Cúm (influenza) và chăm sóc y tế

Bệnh cúm là bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do

virus cúm gây ra và có khả năng lây nhiễm cao.

Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và thường xảy

ra theo mùa. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam,

đã có rất nhiều đại dịch cúm làm chết hàng triệu

người. Ngày nay một số đối tượng như trẻ em,

người già, phụ nữ có thai và một số người mắc

các bệnh mạn tính vẫn có thể gặp nguy hiểm ngay

cả khi bị nhiễm cúm thông thường

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Cúm (influenza) và chăm sóc y tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cúm (influenza) và chăm sóc y tế

Cúm (influenza) và chăm sóc y tế
 Tổng quan
31
Hô hấp số 17/2018
1. GIỚI THIỆu
Bệnh cúm là bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do 
virus cúm gây ra và có khả năng lây nhiễm cao. 
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và thường xảy 
ra theo mùa. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam, 
đã có rất nhiều đại dịch cúm làm chết hàng triệu 
người. Ngày nay một số đối tượng như trẻ em, 
người già, phụ nữ có thai và một số người mắc 
các bệnh mạn tính vẫn có thể gặp nguy hiểm ngay 
cả khi bị nhiễm cúm thông thường. 
2. TỔNG QuAN VỀ CÚM
Virus cúm:
Hiện có 3 type virus cúm là cúm A, B và C. Trong 
đó cúm A và B là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh. 
Cúm A thường gặp và là nguyên nhân của nhiều 
đại dịch lớn trên thế giới. Cúm B gây bệnh nhẹ 
hơn và có xu hướng lưu hành cùng với cúm A 
trong các đợt bùng phát hàng năm. Cúm C gây 
bệnh nhẹ hoặc không triệu chứng giống như cảm 
lạnh, gây viêm hô hấp cấp ở trẻ em và một số ca 
ở người lớn (1).
- Đặc tính kháng nguyên: Cúm A được 
phân loại dựa vào kháng nguyên bề mặt của 
chúng. Kháng nguyên H (haemagglutinin) là 
glycoprotein bề mặt gắn kết với các đầu sialic acid 
trên glycoprotein bề mặt tế bào biểu mô hô hấp. 
Đây là vị trí gắn kết cần thiết để gây lây nhiễm. 
Nói cách khác, hemagglutinin giúp virus đi vào tế 
bào hô hấp của người bị nhiễm. Kháng nguyên N 
(neuraminidase) phá vỡ các liên kết giữa virus và 
tế bào biểu mô hô hấp, đồng thời, neuraminidase 
tương tác với quá trình bắt giữ tự tập trung qua 
trung gian hemagglutinin trong dịch tiết hô hấp. 
Do đó, neuraminidase giúp phóng thích virus 
từ các tế bào bị nhiễm virus ra ngoài. Trong các 
chủng gây bệnh ở người, 3 hemagglutinin dưới 
nhóm (H1, H2 và H3) và 2 neuraminidase dưới 
nhóm (N1 và N2) đã được mô tả. Hiện tại, đã có 
16 loại hemagglutinin và 9 loại neuraminidase 
của chủng cúm A được báo cáo. 
- Hoán vị kháng nguyên (antigenic shift) và 
biến thể kháng nguyên (antigenic drift): Virus 
cúm A có khả năng đặc biệt là thay đổi các kháng 
nguyên trên glycoprotein vỏ của chúng, thông 
qua hoán vị kháng nguyên và biến thể kháng 
nguyên. Hoán vị kháng nguyên là các thay đổi lớn 
về kháng nguyên H và N, trong khi đó biến thể 
kháng nguyên là các thay đổi nhỏ. Hoán vị kháng 
nguyên có tương quan tới các đợt dịch và đại dịch 
cúm A, trong khi biến thể kháng nguyên chỉ gây 
ra các đợt bùng phát ở địa phương với nhiều mức 
độ khác nhau.
Cụ thể, hoán vị kháng nguyên là kết quả của 
một phần bộ gen virus cúm có tỷ lệ cao bị hoán vị 
ở các virus khác nhau cùng nhiễm trên cùng một 
tế bào. Hoán vị giữa virus động vật và người gây 
ra các dưới type đại dịch (bảng 1) (2,3).
