Đặc điểm bệnh động kinh được quản lý tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá tình hình bệnh động kinh được quản lý tại Vũng tàu.

Phương pháp: 223 bệnh nhân động kinh trong tổng số 245 bệnh nhân trong danh sách quản lý được khảo

sát qua hỏi, thăm khám.

Kết quả: Có 126 nam chiếm tỷ lệ 56,5%, 97 nữ chiếm 43,5%. Bệnh nhân tập trung đông nhất vào độ tuổi

21-30 với 25,5%. Bệnh xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn 0-10 tuổi với 42,2%. Cơn toàn thể chiếm 47,9%, cơn cục

bộ chiếm 49,8%, cơn không phân loại chiếm 2,3%. Trên một nửa số trường hợp không xác định được nguyên

nhân, nguyên nhân nhiễm khuẩn thần kinh trung ương chiếm tỷ lệ cao nhất với 15,2%, chấn thương đầu 13,9%

trong đó chấn thương đầu do TNGT 9%. Các yếu tố chu sinh chiếm 8,5%. Có 81,2% số bệnh nhân được điều trị

đơn trị liệu, 18,8% đa trị liệu. Valproic Acid được dùng ở 56,5% và Phenobarbital dùng ở 49,8% số bệnh nhân.

Kết luận: Động kinh có tỉ lệ cao ở trẻ em, đa phần đơn trị liệu, thuốc được dùng thường nhất là valproic

acid và phenobarbital.

Từ khóa: Cơn động kinh, thuốc chống động kinh, điều trị.

pdf 6 trang phuongnguyen 3140
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm bệnh động kinh được quản lý tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm bệnh động kinh được quản lý tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009

