Đặc điểm bệnh lao ở bệnh nhân sau ghép thận
Ở quần thể bệnh nhân ghép tạng, lao là bệnh nhiễm trùng có tỷ lệ mắc và tử vong cao. Nghiên cứu
nhằm mô tả đặc điểm tổn thương lao và nhận xét kết quả điều trị lao ở bệnh nhân sau ghép thận. Nghiên
cứu hồi cứu mô tả trên 663 bệnh nhân được theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu bệnh viện Việt Đức từ 2000 -
2018. Bệnh lao được chẩn đoán theo thực hành thường quy. Ghi nhận đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng,
điều trị và kết quả điều trị. 13/663 bệnh nhân (2,0%) bùng phát lao, trung bình 57,2 ± 29,5 tháng sau ghép.
Các vị trí bị tổn thương lao gồm: phổi 7/13 (53,8%); hạch 3/13 (23,1%); ruột 1/13 (7,7%); đường tiết niệu
1/13 (7,7%); hệ thần kinh trung ương (não) 1/13 (7,7%), đa cơ quan 2/13 (15,4%). 3/13 bệnh nhân (23,1%)
nhiễm lao kháng rifampicin. 1/13 bệnh nhân (7,7%) tử vong do suy hô hấp, 6/13 bệnh nhân (46,1%) khỏi
bệnh, 5/13 bệnh nhân (38,5%) đang điều trị và có đáp ứng tốt. Mặc dù lao ngoài phổi và lao kháng thuốc
khá phổ biến, điều trị có thể đạt kết quả tốt
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm bệnh lao ở bệnh nhân sau ghép thận

78 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐẶC ĐIỂM BỆNH LAO Ở BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN Hà Phan Hải An1,2, Man Thị Thu Hương2, Hoàng Thị Điểm2, Nguyễn Thế Cường2 1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Ở quần thể bệnh nhân ghép tạng, lao là bệnh nhiễm trùng có tỷ lệ mắc và tử vong cao. Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm tổn thương lao và nhận xét kết quả điều trị lao ở bệnh nhân sau ghép thận. Nghiên cứu hồi cứu mô tả trên 663 bệnh nhân được theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu bệnh viện Việt Đức từ 2000 - 2018. Bệnh lao được chẩn đoán theo thực hành thường quy. Ghi nhận đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị và kết quả điều trị. 13/663 bệnh nhân (2,0%) bùng phát lao, trung bình 57,2 ± 29,5 tháng sau ghép. Các vị trí bị tổn thương lao gồm: phổi 7/13 (53,8%); hạch 3/13 (23,1%); ruột 1/13 (7,7%); đường tiết niệu 1/13 (7,7%); hệ thần kinh trung ương (não) 1/13 (7,7%), đa cơ quan 2/13 (15,4%). 3/13 bệnh nhân (23,1%) nhiễm lao kháng rifampicin. 1/13 bệnh nhân (7,7%) tử vong do suy hô hấp, 6/13 bệnh nhân (46,1%) khỏi bệnh, 5/13 bệnh nhân (38,5%) đang điều trị và có đáp ứng tốt. Mặc dù lao ngoài phổi và lao kháng thuốc khá phổ biến, điều trị có thể đạt kết quả tốt. Từ khóa: bệnh lao, ghép thận Địa chỉ liên hệ: Hà Phan Hải An, Bộ môn Nội Tổng hợp Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 14/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Lao là một trong 10 bệnh gây tử vong đứng hàng đầu trên toàn cầu và hầu hết các trường hợp tử vong tập trung ở các nước có thu nhập thấp và trung bình [1]. Đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn tại các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tại Việt Nam, tần suất nhiễm lao trong cộng đồng khá cao, ở mức 147/1.000.000 dân (số liệu của Ngân hàng thế giới năm 2012). Việt nam cũng là một trong những quốc gia đi đầu về kiểm soát bệnh lao trong cộng đồng, với các hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị rất đầy đủ và thường xuyên cập nhật [2]. Trên quần thể bệnh nhân