bị lao 
được loại ra khỏi nghiên cứu. 
Xử lý số liệu: Các số liệu được nhập và 
xử lý theo phần mềm SPSS 16.0 tính tỷ lệ 
phần trăm, chỉ số trung bình. 
2. Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu, không can thiệp, 
không gây tác động nguy hại trực tiếp đến 
bệnh nhân; Các xét nghiệm tiến hành trong 
nghiên cứu là những xét nghiệm thường quy 
khi theo dõi và điều trị sau ghép, không gây 
thêm nguy cơ hay phí tổn nào thêm cho bệnh 
nhân; Các thông tin thu thập được chỉ dùng 
cho mục đích nghiên cứu và được bảo mật; 
Đề cương nghiên cứu đã được thông qua Hội 
đồng Khoa học và Đạo đức bệnh viện (QĐ 
971/QĐ-VĐ ngày 31/5/2018). 
III. KẾT QUẢ 
Từ 1/1/2000 đến 30/4/2018 có 663 bệnh 
nhân sau ghép thận được theo dõi và điều trị 
tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Việt Đức. 
Có 13/663 trường hợp (2,0%) bùng phát lao 
sau ghép. Năm (5) bệnh nhân trong số này 
(38,5%) đã được ghép tại Bệnh viện Việt Đức, 
8 bệnh nhân còn lại (61,5%) đã được ghép từ 
các trung tâm khác (bệnh viện Trung ương 
Huế 2 bệnh nhân và Trung Quốc 6 bệnh 
nhân). Trong tổng số 13 bệnh nhân, có 8 bệnh 
nhân là nam giới (tỷ lệ nam:nữ = 1,6). Tuổi 
trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu ở 
thời điểm được chẩn đoán bệnh lao là 34,7 ± 
6,4 tuổi, trong đó trẻ nhất là 18 tuổi và cao tuổi 
nhất là 53 tuổi. Thời điểm khởi phát bệnh lao 
sau ghép thận trung bình là 57,2 ± 29,5 tháng, 
trong đó sớm nhất là 3 tháng sau ghép và 
muộn nhất là 180 tháng (15 năm) sau ghép. 
Bệnh nhân đến từ Hà Nội chiếm đa số (9/13 
trường hợp, tương đương 69,2%). Qua khai 
thác thông tin, chúng tôi không ghi nhận được 
tiền sử tiếp xúc với nguồn nhiễm lao trước đó 
ở tất cả các bệnh nhân này. Nguyên nhân gây 
suy thận thường gặp nhất là viêm cầu thận 
mạn, chiếm 84,6% số bệnh nhân nghiên cứu 
(xem bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm chung của các bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm Số lượng (%) 
Tuổi khởi phát 34,7 ± 6,4 năm (18 - 53 tuổi) 
Giới nam 
Tỷ lệ nam:nữ 
8/13 (61,5%) 
1,6 
 80 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đặc điểm Số lượng (%) 
Địa chỉ 
 Hà Nội 
 Tỉnh thành phía Bắc 
9/13 (69,2%) 
4/13 (30,8%) 
Nguyên nhân suy thận 
Viêm cầu thận mạn 
Thận đa nang 
Bệnh thận bẩm sinh khác 
Đái tháo đường 
Sỏi thận – viêm thận bể thận mạn 
11/13 (84,6%) 
1/13 (7,7%) 
1/13 (7,7%) 
0 
0 
Tất cả bệnh nhân đều được dùng phác đồ thuốc ức chế miễn dịch có Tacrolimus. Hai trong số 
13 bệnh nhân (15,4%) có biểu hiện bệnh do CMV máu, 2/13 bệnh nhân (15,4%) có các biểu hiện 
nhiễm trùng khác kèm theo, 1/13 bệnh nhân (7,7%) đã được chẩn đoán thải ghép cấp và điều trị 
bằng Methyl - Prednisolon tĩnh mạch liều cao trước đó (bảng 2). 