Đặc điểm bệnh động kinh được quản lý tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 686 
ĐẶC ĐIỂM BỆNH ĐỘNG KINH ĐƯỢC QUẢN LÝ TẠI THÀNH PHỐ 
VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU NĂM 2009 
Lê Văn Tuấn *, Trần Thiện Trường** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá tình hình bệnh động kinh được quản lý tại Vũng tàu. 
Phương pháp: 223 bệnh nhân động kinh trong tổng số 245 bệnh nhân trong danh sách quản lý được khảo 
sát qua hỏi, thăm khám. 
Kết quả: Có 126 nam chiếm tỷ lệ 56,5%, 97 nữ chiếm 43,5%. Bệnh nhân tập trung đông nhất vào độ tuổi 
21-30 với 25,5%. Bệnh xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn 0-10 tuổi với 42,2%. Cơn toàn thể chiếm 47,9%, cơn cục 
bộ chiếm 49,8%, cơn không phân loại chiếm 2,3%. Trên một nửa số trường hợp không xác định được nguyên 
nhân, nguyên nhân nhiễm khuẩn thần kinh trung ương chiếm tỷ lệ cao nhất với 15,2%, chấn thương đầu 13,9% 
trong đó chấn thương đầu do TNGT 9%. Các yếu tố chu sinh chiếm 8,5%. Có 81,2% số bệnh nhân được điều trị 
đơn trị liệu, 18,8% đa trị liệu. Valproic Acid được dùng ở 56,5% và Phenobarbital dùng ở 49,8% số bệnh nhân. 
Kết luận: Động kinh có tỉ lệ cao ở trẻ em, đa phần đơn trị liệu, thuốc được dùng thường nhất là valproic 
acid và phenobarbital. 
Từ khóa: Cơn động kinh, thuốc chống động kinh, điều trị. 
ABSTRACT 
CHARACTERISTICS OF EPILEPTICS MANAGED IN VUNG TAU CITY 
BA RIA – VUNG TAU PROVINCE (2009) 
Le Van Tuan, Tran Thien Truong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 686 - 691 
Objectives: Evaluating the epileptics managed in Vung Tau. 
Methods: Survey on 223 epilepsy patients in 245 patients in the list. 
Results: Men make up 56.5%, women 43.5%. The most concentrated patient is at 21-30 years old 
(25.5%). The first seizure appears at 0-10 years old is 42.2%. General seizure is 47.9%, partial seizure is 
49.8%, unclassification is 2.3%. Can not confirm the causes in more than a half case, infection of centre 
nervous system is the most popular cause (15.2%). Head injury is 13.9%, icluding traffic head injury 9%. 
Perinatal causes are 8.5%. Monothepary is 81.2%, polythepary is 18.8%. Valproic Acid is used in 56.5%, 
Phenobarbital is used in 49.8%. 
Conclusion: high prevalence in children, most of treatment is monotherapy, valproic acid and phenobarbital 
are the most common antiepileptic drugs. 
Keywords: seizure, antiepileptic drug, treatment 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Động kinh là bệnh lý mạn tính thường gặp 
của hệ thần kinh. Bệnh gặp ở tất cả các nước, 
gặp ở mọi lứa tuổi(3). Nguyên nhân gây động 
kinh rất đa dạng, bao gồm những nguyên nhân 
nội sinh di truyền và nguyên nhân mắc phải. 
Thời gian gần đây, công tác điều trị và chăm sóc 
* Bộ Môn Thần Kinh – Đại học Y Dược TP. HCM 
** Bộ Môn Thần Kinh, Trường Trung Cấp Y Tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 
Tác giả liên lạc: BS Trần Thiện Trường ĐT: 0908230970 Email: thiennhan130402@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 687
bệnh động kinh đã đạt nhiều thành tựu, dù vậy 
tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân động kinh vẫn cao 
gấp hai đến ba lần so với dân số bình thường. 
Bệnh nhân động kinh nếu không khống chế 
được cơn động kinh sẽ có nhiều hậu quả nặng 
nề về sức khỏe, tâm lý xã hội, giảm chất lượng 
cuộc sống(5,9). 
Trên cả nước, các nghiên cứu về động kinh 
tại cộng đồng đã có song chủ yếu tập trung ở 
vùng nông thôn. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu chưa 