ghép tạng, tỷ lệ nhiễm lao còn cao hơn dân số chung do nhiều yếu tố thuận lợi và làm gia tăng tỷ lệ tử vong. Ở các nước phát triển như Tây Ban Nha, tỷ lệ nhiễm lao trên bệnh nhân ghép thận là 6,24% so với tỷ lệ mắc ở cộng đồng chung là 0,14% [3]. Ấn Độ là quốc gia đứng đầu thế giới về tỷ lệ nhiễm lao trong cộng đồng, tỉ lệ này sau ghép tạng là 10 - 20% và có tới 20 - 25% số bệnh nhân mắc lao tử vong [4]. Việc phát hiện, theo dõi, quản lý và điều trị bệnh lao ở những bệnh nhân này rất khó khăn, do việc sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch sau ghép khiến bệnh nhân dễ bị mắc hơn, biểu hiện bệnh phức tạp, có thể không điển hình và diễn biến nặng hơn, thuốc điều trị lao có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng thận ghép [5]. Ở Việt Nam ghép thận được thực hiện từ tháng 6/1992. Tuy nhiên cho đến nay, có rất ít số liệu về nhiễm lao trên đối tượng bệnh nhân ghép thận của Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành với mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm tổn thương lao ở bệnh nhân sau ghép thận theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. 2. Nhận xét kết quả điều trị lao ở nhóm bệnh nhân trên. TCNCYH 113 (4) - 2018 79 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng và phương pháp Nghiên cứu hồi cứu mô tả dựa vào hồ sơ bệnh án của tất cả các bệnh nhân ghép thận được theo dõi định kỳ ngoại trú tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Thời gian: từ 1/1/2000 đến 30/4/2018 và chọn ra các bệnh nhân được chẩn đoán xác định bị bệnh lao bằng bất kỳ biện pháp thường quy chuẩn nào. Các thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, lâm sàng, cận lâm sàng, thuốc ức chế miễn dịch, các biện pháp chẩn đoán, phác đồ điều trị lao và kết quả điều trị dựa vào biến động các chỉ số lâm sàng, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, vi sinh học và/hoặc mô bệnh học được ghi nhận. Những bệnh nhân chuyển đi cơ sở khác, không có đủ bằng chứng bị lao được loại ra khỏi nghiên cứu. Xử lý số liệu: Các số liệu được nhập và xử lý theo phần mềm SPSS 16.0 tính tỷ lệ phần trăm, chỉ số trung bình. 2. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu hồi cứu, không can thiệp, không gây tác động nguy hại trực tiếp đến bệnh nhân; Các xét nghiệm tiến hành trong nghiên cứu là những xét nghiệm thường quy khi theo dõi và điều trị sau ghép, không gây thêm nguy cơ hay phí tổn nào thêm cho bệnh nhân; Các thông tin thu thập được chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu và được bảo mật; Đề cương nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Khoa học và Đạo đức bệnh viện (QĐ 971/QĐ-VĐ ngày 31/5/2018). III. KẾT QUẢ Từ 1/1/2000 đến 30/4/2018 có 663 bệnh nhân sau ghép thận được theo dõi và điều trị tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Việt Đức. Có 13/663 trường hợp (2,0%) bùng phát lao sau ghép. Năm (5) bệnh nhân trong số này (38,5%) đã được ghép tại Bệnh viện Việt Đức, 8 bệnh nhân còn lại (61,5%) đã được ghép từ các trung tâm khác (bệnh viện Trung ương Huế 2 bệnh nhân và Trung Quốc 6 bệnh nhân). Trong tổng số 13 bệnh nhân, có 8 bệnh nhân là nam giới (tỷ lệ nam:nữ = 1,6). Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu ở thời điểm được chẩn đoán bệnh lao là 34,7 ± 6,4 tuổi, trong đó trẻ nhất là 18 tuổi và cao tuổi nhất là 53 tuổi. Thời điểm khởi phát bệnh lao sau ghép thận trung bình là 57,2 ± 29,5 tháng, trong đó sớm nhất là 3 tháng sau ghép và muộn nhất là 180 tháng (15 năm) sau ghép. Bệnh nhân đến từ Hà Nội chiếm đa số (9/13 trường hợp, tương đương 69,2%). Qua khai thác thông tin, chúng tôi không ghi nhận được tiền sử tiếp xúc với nguồn nhiễm lao trước đó ở tất cả các bệnh nhân này. Nguyên nhân gây suy thận thường gặp nhất là viêm cầu thận mạn, chiếm 84,6% số bệnh nhân nghiên cứu (xem bảng 1). Bảng 1. Đặc điểm chung của các bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm Số lượng (%) Tuổi khởi phát 34,7 ± 6,4 năm (18 - 53 tuổi) Giới nam Tỷ lệ nam:nữ 8/13 (61,5%) 1,6 80 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Đặc điểm Số lượng (%) Địa chỉ Hà Nội Tỉnh thành phía Bắc 9/13 (69,2%) 4/13 (30,8%) Nguyên nhân suy thận Viêm cầu thận mạn Thận đa nang Bệnh thận bẩm sinh khác Đái tháo đường Sỏi thận – viêm thận bể thận mạn 11/13 (84,6%) 1/13 (7,7%) 1/13 (7,7%) 0 0 Tất cả bệnh nhân đều được dùng phác đồ thuốc ức chế miễn dịch có Tacrolimus. Hai trong số 13 bệnh nhân (15,4%) có biểu hiện bệnh do CMV máu, 2/13 bệnh nhân (15,4%) có các biểu hiện nhiễm trùng khác kèm theo, 1/13 bệnh nhân (7,7%) đã được chẩn đoán thải ghép cấp và điều trị bằng Methyl - Prednisolon tĩnh mạch liều cao trước đó (bảng 2). Bảng 2. Thuốc ức chế miễn dịch ban đầu và bệnh lý đi kèm của các bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm Số lượng (%) Thuốc ức chế miễn dịch ban đầu Steroid + Tac + MMF Steroid + Tac + MPA Steroid + Tac + ƯC mTOR Steroid + CsA + MMF Steroid + CsA + MPA Steroid + CsA + ƯC mTOR 10/13 (76,9%) 2/13 (15,38%) 1/13 (7,7%) 0 0 0 Bệnh lý kèm theo Viêm gan (B hoăc C) Thải ghép, đã điều trị bằng bolus Methyl- Prednisolon Nhiễm CMV máu Bệnh thận do BKV Bệnh lý nhiễm trùng khác 2/13 (15,4%) 1/13 (7,7%) 2/13 (15,4%) 0 2/13 (15,4%) Thời điểm phát hiện bệnh lao sau ghép 57,2 ± 29,5 tháng (3 tháng - 180 tháng) Tiền sử phơi nhiễm với nguồn bệnh 0/13 (0%) Tac: Tacrolimus, MMF: mycophenolate mofetil, MPA: mycophenolic acid, CsA: Cyclosporin A, ƯC mTOR: ức chế thụ thể đích của Rapamycin, CMV: cytomegalovirus, BKV: virus BK 2). TCNCYH 113 (4) - 2018 81 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất ở các bệnh nhân nghiên cứu là sốt (100%), mệt mỏi, sụt cân (100%). Ngoài ra có thể thấy các biểu hiện khác như ho, khó thở (các trường hợp lao phổi); buồn nôn, nôn, co giật (lao não); áp xe hậu môn (lao hậu môn); sưng đau hạch (lao hạch), tràn dịch màng bụng (lao màng bụng); đau bụng, tiểu đỏ, buốt (lao tiết niệu). Tổn thương lao được phát hiện khá đa dạng, tổn thương phổi không chiếm ưu thế (38,5%) và có khoảng một nửa số bệnh nhân có tổn thương lao ngoài phổi (bảng 3). Bảng 3. Các vị trí bị tổn thương lao Vị trí tổn thương lao Số bệnh nhân (%) Lao phổi đơn độc 5/13 (38,5%) Lao ngoài phổi đơn độc 6/13 (46,2%) Lao hạch Lao tiết niệu Lao màng bụng Lao hệ thần kinh trung ương (não) 2/13 (15,4%) 2/13 (15,4%) 1/13 (7,7%) 1/13 (7,7%) Lao phổi phối hợp lao ngoài phổi 2/13 (15,4%) Lao hạch và phổi Lao hậu môn và phổi 1/13 (7,7%) 1/13 (7,7%) Các thuốc điều trị lao được sử dụng cho nhóm bệnh nhân nghiên cứu và tình trạng kháng thuốc được trình bày ở bảng 4. Bảng 4. Các thuốc điều