CÚM (INFLuENZA) VÀ CHăM SÓC y TẾ
ThS.BS NGuyỄN NHƯ VINH
Trung Tâm Đào Tạo Bác Sĩ Gia Đình, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Khoa Thăm Dò Chức Năng Hô Hấp, Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
BS TRẦN QuỐC TÀI 
Khoa Thăm Dò Chức Năng Hô Hấp, Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
 Tổng quan
32
Hô hấp số 17/2018
Bảng 1. Dưới type virus cúm A và tương quan với các 
trận dịch hay đại dịch trên thế giới (4). 
Năm Dưới type Mức độ nặng đợt bùng phát
1889 – 1890 H2N8 Đại dịch nặng
1900 – 1903 H3N8 Dịch trung bình
1918 – 1919 H1N1 Đại dịch nặng
1933 – 1935 H1N1 Dịch nhẹ
1946 – 1947 H1N1 Dịch nhẹ
1957 – 1958 H2N2 Đại dịch nặng
1968 – 1969 H3N2 Đại dịch trung bình
1977 – 1978 H1N1 Đại dịch nhẹ
2009 – 2010 H1N1 Đại dịch nhẹ tới trung bình
Giữa các năm xảy ra sự hoán vị kháng nguyên, 
biến thể kháng nguyên xảy ra gần như mỗi năm, 
gây ra các đợt bùng phát ở nhiều mức độ khác nhau. 
Tuy vậy, các đợt bùng phát này thường ít lan rộng 
và nặng nề như các đợt dịch và đại dịch do hoán 
vị kháng nguyên. Biến thể kháng nguyên được các 
nhà khoa học cho rằng là kết quả của các đột biến 
điểm trong đoạn gen RNA quy định hemagglutinin 
hay neuraminidase, hay xảy ra sau khi lây nhiễm ở 
dân số nhạy cảm (5). Nhờ hai hiện tượng này, virus 
cúm khi chuyển đổi một trong 2 loại kháng nguyên 
H và N này thì nó sẽ trở thành một virus dưới type 
khác. Ví dụ như loại cúm H1N2 khi thay đổi kháng 
nguyên N2 thành N1 thì sẽ tạo thành loại mới là 
H1N1 hoặc khi kháng nguyên H1 chuyển thành 
H5 thì sẽ tạo ra loại mới là H5N2. Như vậy, với 
khả năng chuyển đổi rất lớn các kháng nguyên H 
và N, có rất nhiều virus cúm A dưới type với tổ hợp 
H và N khác nhau. So với virus cúm A, virus cúm 
B ít có xu hướng thay đổi kháng nguyên hơn, chỉ 
có biến thể kháng nguyên về hemagglutinin được 
báo cáo. Vì có quá nhiều loại cúm A chỉ khác nhau 
kháng nguyên H và/hoặc N nên thuốc chích ngừa 
cúm phải thay đổi thường xuyên để phù hợp với 
loại cúm A đang hiện diện nhiều nhất. Đây cũng 
là lý do các thuốc chích ngừa cúm thay đổi hàng 
năm và các thuốc ở năm trước nếu dùng không hết 
không thể dùng trong năm kế tiếp. Một số loại cúm 
nổi tiếng vì khả năng gây bệnh nguy hiểm như cúm 
gia cầm H5N1. Cúm H1N1 cũng đã từng gây nguy 
hiểm với tên gọi là cúm heo.
Cách thức gây bệnh và lan truyền của cúm:
Virus cúm A tồn tại khá lâu ngoài môi trường, có 
thể sống từ 24 đến 48 giờ trên các bề mặt như bàn, 
ghế, tủ... hay có thể tồn tại trong quần áo từ 8 đến 
12 giờ và duy trì được 5 phút trong lòng bàn tay. 
Loại virus này đặc biệt sống lâu trong môi trường 
nước như có thể sống được đến 4 ngày trong môi 
trường nước ở nhiệt độ khoảng 22 độ C và sống 
đến 30 ngày ở nhiệt độ 0 độ C. Do đó, các hồ bơi 
trong các khách sạn cũng có thể tạo ra môi trường 
cho virus phát triển, nhất là vào tiết trời mưa dầm, 
thiếu ánh nắng để diệt virus.