thực hiện các nghiên cứu về động kinh. 
Là một bệnh thuộc lĩnh vực Thần kinh, 
nhưng bệnh động kinh được giao cho ngành 
Tâm thần quản lý. Bệnh nhân động kinh ở tỉnh 
Bà Rịa – Vũng Tàu sau khi có chẩn đoán xác 
định được tái khám, nhận thuốc miễn phí hàng 
tháng tại các trạm Y tế xã phường. Tỉnh là một 
trong số các địa phương thực hiện cấp miễn phí 
rộng rãi một số loại thuốc chống động kinh tại 
cộng đồng. 
Là một thành phố, lại được được đầu tư tốt 
về thuốc điều trị, song tại thành phố Vũng Tàu, 
tỷ lệ bệnh nhân động kinh quản lý được thấp, 
tuân thủ điều trị kém. Vấn đề trên có thể do 
nhiều nguyên nhân như: đặc điểm của nhóm 
bệnh nhân ở thành thị, do hiệu quả của điều trị, 
do tâm lý bệnh nhân. 
 Nghiên cứu cứu này nhằm khảo sát một số 
đặc điểm dịch tễ, phân loại cơn động kinh, 
phương pháp điều trị của nhóm bệnh nhân 
động kinh đang được quản lý tại địa phương. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định 
động kinh theo định nghĩa của LHQTCĐK, và 
có tên trong danh sách quản lý tại trung tâm Y tế 
thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 
đến ngày 31/12/ 2009. 
 Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân nghi ngờ động kinh, bệnh nhân 
bỏ trị, bệnh nhân không có mặt tại địa phương 
vào thời điểm khảo sát và bệnh nhân từ chối 
cung cấp thông tin. 
Thu thập số liệu 
Phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi, thăm 
khám và tham khảo hồ sơ của bệnh nhân. Địa 
điểm thực hiện tại các trạm y tế, nơi bệnh nhân 
đăng ký nhận thuốc hàng tháng. Nếu không 
thực hiện được tại trạm y tế, bệnh nhân sẽ được 
thăm khám và phỏng vấn tại nhà. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi thu thập số liệu dựa theo bộ câu 
hỏi nghiên cứu động kinh của viện Thần kinh 
nhiệt đới Limoges – Pháp. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được mã hóa bằng phần mềm 
Epidata3.1 và phân tích bằng phần mềm stata 10 
Các yếu tố khảo sát 
Giới tính, tuổi, nghề nghiệp, các yếu tố chu 
sinh, tuổi xuất hiện cơn động kinh đầu tiên, 
nguyên nhân, loại cơn, phương pháp dùng 
thuốc chống động kinh hiện tại. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Số bệnh nhân được khảo sát là 223, nam 126 
(56,5%), nữ 97 (43,5%). Tuổi trung bình của bệnh 
nhân động kinh đang quản lý là 31,6±15,9 tuổi, 
trẻ nhất là 2 tuổi và già nhất là 83 tuổi. Nhóm 
tuổi có số bệnh nhân cao nhất là 21-30 tuổi, 
chiếm tỷ lệ 25,5%. Nhóm tuổi có số bệnh nhân 
thấp nhất là nhóm tuổi 51-60 tuổi và trên 60 tuổi 
với tỷ lệ 5,4%. 
Trên một nửa số bệnh nhân không thể xác 
định nguyên nhân. Nguyên nhân thường gặp 
nhất là nhiễm trùng thần kinh trung ương với 
15,2%, nguyên nhân chấn thương đầu 13,9% 
trong đó chấn thương đầu do tai nạn giao thông 
là 9%. Nguyên nhân chu sinh chiếm 8,5%. 
Cơn toàn thể chiếm tỷ lệ 47,9%, cơn cục bộ 
chiếm 49,8%, cơn không xếp loại chiếm 2,3%. 
Trong loại cơn toàn thể chủ yếu là dạng co cứng 
co giật với tỷ lệ là 40,4%. Trong loại cơn cục bộ, 
dạng cơn thường gặp nhất là dạng cơn cục bộ 
toàn thể hóa chiếm tỷ lệ cao nhất là 46,2%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 688 
Loại cơn cục bộ xuất hiện nhiều nhất ở độ 
tuổi trên 60 với tỷ lệ 75%. Loại cơn toàn thể gặp 
nhiều nhất ở độ tuổi 0-20 với 62,3%. 
Bảng 1: Tỷ lệ loại cơn theo phân loại cơn của 
LHQTCĐK năm 1981 
Loại cơn Tần số Tỷ lệ % 
Cơn toàn thể 107 47,9 
Co cứng co giật 90 40,4 
Co cứng 7 3,1 
Co giật 4 1,8 
Mất trương lực 3 1,3 
Cơn vắng 3 1,3 