Bảng 2. Thuốc ức chế miễn dịch ban đầu và bệnh lý đi kèm của các bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm Số lượng (%) 
Thuốc ức chế miễn dịch ban đầu 
Steroid + Tac + MMF 
Steroid + Tac + MPA 
Steroid + Tac + ƯC mTOR 
Steroid + CsA + MMF 
Steroid + CsA + MPA 
Steroid + CsA + ƯC mTOR 
10/13 (76,9%) 
2/13 (15,38%) 
1/13 (7,7%) 
0 
0 
0 
Bệnh lý kèm theo 
Viêm gan (B hoăc C) 
Thải ghép, đã điều trị bằng bolus Methyl-
Prednisolon 
Nhiễm CMV máu 
Bệnh thận do BKV 
Bệnh lý nhiễm trùng khác 
2/13 (15,4%) 
1/13 (7,7%) 
2/13 (15,4%) 
0 
2/13 (15,4%) 
Thời điểm phát hiện bệnh lao sau ghép 57,2 ± 29,5 tháng (3 tháng - 180 tháng) 
Tiền sử phơi nhiễm với nguồn bệnh 0/13 (0%) 
Tac: Tacrolimus, MMF: mycophenolate mofetil, MPA: mycophenolic acid, CsA: Cyclosporin A, 
ƯC mTOR: ức chế thụ thể đích của Rapamycin, CMV: cytomegalovirus, BKV: virus BK 2). 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 81 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất ở các bệnh nhân nghiên cứu là sốt (100%), mệt mỏi, 
sụt cân (100%). Ngoài ra có thể thấy các biểu hiện khác như ho, khó thở (các trường hợp lao 
phổi); buồn nôn, nôn, co giật (lao não); áp xe hậu môn (lao hậu môn); sưng đau hạch (lao hạch), 
tràn dịch màng bụng (lao màng bụng); đau bụng, tiểu đỏ, buốt (lao tiết niệu). 
Tổn thương lao được phát hiện khá đa dạng, tổn thương phổi không chiếm ưu thế (38,5%) và 
có khoảng một nửa số bệnh nhân có tổn thương lao ngoài phổi (bảng 3). 
Bảng 3. Các vị trí bị tổn thương lao 
Vị trí tổn thương lao Số bệnh nhân (%) 
Lao phổi đơn độc 5/13 (38,5%) 
Lao ngoài phổi đơn độc 6/13 (46,2%) 
 Lao hạch 
 Lao tiết niệu 
 Lao màng bụng 
 Lao hệ thần kinh trung ương (não) 
2/13 (15,4%) 
2/13 (15,4%) 
1/13 (7,7%) 
1/13 (7,7%) 
Lao phổi phối hợp lao ngoài phổi 2/13 (15,4%) 
 Lao hạch và phổi 
 Lao hậu môn và phổi 
1/13 (7,7%) 
1/13 (7,7%) 
Các thuốc điều trị lao được sử dụng cho nhóm bệnh nhân nghiên cứu và tình trạng kháng 
thuốc được trình bày ở bảng 4. 
Bảng 4. Các thuốc điều trị lao và tình trạng kháng thuốc 
Thuốc lao Số bệnh nhân nhạy thuốc (N) Số bệnh nhân kháng thuốc (N) 
Rifampicin 10 (76,9%) 03 (23,1%) 
Pyrazinamide 13 (100%) 0 
Ethambutol 10 (76,9%) 03 (23,1%) 
Isoniazide 11 (84,6%) 01 (7,7%) 
Rifampicine & Isoniazide 09 (69,2%) 01 (7,7%) 
Quinolones 13 (100%) 0 
Aminoglycoside 13 (100%) 0 
Trong tổng số 13 bệnh nhân nghiên cứu có 10/13 bệnh nhân (76,9%) được điều trị bằng phác 
đồ điều trị lao kết hợp 3 hoặc 4 loại thuốc chống lao hàng thiết yếu (Rifampicin, Isoniazid, 
Pyrazinamide và Ethambutol) trong thời gian tấn công. Ba (03) bệnh nhân phải bổ sung thuốc 
 82 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
chống lao hàng thứ hai gồm Quinolones, aminoglycoside và clarithromycin do bị nhiễm lao kháng 
thuốc hoặc do không dung nạp. 