Cúm thường lây nhiễm từ người sang người 
qua đường hô hấp khi người bệnh hít phải virus 
có trong các luồng khí từ đường hô hấp của người 
bị cúm khi người đó ho hay hắt hơi. Bệnh cũng có 
thể lây truyền qua tiếp xúc với mầm bệnh như tay 
dính virus qua bắt tay, sử dụng chung điện thoại, 
remote tivi rồi đưa lên mắt, mũi hay miệng của 
mình. Người mang virus cúm A(H1N1) có khả 
năng truyền virus cho những người xung quanh 
trong thời gian 1 ngày trước tới 7 ngày sau kể từ 
khi có triệu chứng của bệnh. Bệnh lây lan càng 
mạnh, càng nhanh khi có sự tiếp xúc trực tiếp với 
người bệnh, đặc biệt ở nơi tập trung đông người 
như trường học, nhà trẻ, bệnh viện.
Lịch sử các đại dịch ở Việt Nam và thế giới:
Các đợt bùng phát dịch do cúm A thường khởi 
phát điển hình một cách đột ngột, đặt đỉnh trong 
vòng 2 tới 3 tuần và kéo dài từ 2 tới 3 tháng (6,7). 
Trong phần lớn các đợt bùng phát, chỉ điểm sớm 
nhất của hoạt động cúm là tăng bệnh lý hô hấp có 
sốt ở trẻ em, theo sau là tăng các bệnh lý do cúm 
ở người lớn. Phần lớn các đợt bùng phát có tỷ lệ 
tấn công 10-20% dân số chung, nhưng tỷ lệ này 
có thể vượt quá 50% trong các đợt đại dịch (8). 
Tại Việt Nam, đại dịch cúm gần đây nhất 
là vào năm 2009 do cúm gia cầm A dưới type 
H1N1. Theo báo cáo của Bộ Y tế Việt Nam, từ 
31/05/2009 tới 30/09/2009, Việt Nam có 9.868 
trường hợp nhiễm cúm H1N1, trong đó có 22 ca 
tử vong. Hình 1 thể hiện rõ đỉnh điểm của trận đại 
dịch, so sánh với các năm còn lại.
 Tổng quan
33
Hô hấp số 17/2018
Trong một nghiên cứu ở 33 nước từ năm 
1999 tới 2015, công bố trên tờ Lancet vào năm 
2018, cho thấy tỷ lệ bệnh tật về hô hấp do cúm 
mỗi năm thay đổi từ 0,1 tới 6,4/100 ngàn dân < 
65 tuổi, 2,9 - 44,0/100 ngàn dân 65-74 tuổi và 
17,9 - 223,5/100 ngàn dân ở các đối tượng ≥ 75 
tuổi (9). Tỷ lệ tử vong cao nhất ước tính ở Châu Phi 
Hạ Sahara (2,8 - 16,5/100 ngàn dân), Đông Nam 
Á (3,5 - 9,2/100 ngàn dân) và ở các đối tượng 
≥75 tuổi (51,3 - 99,4/100 ngàn dân). Bệnh nhân 
có bệnh mạn tính phải nhập viện nhiều vì cúm 
dao động từ khoảng 20 tới hơn 1000/100 ngàn 
dân, với tỷ lệ cao nhất xảy ra ở nhóm đối tượng 
nhỏ hơn 5 tuổi và lớn hơn 64 tuổi.
Mặc dù tỷ lệ tử vong thường không đồng đều 
trong các trận đại dịch cúm, tập trung ở các đối 
tượng lớn tuổi và trẻ sơ sinh, một sự dịch chuyển 
về tuổi đã được báo cáo trong các trận đại dịch (10,11). 
Trong trận đại dịch cúm năm 1918, tỷ lệ tử vong 
cao nhất xảy ra không chỉ hai độ tuổi biên mà còn ở 
người trẻ từ 20 tới 40 tuổi. Trong trận đại dịch năm 
2009, tỷ lệ bệnh tật và tử vong cao được ghi nhận ở 
nhóm trẻ em và thanh thiếu niên. Trong năm 2018, 
chỉ có một số ca nhiễm cúm được báo cáo tại Việt 
Nam. Số liệu này được thể hiện ở hình 2.