Cục bộ 111 49,8 
Cục bộ toàn thể hóa 103 46,2 
Cục bộ đơn giản 7 3,1 
Cục bộ phức tạp 1 0,5 
Không xếp loại 5 2,3 
Tổng cộng 223 100 
Đơn trị liệu áp dụng ở 181 bệnh nhân, 
chiếm tỷ lệ 81,2%, trong đó Valproic Acid 
43,6%, Phenobarbital 36,3% và Carbamazepine 
1,3 %. Có 18,8% bệnh nhân dùng đa trị liệu, 
trong đó 16,2% số bệnh nhân sử dụng kết hợp 
2 loại thuốc mà chủ yếu là kết hợp 
Phenobarbital và Valproic Acid với tỷ lệ 6,8%. 
Kết hợp 3 thứ thuốc chiếm tỷ lệ 2,2%, kết hợp 
4 thứ thuốc chiếm tỷ lệ 0,4%. Valproic Acid 
được sử dụng nhiều nhất, ở 56,5% số bệnh 
nhân. Phenobarbital được sử dụng ở 49,8%, 
Carbamazepine 9,4%, Topramax 3,1%, 
Trileptal 0,9%, Keppra và Dihydan được sử 
dụng ít nhất ở 0,4% số bệnh nhân. 
Bảng 2: Tỷ lệ các phương pháp sử dụng thuốc chống 
động kinh 
Phương pháp dùng thuốc Tần số 
Tỷ lệ 
% 
Tỷ lệ % cộng 
đồng 
Đơn trị liệu Phenobarbital 81 36,3 36,3 
Đơn trị liệu Valproic Acid 97 43,6 79,9 
Đơn trị liệu Carbamazepine 3 1,3 81,2 
Phenobarbital & Valproic Acid 15 6,8 88 
Phenobarbital & 
Carbamazepine 7 3,2 91,2 
Phenobarbital & Trileptal 1 0,4 91,6 
Phenobarbital & Topiramax 3 1,3 92,9 
Valproic Acid & Topiramax 2 0,9 93,8 
Valproic Acid& Carbamazepine 7 3,2 97 
Keppra & Trileptal 1 0,4 97,4 
Kết hợp 3 loại thuốc 5 2,2 99,6 
Phương pháp dùng thuốc Tần số 
Tỷ lệ 
% 
Tỷ lệ % cộng 
đồng 
Kết hợp 4 loại thuốc 1 0,4 100 
Tổng cộng 223 100 
BÀN LUẬN 
Trong các nguyên nhân gây động kinh, 
nhiễm trùng thần kinh trung ương là nguyên 
nhân thường gặp nhất với tỷ lệ 15,2%. Kết quả 
này tương đương với kết quả của Dương Hữu 
Lễ(1) với tỷ lệ 14,6%. Nguyên nhân này thường 
gặp nhất là do trong những năm vừa qua, bệnh 
nhiễm trùng ở nước ta chiếm một tỷ lệ cao. Kết 
quả này khác với những báo cáo loạt ca tại 
Hồng Kong và Đài Loan. Tại Hồng Kông, 
nguyên nhân thường gặp nhất là bệnh mạch 
máu não với tỷ lệ 26,2%, Tại Đài Loan, Chih-
Chuan Chen và cộng sự khảo sát tại cộng đồng 
vào năm 2001, ở người từ 30 tuổi trở lên thấy 
nguyên nhân thường gặp nhất là chấn thương 
đầu với tỷ lệ 13,5%, nhiễm trùng thần kinh 
trung ương chiếm tỷ lệ 8,1%, đột quỵ 5,4%, tổn 
thương chu sinh là 5,4%. 
Chấn thương sọ não, đặc biệt là chấn thương 
sọ não do tại nạn giao thông cũng là một nguyên 
nhân đáng kể gây động kinh trong nghiên cứu 
của chúng tôi với tỷ lệ 13,9%. Kết quả này tương 
đương với kết quả của Chih-Chuan Chen và 
cộng sự tại Đài Loan đã nêu trên với nguyên 
nhân chấn thương đầu chiếm tỷ lệ 13,5%. So với 
các tác giả trong nước, tỷ lệ nguyên nhân chấn 
thương đầu trong nghiên cứu của chúng tôi đều 
cao hơn với 9,1% trong nghiên cứu của Nguyễn 
Văn Doanh(8), và 10,6% trong nghiên cứu của 
Dương Hữu Lễ(1). 
Tỷ lệ các loại nguyên nhân gây động kinh 
khác nhau giữa các nghiên cứu, phụ thuộc vào 
điều kiện kinh tế xã hội, mô hình bệnh tật khác 
nhau của cộng đồng dân cư nghiên cứu. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, do dân cư của thành 
phố Vũng Tàu được di cư từ tất cả các địa 
phương trên cả nước đến trong vòng vài chục 
năm gần đây, do vậy nguyên nhân gây động 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 689
kinh mang đặc điểm của cả nông thôn lẫn thành 
thị với tỷ lệ nguyên nhân do nhiễm trùng thần 
kinh trung ương và chấn thương đầu đều cao. 
Các yếu tố chu sinh đã được đề cập nhiều 
trong các nghiên cứu dịch tễ bệnh động kinh. N. 
Senanayake và G.C. Román(11) cho rằng bệnh lý 
chu sinh là nguyên nhân gây ra 13% - 14% các 
trường hợp động kinh ở các nước phát triển. Suy 