trị lao và tình trạng kháng thuốc Thuốc lao Số bệnh nhân nhạy thuốc (N) Số bệnh nhân kháng thuốc (N) Rifampicin 10 (76,9%) 03 (23,1%) Pyrazinamide 13 (100%) 0 Ethambutol 10 (76,9%) 03 (23,1%) Isoniazide 11 (84,6%) 01 (7,7%) Rifampicine & Isoniazide 09 (69,2%) 01 (7,7%) Quinolones 13 (100%) 0 Aminoglycoside 13 (100%) 0 Trong tổng số 13 bệnh nhân nghiên cứu có 10/13 bệnh nhân (76,9%) được điều trị bằng phác đồ điều trị lao kết hợp 3 hoặc 4 loại thuốc chống lao hàng thiết yếu (Rifampicin, Isoniazid, Pyrazinamide và Ethambutol) trong thời gian tấn công. Ba (03) bệnh nhân phải bổ sung thuốc 82 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC chống lao hàng thứ hai gồm Quinolones, aminoglycoside và clarithromycin do bị nhiễm lao kháng thuốc hoặc do không dung nạp. Về kết quả điều trị, 6/13 bệnh nhân (46,15%) đã hoàn tất liệu trình điều trị và khỏi bệnh, 01 bệnh nhân (7,7%) tử vong do suy hô hấp; 6 bệnh nhân còn lại (46,15%) đang được điều trị và có đáp ứng tốt. IV. BÀN LUẬN Chúng tôi ghi nhận được 2% số bệnh nhân sau ghép thận được theo dõi tại khoa Thận- Lọc máu bệnh viện Việt Đức trong thời gian nghiên cứu bị bùng phát lao. Tỷ lệ này thấp hơn so với các thông báo ở Ấn độ, Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cao hơn rõ rệt so với khảo sát các bệnh nhân ở Pháp [4 - 7]. Việt nam là một quốc gia nằm trong vùng dịch tễ lao, tỷ lệ mắc bệnh lao trong cộng đồng dựa trên số ca được thông báo là khoảng 0,11% [1], là môi trường không thuận lợi cho các bệnh nhân ghép tạng. Ở bệnh nhân ghép thận, do lao có biểu hiện phần lớn là ở ngoài phổi, không điển hình nên bệnh có thể bị bỏ sót khi tiến hành quy trình tầm soát bệnh lao thường quy. Triệu chứng lâm sàng gợi ý nhất là sốt kéo dài không rõ nguyên nhân và gặp ở tất cả các trường hợp bị lao trong nghiên cứu này, tuy nhiên dấu hiệu này thường chỉ gặp ở khoảng 50-70% số bệnh nhân ghép thận bị lao [7; 8]. Dù chẩn đoán có thể chưa đầy đủ, tỷ lệ mắc lao ở quần thể bệnh nhân ghép thận của chúng tôi cũng cao hơn nhiều so với cộng đồng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhân thời điểm khởi phát lao sau ghép khá muộn, thời gian trung bình là 57,2 + 29,5 tháng, trong khi một số tác giả ghi nhận có tới khoảng 50% số bệnh nhân ghép thận bị bùng phát lao trong vòng 1 năm sau ghép [9]. Giai đoạn sớm sau ghép bệnh nhân phải dùng thuốc ức chế miễn dịch liều cao, nguy cơ bùng phát các bệnh nhiễm trùng tiềm tàng tăng lên, đặc biệt là tình trạng viêm gan virus, lao và một số bệnh nhiễm trùng cơ hội khác. Tuy nhiên ở Việt Nam, do yếu tố môi trường, có thể nguy cơ còn tồn tại lâu dài hơn, dẫn tới việc bệnh có thể xuất hiện ở nhiều thời điểm khác về sau, nhất là khi có các biến cố làm giảm sút thêm tình trạng miễn dịch của bệnh nhân. Có 1 bệnh nhân của chúng tôi dã bị bùng phát lao sau khi được điều trị bằng Methyl-Prednisolon tĩnh mạch liều cao, điều chỉnh tăng mức ức chế miễn dịch do thải ghép cấp. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy không có trường hợp nào sử dụng Cyclosporin A mà tất cả các bệnh nhân nghiên cứu đều sử dụng phác đồ thuốc ức chế miễn dịch có Tacrolimus-là thuốc ức chế miễn dịch mạnh hơn so với CsA [10]. Nguy cơ chủ yếu khiến lao bùng phát là bệnh gan mạn, các bệnh lý nhiễm trùng đi kèm, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch khởi đầu triệt tiêu tế bào lympho, mức độ ức chế miễn dịch mạnh trong giai đoạn duy trì sau ghép. Nguy cơ lây nhiễm từ người hiến tạng rất thấp, do trong quá trình sàng lọc và đánh giá trước ghép người hiến tạng đã được tầm soát kỹ càng [11]. Chẩn đoán lao ở bệnh nhân ghép thận gặp nhiều khó khăn do tần suất tổn thương ngoài phổi cao và biểu hiện lâm sàng không điển hình, nhất là đối với các trường hợp lao tiềm tàng trở thành lao hoạt động. Mặc dù phổi vẫn là vị trí tổn thương thường gặp nhất nhưng cũng chỉ gặp ở khoảng 30 - 40% bệnh nhân [5; 7; 8]. Chúng tôi gặp tổn thương phổi đơn TCNCYH 113 (4) - 2018 83 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC độc ở 38,5% số bệnh nhân nghiên cứu, còn lại là tổn thương ngoài phổi đơn độc hoặc phối hợp. Điều này làm cho bệnh cảnh lâm sàng trở nên rất đa dạng và một phần gây khó khăn cho chẩn đoán. Việc sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch kéo dài cũng góp phần làm các triệu chứng lâm sàng không còn điển hình, nuôi cấy có thể không mọc vi khuẩn, xét nghiệm Quantiferon có thể âm tính mặc dù bệnh nhân mắc lao. Ở Việt Nam hiện nay việc điều trị lao cho bệnh nhân ghép thận vẫn tuân theo phác đồ thường quy, bệnh nhân vẫn đối mặt với tình trạng lao kháng thuốc, tương tác thuốc chống lao và thuốc chống thải ghép và chịu nguy cơ ngộ độc thuốc đối với gan và thận ghép. Các bệnh nhân có chức năng thận ghép suy giảm còn khó điều trị hơn. Trong một số trường hợp đặc biệt cần giảm liều thuốc ức chế miễn dịch, nhưng hầu hết các bệnh nhân cần tăng liều để đảm bảo duy trì nồng độ điều trị ổn định trong máu, nhất là đối với trường hợp phải sử dụng rifampicin. Tuân thủ điều trị luôn là thách thức cho người bệnh và nhân viên y tế, do bản thân bệnh nhân ghép thận đã phải dùng nhiều thuốc ức chế miễn dịch. Chi phí điều trị lao trực tiếp có thể không quá nặng, nhưng gánh nặng tài chính có thể tăng khi bệnh nhân bị các biến chứng do thuốc hay kháng thuốc [12]. Mặc dù vậy, điều trị lao vẫn có thể mang lại những kết quả khả quan, giúp duy trì cuộc sống của bệnh nhân và thận ghép. Tỷ lệ điều trị thành công cao mặc dù phải dùng thuốc kéo dài. Sự phối hợp giữa các chuyên gia y tế, việc thường xuyên giáo dục, giám sát và tư vấn cho bệnh nhân và gia đình là vô cùng quan trọng để đảm bảo điều trị thành công [13]. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ bị bệnh lao ở quần thể bệnh nhân ghép thận được theo dõi ở khoa Thận-Lọc máu bệnh viện Việt Đức là 2%, cao hơn nhiều so với trong cộng đồng chung. Bệnh thường liên quan đến tình trạng ức chế miễn dịch mạnh, biểu hiện không điển hình, hay gặp tổn thương lao ngoài phổi. Mặc dù không rõ tình trạng phơi nhiễm, một số bệnh nhân vẫn bị mắc lao kháng thuốc, gây khó khăn cho điều trị. Với các phác đồ điều trị lao hiện có, tỷ lệ khỏi bệnh, đáp ứng tốt với điều trị khá cao. Lời cám ơn Trân trọng cảm ơn tập thể nhân viên khoa Thận - Lọc máu và các bệnh nhân đã đóng góp cho nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. WHO (2017). Global Tuberculosis Re- port 2017. 2. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao của Bộ Y tế Việt Nam. Quyết định số 4263/QĐ-BYT ngày 13/5/2015. 