Hình 1. Số mẫu cúm dương tính theo phân loại dưới nhóm tại Việt Nam trong 10 năm 2007-2017 
(Nguồn: FluNet, www.who.int/flunet, GISRS)
Hình 2. Số mẫu cúm dương tính theo phân loại dưới nhóm tại Việt Nam trong năm 2018 
(Nguồn: FluNet, www.who.int/flunet, GISRS)
 Tổng quan
34
Hô hấp số 17/2018
3. CHẨN ĐOÁN MỘT NGƯỜI BỊ NHIỄM CÚM
Cúm mùa (seasonal influenza) là bệnh hô hấp 
cấp tính gây ra do virus cúm A và B. Mặc dù 
xấu đi nhanh, nhiễm cúm thường tự giới hạn. 
Tuy nhiên, bệnh tật và tử vong tăng lên ở một số 
dân số nguy cơ cao. Trong thời gian diễn ra một 
đợt bùng phát cúm, bệnh nhân tới với bệnh hô 
hấp cấp tính kèm sốt có thể được chẩn đoán là 
nhiễm cúm với khả năng chính xác cao. Ngược 
lại, những trường hợp riêng lẻ nhiễm cúm không 
thể phân biệt với nhiễm các virus khác nếu chỉ 
dựa vào dữ kiện lâm sàng.
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chẩn đoán, 
điều trị và phòng lây nhiễm cúm A (H1N1), tiêu 
chuẩn chẩn đoán nhiễm cúm như sau: nghi ngờ 
khi bệnh nhân có yếu tố dịch tễ, sốt và triệu chứng 
viêm long đường hô hấp; chẩn đoán xác định khi 
bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng cúm và có xét 
nghiệm dương tính khẳng định nhiễm vi rút cúm 
A (H1N1). Người lành mang virus là người không 
có biểu hiện lâm sàng nhưng xét nghiệm có cúm 
A (H1N1). Những trường hợp này cũng phải được 
báo cáo (12). 
Bệnh nhân nên được xét nghiệm tìm cúm nếu 
kết quả xét nghiệm sẽ ảnh hưởng tới quyết định 
lâm sàng như bắt đầu điều trị kháng virus hay 
kháng sinh, tiến hành các xét nghiệm khác. Các 
bệnh nhân nên được xét nghiệm gồm bệnh nhân 
nội trú có bệnh hô hấp cấp tính kèm sốt, tất cả các 
bệnh nhân suy giảm miễn dịch có bệnh hô hấp cấp 
tính kèm sốt. Đồng thời, bác sĩ điều trị cũng cần 
hiểu được giới hạn của các xét nghiệm tìm cúm 
và ảnh hưởng của kết quả tới quyết định lâm sàng 
(bảng 2). Vì xét nghiệm kháng nguyên nhanh có 
độ nhạy kém, kết quả âm tính nên cần được phân 
tích cẩn thận, xem xét có phải âm giả hay không. 
Trong một số tình huống, có thể tiếp tục làm RT-
PCR và/hoặc cấy virus để có chẩn đoán xác định.
Bảng 2. Đặc điểm của các xét nghiệm tìm virus cúm (13).