hô hấp-thiếu máu não là dạng bệnh lý thường 
gặp nhất trong thời kỳ sơ sinh có thể dẫn đến 
động kinh. Sun Yuelian và cộng sự đã thực hiện 
một nghiên cứu đoàn hệ bằng cách hồi cứu 
1.538.732 trẻ sinh tại Đan Mạch, từ năm 1978 
đến năm 2002 cho thấy trẻ có điểm Apgar thấp 
khi sinh có nguy cơ cao bị động kinh khi lớn 
lên(12). Theo Agnon Aye’lola Koffi Balogou, một 
nghiên cứu thực hiện tại 9 nước ở Châu Phi từ 
năm 1996 đến 1999 với 1374 bệnh nhân động 
kinh, có 11% số bệnh nhân không khóc ngay sau 
sinh, 8% các bệnh nhân có tiền sử sinh thiếu 
tháng và 6% có sang chấn sau sinh. 
Tại Việt Nam, 2 nghiên cứu về động kinh trẻ 
em đề cập nhiều đến các vấn đề chu sinh là 
nghiên cứu của Phạm Quỳnh Diệp(10) ở trẻ 0-17 
tuổi thực hiện vào năm 2002, và nghiên cứu của 
Nguyễn Bá Hiền, Vũ Anh Nhị(6) ở trẻ 0-15 tuổi 
thực hiện vào năm 2006. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, với 223 bệnh nhân được khảo sát, 
chúng tôi lựa chọn dữ liệu từ 61 bệnh nhân có 
độ từ 20 trở xuống để tìm hiểu một số yếu tố chu 
sinh để phân tích. 
Chúng tôi nhận thấy sinh thiếu tháng, sinh 
khó, không khóc ngay sau sinh và nhẹ cân khi 
sinh là các yếu tố chu sinh thường gặp nhất. Tỷ 
lệ bệnh nhân có tiền sử sinh thiếu tháng trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 8,2%, tỷ lệ này cao 
hơn so với nghiên cứu của Phạm Quỳnh Diệp(10) 
với tỷ lệ 5,1%, và nghiên cứu tại châu phi với tỷ 
lệ 6%. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử sinh thiếu 
tháng trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 
so với nghiên cứu của Nguyễn Bá Hiền(6) với tỷ 
lệ 17,36%. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử sinh khó 
trong nghiên cứu của chúng tôi là 16,4%, cao 
hơn tỷ lệ bệnh nhân có can thiệp khi sinh trong 
nghiên cứu của Nguyễn Bá Hiền(6) với 14,5%. Tỷ 
lệ bệnh nhân có tiền sử không khóc ngay sau 
sinh trong nghiên cứu của chúng tôi là 21,3% cao 
hơn nhiều so với tỷ lệ ngạt sau sinh trong 
nghiên cứu của Phạm Quỳnh Diệp(10) với 6,3%, 
và nghiên cứu của Nguyễn Bá Hiền(6) là 15,7% 
ngạt khi sinh. Tỷ lệ bệnh nhân bị thiếu cân khi 
sinh trong nghiên cứu của chúng tôi là 11,5% cao 
hơn so với tỷ lệ thiếu cân trong nghiên cứu của 
Phạm Quỳnh Diệp(10) với 3,2%. 
Như vậy, các yếu tố nguy cơ chu sinh gây 
động kinh trong nghiên cứu của chúng tôi hầu 
như đều cao hơn so với các nghiên cứu khác. Sự 
khác biệt về yếu tố chu sinh gây động kinh là do 
chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ 
trong quá trình thai nghén, sinh đẻ và giai đoạn 
sơ sinh của bệnh nhân động kinh ở các vùng 
khác nhau. Điều này cho thấy chất lượng công 
tác chăm sóc bà mẹ trẻ em ở những bệnh nhân 
động kinh dưới 20 tuổi tại địa phương chưa cao, 
và công tác này cần được nâng cao hơn nữa để 
giảm thiểu nguy cơ gây động kinh cho trẻ em. 
Tỷ lệ loại cơn động kinh theo phân loại cơn 
của LHQTCĐK năm 1981 thay đổi theo các 
nghiên cứu. Một nghiên cứu vào năm 2000 tại 
Ấn Độ, có kết quả cơn động kinh toàn thể chiếm 
tỷ lệ 58,8%, cơn động kinh cục bộ chiếm tỷ lệ 
30,6%. Cũng tại Ấn Độ, một nghiên cứu khác 
vào năm 2006 cho kết quả cơn toàn thể chiếm tỷ 
lệ 42%, cơn cục bộ là 58%. Năm 2006, một 
nghiên cứu tại Lào cho kết quả cơn toàn thể 
chiếm tỷ lệ 63,6%, cơn cục bộ là 27,3%, cơn 
không phân loại là 9,1%(14). Tại Hồng Kông, năm 
2001, một nghiên cứu trên 309 trẻ em cho kết 
quả 49,5% là cơn toàn thể, 48,2% là cơn cục bộ. 
Tại Việt Nam, Nguyễn Thúy Hường(7) bằng 
phương pháp khảo sát từng hộ gia đình thấy tỷ 