Về kết quả điều trị, 6/13 bệnh nhân (46,15%) đã hoàn tất liệu trình điều trị và khỏi bệnh, 01 
bệnh nhân (7,7%) tử vong do suy hô hấp; 6 bệnh nhân còn lại (46,15%) đang được điều trị và có 
đáp ứng tốt. 
IV. BÀN LUẬN 
Chúng tôi ghi nhận được 2% số bệnh nhân 
sau ghép thận được theo dõi tại khoa Thận-
Lọc máu bệnh viện Việt Đức trong thời gian 
nghiên cứu bị bùng phát lao. Tỷ lệ này thấp 
hơn so với các thông báo ở Ấn độ, Thổ Nhĩ 
Kỳ, nhưng cao hơn rõ rệt so với khảo sát các 
bệnh nhân ở Pháp [4 - 7]. Việt nam là một 
quốc gia nằm trong vùng dịch tễ lao, tỷ lệ mắc 
bệnh lao trong cộng đồng dựa trên số ca 
được thông báo là khoảng 0,11% [1], là môi 
trường không thuận lợi cho các bệnh nhân 
ghép tạng. Ở bệnh nhân ghép thận, do lao có 
biểu hiện phần lớn là ở ngoài phổi, không điển 
hình nên bệnh có thể bị bỏ sót khi tiến hành 
quy trình tầm soát bệnh lao thường quy. Triệu 
chứng lâm sàng gợi ý nhất là sốt kéo dài 
không rõ nguyên nhân và gặp ở tất cả các 
trường hợp bị lao trong nghiên cứu này, tuy 
nhiên dấu hiệu này thường chỉ gặp ở khoảng 
50-70% số bệnh nhân ghép thận bị lao [7; 8]. 
Dù chẩn đoán có thể chưa đầy đủ, tỷ lệ mắc 
lao ở quần thể bệnh nhân ghép thận của chúng 
tôi cũng cao hơn nhiều so với cộng đồng. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhân 
thời điểm khởi phát lao sau ghép khá muộn, 
thời gian trung bình là 57,2 + 29,5 tháng, trong 
khi một số tác giả ghi nhận có tới khoảng 50% 
số bệnh nhân ghép thận bị bùng phát lao 
trong vòng 1 năm sau ghép [9]. Giai đoạn sớm 
sau ghép bệnh nhân phải dùng thuốc ức chế 
miễn dịch liều cao, nguy cơ bùng phát các 
bệnh nhiễm trùng tiềm tàng tăng lên, đặc biệt 
là tình trạng viêm gan virus, lao và một số 
bệnh nhiễm trùng cơ hội khác. Tuy nhiên ở 
Việt Nam, do yếu tố môi trường, có thể nguy 
cơ còn tồn tại lâu dài hơn, dẫn tới việc bệnh 
có thể xuất hiện ở nhiều thời điểm khác về 
sau, nhất là khi có các biến cố làm giảm sút 
thêm tình trạng miễn dịch của bệnh nhân. Có 
1 bệnh nhân của chúng tôi dã bị bùng phát lao 
sau khi được điều trị bằng Methyl-Prednisolon 
tĩnh mạch liều cao, điều chỉnh tăng mức ức 
chế miễn dịch do thải ghép cấp. Bên cạnh đó, 
chúng tôi nhận thấy không có trường hợp nào 
sử dụng Cyclosporin A mà tất cả các bệnh 
nhân nghiên cứu đều sử dụng phác đồ thuốc 
ức chế miễn dịch có Tacrolimus-là thuốc ức 
chế miễn dịch mạnh hơn so với CsA [10]. 
Nguy cơ chủ yếu khiến lao bùng phát là bệnh 
gan mạn, các bệnh lý nhiễm trùng đi kèm, sử 
dụng thuốc ức chế miễn dịch khởi đầu triệt 
tiêu tế bào lympho, mức độ ức chế miễn dịch 
mạnh trong giai đoạn duy trì sau ghép. Nguy 
cơ lây nhiễm từ người hiến tạng rất thấp, do 
trong quá trình sàng lọc và đánh giá trước 
ghép người hiến tạng đã được tầm soát kỹ 
càng [11]. 