Xét nghiệm Thời gian có kết quả Mẫu chấp nhận được Nhận xét
RT-PCR thông thường và xét 
nghiệm phân tử khác (xác định 
RNA hay nucleic acid virus cúm)
Dao động (thông 
thường 1 tới 8 giờ)
Phết mũi hầu, rửa mũi hầu hay 
phế quản, dịch hút mũi hay nội 
khí quản, đàm, phết họng*
Độ nhạy cao, độ chuyên rất cao; 
được khuyến cáo mạnh, có thể phân 
biệt giữa cúm A và B và dưới type
Xét nghiệm phân tử nhanh 
(xác định RNA hay nucleic 
acid virus cúm)
<30 phút Phết mũi hầu, phết mũi Độ nhạy và độ chuyên cao, được 
khuyến cáo mạnh, có thể phân biệt 
giữa cúm A và B và dưới type
Miễn dịch huỳnh quang 1 tới 4 giờ Phết hay rữa mũi hầu, rửa phế 
quản, dịch hút mũi hay nội khí 
quản
Độ nhạy trung bình cao và độ chuyên 
cao, được khuyến cáo, có thể xác 
định và phân biệt cúm A và B, giữa 
cúm A/B và các virus hô hấp khác 
Xét nghiệm miễn dịch điện tử 
(xét nghiệm xác định kháng 
nguyên miễn dịch sắc ký 
nhanh)
10 tới 15 phút Xét nghiệm miễn CLIA: phết 
mũi hầu, phết mũi
Xét nghiệm không miễn CLIA: 
rửa mũi hầu, dịch hút mũi hầu
Độ nhạy trung bình cao và độ 
chuyên cao, có thể phân biệt giữa 
cúm A và B và dưới type
Xét nghiệm chẩn đoán cúm 
nhanh
Phết mũi hầu, rửa mũi, dịch 
hút mũi, phết họng*
Độ nhạy thấp tới trung bình, độ 
chuyên cao, được khuyến cáo, trong 
đợt bùng phát, kết quả âm tính 
không giúp loại trừ chẩn đoán
Xác định kháng nguyên (EIA) < 15 phút - Tùy vào xét nghiệm, có thể chỉ xác 
định cúm A, xác định và phân biệt 
cúm A và B, hay xác định nhưng 
không phân biệt cúm A và B
 Tổng quan
35
Hô hấp số 17/2018
4. CHăM SÓC y TẾ CHO NGƯỜI BỊ NHIỄM 
CÚM
Chăm sóc ở tuyến ban đầu:
Hầu hết bệnh nhân bị cúm tự hết sau 1-2 tuần mà 
không cần điều trị. Tuy nhiên, các biến chứng 
nghiêm trọng có thể xảy ra, với biểu hiện khó thở, 
đau hay đè ép lồng ngực hay dạ dày, có dấu hiệu 
mất nước như chóng mặt khi đứng hay không đi 
tiểu, lơ mơ hay nôn liên tục hay không thể uống 
đủ nước. Trẻ em có thể biểu hiện bằng da xanh tái, 
bứt rứt nhiều, khóc không có nước mắt (sơ sinh), 
sốt kèm nổi ban hay khó đánh thức. Bộ Y tế quy 
định bệnh nhân nhiễm cúm phải được cách ly và 
thông báo kịp thời cho cơ quan y tế dự phòng (12). 
Điều trị triệu chứng như sốt, đau đầu, mỏi cơ 
do cúm với acetaminophen hay các thuốc kháng 
viêm không steroid. Nên tránh salicylate, đặc biệt 
ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi vì mối 
tương quan giữa sử dụng salicylate và hội chứng 
Reye ở các đối tượng nhiễm cúm. Thuốc ho có 
thể được dùng để giảm bớt ho, tuy nhiên, ho đi 
kèm với nhiễm cúm thường tự giới hạn ở phần 
lớn các trường hợp. Điều trị triệu chứng cúm giúp 
bệnh nhân cảm thấy khỏe hơn nhưng không thể 
giúp bệnh cúm hết nhanh hơn. Bệnh nhân cũng 
được khuyến khích uống nhiều nước, nghỉ ngơi 
cho đến khi bình phục hoàn toàn, cùng với hoạt 
động trong giới hạn dung nạp. Kháng sinh chỉ 
được chỉ định khi có biến chứng nhiễm vi khuẩn 
đi kèm với cúm, như trong trường hợp viêm phổi, 
viêm tai giữa hay viêm xoang do vi khuẩn.
Chăm sóc ở bệnh viện:
Thuốc kháng virus có thể được dùng để điều trị 
hay phòng ngừa cúm, tuy nhiên thuốc này không 
phổ biến ở nước ta và thường chỉ được dùng trong 
mùa dịch. Phần lớn người mắc cúm không cần 
phải sử dụng đến thuốc này mà chỉ những người 
có triệu chứng nặng hay có nguy cơ bị biến chứng 
cao mới được bác sĩ chỉ định dùng thuốc này. 