lệ cơn động kinh toàn thể là 74,8%, cơn động 
kinh cục bộ là 21,5%, cơn động kinh không phân 
loại là 3,7%. Tương tự như vậy, Nguyễn Văn 
Doanh(8) thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh thấy tỷ lệ 
cơn động kinh toàn thể là 72%, động kinh cục bộ 
là 17,7%, động kinh không phân loại là 10,3%. 
Trong nhóm động kinh toàn thể, loại cơn co 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 690 
cứng co giật chiếm 70,3%. Nghiên cứu của Lê 
Văn Tuấn(2) thực hiện từ tháng 1 năm 2002 đến 
tháng 6 năm 2002 tại khoa thần kinh bệnh viện 
Chợ Rẫy cho kết quả loại cơn cục bộ chiếm tỷ lệ 
64,6%. Loại cơn toàn thể là 35,4%. Cũng theo tác 
giả Lê Văn Tuấn(4) tại một nghiên cứu trên 183 
bệnh nhân tại khoa thần kinh bệnh viện Chợ 
Rẫy và phòng khám thần kinh bệnh viện Đại 
học Y Dược từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 8 
năm 2006 cho kết quả cơn cục bộ chiếm 72,1%, 
cơn toàn thể chiếm 22,4% và 5,5% không phân 
loại được cơn. Nghiên cứu của Tô Hồng Đức(13) 
thực hiện tại bệnh viện Nhi Đồng I từ tháng 4 
năm 2006 đến tháng 3 năm 2007, qua khảo sát 99 
bệnh nhân, kết quả thấy cơn toàn thể chiếm 
38,4%, cơn cục bộ chiếm 47,5% và 14,1% không 
phân loại được. Một nghiên cứu dựa trên số 
bệnh nhân đang quản lý tại cộng đồng, giống 
như nghiên cứu của chúng tôi, thực hiện năm 
2005 tại Tiền Giang của Dương Hữu Lễ(1) cho kết 
quả loại cơn toàn thể có tỷ lệ 68,4% trong đó 
dạng co cứng co giật là 54,3%. Loại cơn cục bộ 
chiếm 31,1%. 
Trong các nghiên cứu nêu trên, các nghiên 
cứu tại cộng đồng đều cho kết quả tỷ lệ cơn toàn 
thể cao hơn cơn cục bộ. Các nghiên cứu tại bệnh 
viện đều cho kết quả cơn cục bộ chiếm tỷ lệ cao 
hơn cơn toàn thể. Sự khác biệt có lẽ nằm ở cơ 
cấu của dân số mẫu khảo sát trong bệnh viện, 
đặc biệt là ở bệnh viện tuyến cuối khác với dân 
số mẫu trong cộng đồng. Thêm vào đó là khả 
năng phát hiện và phân loại cơn của cán bộ 
tham gia nghiên cứu tại cộng đồng và bản thân 
bộ câu hỏi tầm soát không đặc hiệu cho các loại 
cơn không co cứng co giật, nên trong các nghiên 
cứu tại cộng đồng thì loại cơn có co giật hiếm 
khi bị bỏ sót trong khi các cơn không co giật 
thường rất hay bị bỏ sót. 
 Việc sử dụng thuốc chống động kinh tùy 
thuộc vào loại cơn của bệnh nhân, kinh nghiệm 
sử dụng thuốc của bác sỹ, tính sẵn có của thuốc, 
khả năng dung nạp thuốc và khả năng kinh tế 
của bệnh nhân. Ở những bệnh nhân nhận thuốc 
miễn phí, cơ hội để Bác sỹ chọn lựa thuốc là 
không nhiều với chỉ hai loại cấp miễn phí là 
Phenobarbital và Valproic Acid. 
Tác giả Maikowski nghiên cứu tại Ba Lan 
năm 2001, trên 6117 bệnh nhân động kinh thấy 
có 57,7% số bệnh nhân được dùng đơn trị liệu, 
có 31,7% số bệnh nhân được dùng 2 loại thuốc, 
số bệnh nhân dùng 3 loại thuốc là 8,8% và dùng 
trên 3 loại thuốc là 1,7%. 
Tỷ lệ dùng đơn trị liệu trong nghiên cứu của 
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của của 
Silpakit O. và cộng sự ở Thái Lan cho kết quả 
đơn trị liệu là 41,4%, xấp xỉ với tỷ lệ dùng đơn trị 
liệu trong nghiên cứu của Lê Văn Tuấn với tỷ lệ 
75,9%(2); nghiên cứu của Phạm Quỳnh Diệp(10) 
với tỷ lệ 94,4%. Tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ 
đơn trị liệu trong nghiên cứu của Dương Hữu 
Lễ(1) với tỷ lệ 68,8%. 
Xét riêng từng loại thuốc, chúng tôi thấy 
Valproic Acid được sử dụng nhiều nhất ở 56,5% 
số bệnh nhân. Phenobarbital được sử dụng ở 
49,8%, Carbamazepine 9,4%, Topramax 3,1%, 
Trileptal 0,9%, Keppra và Dihydan được sử 