Chẩn đoán lao ở bệnh nhân ghép thận gặp 
nhiều khó khăn do tần suất tổn thương ngoài 
phổi cao và biểu hiện lâm sàng không điển 
hình, nhất là đối với các trường hợp lao tiềm 
tàng trở thành lao hoạt động. Mặc dù phổi vẫn 
là vị trí tổn thương thường gặp nhất nhưng 
cũng chỉ gặp ở khoảng 30 - 40% bệnh nhân 
[5; 7; 8]. Chúng tôi gặp tổn thương phổi đơn 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 83 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
độc ở 38,5% số bệnh nhân nghiên cứu, còn 
lại là tổn thương ngoài phổi đơn độc hoặc 
phối hợp. Điều này làm cho bệnh cảnh lâm 
sàng trở nên rất đa dạng và một phần gây khó 
khăn cho chẩn đoán. Việc sử dụng các thuốc 
ức chế miễn dịch kéo dài cũng góp phần làm 
các triệu chứng lâm sàng không còn điển 
hình, nuôi cấy có thể không mọc vi khuẩn, xét 
nghiệm Quantiferon có thể âm tính mặc dù 
bệnh nhân mắc lao. 
Ở Việt Nam hiện nay việc điều trị lao cho 
bệnh nhân ghép thận vẫn tuân theo phác đồ 
thường quy, bệnh nhân vẫn đối mặt với tình 
trạng lao kháng thuốc, tương tác thuốc chống 
lao và thuốc chống thải ghép và chịu nguy cơ 
ngộ độc thuốc đối với gan và thận ghép. Các 
bệnh nhân có chức năng thận ghép suy giảm 
còn khó điều trị hơn. Trong một số trường hợp 
đặc biệt cần giảm liều thuốc ức chế miễn dịch, 
nhưng hầu hết các bệnh nhân cần tăng liều 
để đảm bảo duy trì nồng độ điều trị ổn định 
trong máu, nhất là đối với trường hợp phải sử 
dụng rifampicin. Tuân thủ điều trị luôn là 
thách thức cho người bệnh và nhân viên y tế, 
do bản thân bệnh nhân ghép thận đã phải 
dùng nhiều thuốc ức chế miễn dịch. Chi phí 
điều trị lao trực tiếp có thể không quá nặng, 
nhưng gánh nặng tài chính có thể tăng khi 
bệnh nhân bị các biến chứng do thuốc hay 
kháng thuốc [12]. Mặc dù vậy, điều trị lao vẫn 
có thể mang lại những kết quả khả quan, 
giúp duy trì cuộc sống của bệnh nhân và thận 
ghép. Tỷ lệ điều trị thành công cao mặc dù 
phải dùng thuốc kéo dài. Sự phối hợp giữa 
các chuyên gia y tế, việc thường xuyên giáo 
dục, giám sát và tư vấn cho bệnh nhân và gia 
đình là vô cùng quan trọng để đảm bảo điều 
trị thành công [13]. 
V. KẾT LUẬN 
 Tỷ lệ bị bệnh lao ở quần thể bệnh nhân 
ghép thận được theo dõi ở khoa Thận-Lọc 
máu bệnh viện Việt Đức là 2%, cao hơn nhiều 
so với trong cộng đồng chung. Bệnh thường 
liên quan đến tình trạng ức chế miễn dịch 
mạnh, biểu hiện không điển hình, hay gặp tổn 
thương lao ngoài phổi. Mặc dù không rõ tình 
trạng phơi nhiễm, một số bệnh nhân vẫn bị 
mắc lao kháng thuốc, gây khó khăn cho điều 
trị. Với các phác đồ điều trị lao hiện có, tỷ lệ 
khỏi bệnh, đáp ứng tốt với điều trị khá cao. 
Lời cám ơn 
Trân trọng cảm ơn tập thể nhân viên khoa 
Thận - Lọc máu và các bệnh nhân đã đóng 
góp cho nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. WHO (2017). Global Tuberculosis Re-
port 2017. 
2. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán, 
điều trị và dự phòng bệnh lao của Bộ Y tế Việt 
Nam. Quyết định số 4263/QĐ-BYT ngày 
13/5/2015. 
3. Aguado JM, Herrero JA, Gavalda J et 
al (1997). Clinical presentation and outcome 
of tuberculosis in kidney, liver, and heart trans-
plant recipients in Spain. Transplantation, 63, 
1278 - 1286. 
4. Atasever A, Bacakoglu F, Toz H et al 
(2005). Tuberculosis in renal transplant recipi-
ents on various immunosuppressive regimens. 
Nephrol Dial Transplant, 20, 797 - 802. 
5. Sundaram M, Adhikary SD, John GT, 
et al (2008). Tuberculosis in kidney recipients. 
Indian J Urol, 24(3), 396 - 400. 
6. John GT (2009). Infections after renal 
transplantation in India. J of Nephrol and Re-
nal Transplant (JNRT), 2(1), 71 - 88. 
7. Canet E, Dantal J, Blancho G et al 
(2011). Tuberculosis following kidney trans-
 84 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
plantation: clinical features and outcome. A 
French multicentre experience in the last 20 
years. Nephrol Dial Transplant, 26(11), 3773 -
3778. 
8. Anand M, Nayyar E, Conception B, 
Salani M, Schaefer H (2017). Tuberculosis in 
kidney transplant recipients: a case series. 
WJT, 7(3), 213 - 221. 
9. Currie AC, Knight SR, Morris PJ 
(2010). Tuberculosis in renal transplant recipi-
ents: The evidence for prophylaxis. Trans-
plant, 90(7), 695 - 704. 
10. Webster A, Woodroffe RC, Taylor RS 
et al (2005). Tacrolimus versus cyclosporin as 
primary immunosuppression for kidney trans-
plant recipients. Cochrane Database Syst 
Rev, 4, CD003961 
11. John GT, Shankar V, Abraham AM, 
et al (2001). Risk factors for post-transplant 
tuberculosis. Kidney International; 60, 1148 - 
1153. 
12. WHO (2008). Bệnh lao toàn cầu: kiểm 
soát, giám sát, lập kế hoạch, tài chính. Báo 
cáo năm 2008. Geneva. WHO/HTM/
TB/2008.393. 
13. Park YS, Choi JY, Cho CH et al 
(2004). Clinical outcomes of tuberculosis in 
renal transplant recipients. Yonsei Med J; 45, 
865 - 872. 
Summary 
TUBERCULOSIS MANIFESTATIONS IN 
KIDNEY TRANSPLANT RECIPIENTS 
Tuberculosis is an infectious disease which has high prevalence and mortality among organ 
transplant patients. The purpose of this study is to describe the characteristics of tuberculous 
lesions and to report the results of antituberculous treatment in kidney transplant recipients. A 
retrospective descriptive study was conducted on 663 kidney recipients who did regular follow-ups 
at the Kidney Diseases & Dialysis Department, Viet Duc hospital from 2000 - 2018. Tuberculosis 
was been diagnosed using routine practice protocols. The clinical laboratory findings, therapeutic 
procedures, and outcomes of patients have been registered. 13/663 kidney recipients (2.0%) 
developed tuberculosis at an average 57.2 ± 29.5 months post transplantation. The location of 
lesions included: lung, 7/13 patients ((53.8%); lymph nodes, 3/13 patients (23.1%); intestines 1/13 
patient (7.7%); urinary tract 1/13 patient (7.7%); central nervous system (brain) 1/13 patient 
(7.7%), multi-organ 2/13 patients (15.4%). 3/13 patients (23.1%) had primary rifampicine - resis-
tant tubercusis. 1/13 patients (7.7%) died due to respiratory failure. 6/13 patients (46.1%) were 
cured. 5/13 patients (38.5%) had ongoing treatment with good response. Extra-pulmonary tuber-
culosis lesions and drug-resistance were relatively frequent but anti-tuberculous treatment can 
obtain good response. 
Key words: tuberculosis, kidney transplantation 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_benh_lao_o_benh_nhan_sau_ghep_than.pdf