Hiện có hai nhóm thuốc kháng virus được dùng 
để điều trị và dự phòng cúm là (14,15): 
- Thuốc ức chế neuraminidase (zanamivir - 
Relenza®, oseltamivir - Tamiflu® và peramivir) 
điều trị được cả cúm A và B. Thuốc ức chế 
neuraminidase có hiệu quả trung bình, làm giảm 
thời gian và mức độ nặng triệu chứng, đặc biệt khi 
được điều trị sớm. Thuốc ức chế neuraminidase 
cũng làm giảm thời gian giảm hiệu giá virus (16). 
Xét nghiệm Thời gian có kết quả Mẫu chấp nhận được Nhận xét
Xét nghiệm xác định 
neuraminidase
< 15 phút - Xác định nhưng không phân biệt 
cúm A và B
Cấy virus Phết mũi hầu, rửa mũi hầu hay 
phế quản, dịch hút mũi hay nội 
khí quản, phết họng*
Độ nhạy trung bình cao và độ chuyên 
cao nhất, dùng để xác nhận lại kết 
quả của xét nghiệm tầm soát, nhưng 
không có vai trò trong can thiệp sớm
Cấy virus trong vỏ 24 tới 72 giờ - -
Phân lập trong cấy tế bào 3 tới 10 ngày - -
Xét nghiệm huyết thanh (ức 
chế hemagglutinin, ELISA, 
gắn kết bổ thể hay trung hòa)
Huyết thanh Chỉ có ở một số phòng thí nghiệm, 
không có vai trò trong can thiệp 
sớm, chỉ khuyến cáo để chẩn đoán 
hồi cứu, theo dõi hay nghiên cứu
Viết tắt: RT-PCR: reverse-transcriptase polymerase chain reaction (phản ứng chuỗi polymerase sao mã ngược); CLIA: Clinical Laboratory Improvement 
Amend ...  từ 13% tới 17%, chủ yếu do độc tính 
lên hệ thần kinh trung ương (23,24). Rimantadine ít 
gây các tác dụng này hơn so với amantadine (6% 
so với 13%) và có tỷ lệ bỏ trị do tác dụng phụ 
ngang giả dược (23,24). 
Khi có chỉ định, điều trị kháng virus nên được 
bắt đầu càng sớm càng tốt vì điều trị kháng virus 
có hiệu quả nhất trong vòng 48 giờ đầu tiên. Điều 
trị không nên bị trì hoãn vì đợi kết quả xét nghiệm 
chẩn đoán, hay ngừng điều trị ở các bệnh nhân có 
chỉ định đến khám > 48 giờ sau khi khởi phát triệu 
chứng, đặc biệt ở các bệnh nhân cần nhập viện. 
Hơn nữa, bệnh nhân có kết quả xét nghiệm kháng 
nguyên cúm nhanh âm tính nhưng trên lâm sàng 
vẫn nghi ngờ nhiều cúm thì nên được điều trị vì 
các xét nghiệm này có độ nhạy thấp.
Theo UpToDate 2018 (25), tất cả các bệnh 
nhân có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc 
đang nghi ngờ nhiễm cúm có bệnh cảnh nặng, 
như nhiễm trùng hô hấp dưới (khó thở, thở nhanh, 
giảm bão hòa oxy không rõ nguyên nhân) hay có 
các dấu hiệu lâm sàng xấu nhanh, được điều trị 
kháng virus với oseltamivir nếu đến khám sớm 
(<48 giờ) (Mức khuyến cáo 1B) hay trễ hơn (Mức 
khuyến cáo 1C). Các bệnh nhân ngoại trú đến 
khám trong vòng 48 giờ sau khi triệu chứng khởi 
phát có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc đang 
nghi ngờ nhiễm cúm và có nguy cơ cao bị biến 
chứng được điều trị với oseltamivir hay zanamivir 
(Mức khuyến cáo 1A). Nguy cơ cao bị biến chứng 
thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. Các nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị biến chứng 
do cúm (26) 
Trẻ em < 5 tuổi, đặc biệt < 2 tuổi
Người lớn ≥ 65 tuổi