dụng ít nhất ở 0,4% số bệnh nhân. 
Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng Phenobarbital 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn hẳn 
so với tỷ lệ dùng Phenobarbital trong nghiên 
cứu của Dương Hữu Lễ(1), với 85,9% bệnh 
nhân dùng Phenobarbital. Tuy vậy, tỷ lệ sử 
dụng Phenobarbital như vậy vẫn còn ở mức 
cao. Nguyên nhân làm cho tỷ lệ sử dụng 
Phenobarbital còn cao là do đa số bệnh nhân 
đã được sử dụng từ trước nên rất khó chuyển 
sang thuốc khác. Ngoài ra thuốc cấp miễn phí 
cho bệnh nhân tại địa phương chưa có những 
loại thuốc ưu thế điều trị cho các loại cơn cục 
bộ khác, nên Phenobarbital vẫn là lựa chọn 
duy nhất khi bệnh nhân không đáp ứng với 
Valproic Acid. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dương Hữu Lễ (2006). Tình hình quản lý động kinh tại huyện 
Châu Thành tỉnh Tiền Giang năm 2005. Luận án chuyên khoa 
II. Đại học Y Dược TP. HCM. 
2. Lê Văn Tuấn (2003). Đặc điểm lâm sàng, nguyên nhân và 
điều trị bệnh nhân động kinh tại khoa Thần Kinh bệnh viện 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 691
Chợ Rẫy. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP. 
Hồ Chí Minh. tập 7(1), tr.75-80. 
3. Lê Văn Tuấn (2005). Dịch tễ học động kinh. Chẩn đoán và 
điều trị động kinh. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Tp Hồ Chí 
Minh. tr.171-183. 
4. Lê Văn Tuấn (2007). Nghiên cứu khả năng áp dụng phân loại 
hội chứng động kinh trong thực hành lâm sàng, Tạp chí Y học 
TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, tập 11(1). 
tr.342-346. 
5. Lê văn Tuấn (2009). Đơn và đa trị liệu trong động kinh. 
6. Nguyễn Bá Hiền (2006). Đặc điểm lâm sàng-điện não ngoài 
cơn động kinh trẻ em dưới 15 tuổi tại bệnh viện Nhi Đồng I. 
Luận văn tốt nghiệp cao học, Đại học Y dược TP.Hồ Chí 
Minh. 
7. Nguyễn Thúy Hường (2001). Dịch tễ học động kinh tại tỉnh 
Hà Tây, Việt Nam. Luận án Tiến sỹ Y học. Học viện Quân Y. 
8. Nguyễn Văn Doanh (2007). Nghiên cứu một số đặc điểm dịch 
tễ học và điều trị động kinh ở một cộng đồng dân cư thuộc 
huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học 
Y Hà Nội. 
9. Nguyễn Văn Hướng (2004). Nghiên cứu tỷ lệ mắc và thực 
trạng quản lý động kinh tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà 
Nội năm (2003). Luận văn Bác sỹ nội trú. Đại học Y Hà Nội. 
10. Phạm Quỳnh Diệp, Lâm xuân Điền, Phạm Thị Hồng Nhung 
(2002). Các thể lâm sàng động kinh trên trẻ em khám tại trung 
tâm sức khỏe tâm thần TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học TP. 
Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh. tập 3(6). 
tr.70-76. 
11. Senanayake N., Roman G.C. (1993). Epidemiology of epilepsy 
in developing countries. Bulletin of the World Health 
Organization. 71 (2). pp.247-258. 
12. Sun Yuelian, Vestergaard, Mogens, Pedersen, Carsten Bocker; 
Christensen, Jakob,Olsen, Jorn. (2006) Apgar Scores and long-
Term of Epilepsy Epidermiology, May 2006 - Volume 17 - 
Issue 3, pp.296-301 
13. Tô Hồng Đức (2008). Phân loại cơn động kinh trẻ em tại bệnh 
viện Nhi Đồng I thành phố Hồ Chí Minh Tạp chí Y học TP. 
Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh. tập 12(3). 
tr.172-175. 
14. Tu Luong Mac, Duc-Si Tran, Fabrice Quet, Peter Odermatt, 
Pierre-Marie Preux, Chong Tin Tan (2007). Epidemiology, 
aetiology, and clinical management of epilepsy in Asia: a 
systematic review Lancet Neurol 6. pp.533-43. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_benh_dong_kinh_duoc_quan_ly_tai_thanh_pho_vung_tau.pdf