3. Aguado JM, Herrero JA, Gavalda J et al (1997). Clinical presentation and outcome of tuberculosis in kidney, liver, and heart trans- plant recipients in Spain. Transplantation, 63, 1278 - 1286. 4. Atasever A, Bacakoglu F, Toz H et al (2005). Tuberculosis in renal transplant recipi- ents on various immunosuppressive regimens. Nephrol Dial Transplant, 20, 797 - 802. 5. Sundaram M, Adhikary SD, John GT, et al (2008). Tuberculosis in kidney recipients. Indian J Urol, 24(3), 396 - 400. 6. John GT (2009). Infections after renal transplantation in India. J of Nephrol and Re- nal Transplant (JNRT), 2(1), 71 - 88. 7. Canet E, Dantal J, Blancho G et al (2011). Tuberculosis following kidney trans- 84 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC plantation: clinical features and outcome. A French multicentre experience in the last 20 years. Nephrol Dial Transplant, 26(11), 3773 - 3778. 8. Anand M, Nayyar E, Conception B, Salani M, Schaefer H (2017). Tuberculosis in kidney transplant recipients: a case series. WJT, 7(3), 213 - 221. 9. Currie AC, Knight SR, Morris PJ (2010). Tuberculosis in renal transplant recipi- ents: The evidence for prophylaxis. Trans- plant, 90(7), 695 - 704. 10. Webster A, Woodroffe RC, Taylor RS et al (2005). Tacrolimus versus cyclosporin as primary immunosuppression for kidney trans- plant recipients. Cochrane Database Syst Rev, 4, CD003961 11. John GT, Shankar V, Abraham AM, et al (2001). Risk factors for post-transplant tuberculosis. Kidney International; 60, 1148 - 1153. 12. WHO (2008). Bệnh lao toàn cầu: kiểm soát, giám sát, lập kế hoạch, tài chính. Báo cáo năm 2008. Geneva. WHO/HTM/ TB/2008.393. 13. Park YS, Choi JY, Cho CH et al (2004). Clinical outcomes of tuberculosis in renal transplant recipients. Yonsei Med J; 45, 865 - 872. Summary TUBERCULOSIS MANIFESTATIONS IN KIDNEY TRANSPLANT RECIPIENTS Tuberculosis is an infectious disease which has high prevalence and mortality among organ transplant patients. The purpose of this study is to describe the characteristics of tuberculous lesions and to report the results of antituberculous treatment in kidney transplant recipients. A retrospective descriptive study was conducted on 663 kidney recipients who did regular follow-ups at the Kidney Diseases & Dialysis Department, Viet Duc hospital from 2000 - 2018. Tuberculosis was been diagnosed using routine practice protocols. The clinical laboratory findings, therapeutic procedures, and outcomes of patients have been registered. 13/663 kidney recipients (2.0%) developed tuberculosis at an average 57.2 ± 29.5 months post transplantation. The location of lesions included: lung, 7/13 patients ((53.8%); lymph nodes, 3/13 patients (23.1%); intestines 1/13 patient (7.7%); urinary tract 1/13 patient (7.7%); central nervous system (brain) 1/13 patient (7.7%), multi-organ 2/13 patients (15.4%). 3/13 patients (23.1%) had primary rifampicine - resis- tant tubercusis. 1/13 patients (7.7%) died due to respiratory failure. 6/13 patients (46.1%) were cured. 5/13 patients (38.5%) had ongoing treatment with good response. Extra-pulmonary tuber- culosis lesions and drug-resistance were relatively frequent but anti-tuberculous treatment can obtain good response. Key words: tuberculosis, kidney transplantation
File đính kèm:
dac_diem_benh_lao_o_benh_nhan_sau_ghep_than.pdf