Phụ nữ mang thai hay, hậu sản tới 2 tuần
Người ở nhà dưỡng lão hay cơ sở chăm sóc lâu dài
Người có các tình trạng bệnh lý đi kèm:
Hen
Bệnh lý thần kinh và phát triển thần kinh (gồm các rối 
loạn não bộ, tủy sống, thần kinh ngoại vi và cơ như 
bại não, động kinh, đột quỵ, chậm phát triển tâm thần, 
chậm phát triển trung bình tới nặng, loạn sản cơ, chấn 
thương tủy sống)
Bệnh phổi mạn tính (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, 
xơ nang)
Bệnh tim (bệnh tim bẩm sinh, suy tim ứ huyết, bệnh 
mạch vành)
Rối loạn máu (bệnh hồng cầu hình liềm)
Rối loạn nội tiết (đái tháo đường)
Rối loạn thận
Rối loạn gan
Rối loạn chuyển hóa (rối loạn chuyển hóa di truyền, 
rối loạn ty thể)
Hệ miễn dịch suy yếu do bệnh lý (HIV, AIDS, ung thư) 
hay thuốc (glucocorticoid mạn)
Trẻ em < 19 tuổi điều trị aspirin dài hạn
Béo phì nhiều (chỉ số khối cơ thể BMI ≥ 40)
Các yếu tố khiến nhiễm cúm dễ nặng ở bệnh 
nhân lớn tuổi bao gồm giảm độ đàn hồi của phổi, 
giảm sức cơ hô hấp, giảm miễn dịch tế bào và giảm 
đáp ứng tế bào B với các kháng nguyên mới (27). 
Điều trị kháng virus cũng nên được xem xét ở 
 Tổng quan
37
Hô hấp số 17/2018
bệnh nhân cắt lách nhiễm cúm. Mặc dù không có 
dữ liệu nào về nguy cơ cúm nặng hay biến chứng 
ở các bệnh nhân cắt lách, cúm là một yếu tố nguy 
cơ nhiễm trùng thứ phát có thể gây bệnh nặng ở 
các đối tượng này (28). 
Cũng theo UpToDate 2018 (25), các bệnh 
nhân ngoại trú đến khám trong vòng >48 giờ sau 
khi triệu chứng khởi phát có chẩn đoán xác định 
nhiễm cúm hoặc đang nghi ngờ nhiễm cúm và có 
nguy cơ cao bị biến chứng, chưa có dấu hiệu hồi 
phục, được điều trị với oseltamivir hay zanamivir 
(Mức khuyến cáo 1C). Các bệnh nhân đến khám 
trong vòng 48 giờ sau khi triệu chứng khởi phát 
với bệnh cảnh nhẹ, không có nguy cơ biến chứng 
được điều trị kháng virus (Mức khuyến cáo 2C). 
Các bệnh nhân nhiễm cúm không biến chứng có 
triệu chứng hơn 48 giờ không được điều trị kháng 
virus (Mức khuyến cáo 1B). Tất cả phụ nữ mang 
thai có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc đang 
nghi ngờ nhiễm cúm, ngay cả khi đến khám sau 
48 giờ khởi phát triệu chứng, chưa có dấu hiệu 
hồi phục, được điều trị kháng virus (Mức khuyến 
cáo 2C).
Bác sĩ điều trị nên xem xét dữ liệu theo dõi 
cúm mỗi mùa để xác định type cúm nào (A hay 
B) và dưới type nào của cúm A (H1N1 hay H3N2) 
đang lưu hành, cũng như kiểu hình đề kháng 
thuốc kháng virus. Thuốc ức chế neuraminidase 
(oseltamivir và zanamivir) được khuyến cáo để 
điều trị bệnh nhân nhiễm cúm. Zanamivir đường 
hít không được khuyến cáo để điều trị các bệnh 
nhân nhập viện do ít dữ liệu ở nhóm đối tượng này. 
Các bệnh nhân bệnh cảnh nặng không thể điều 
trị với oseltamivir do không thể dung nạp đường 
dạ dày, nên được điều trị peramivir đường tĩnh 
mạch. Mặc dù Cục quản lý thực phẩm và dược 
phẩm Hoa Kỳ (FDA) chỉ chấp nhận peramivir 
tĩnh mạch cho bệnh nhân nhiễm cúm không biến 
chứng, nhóm tác giả nghĩ rằng các bệnh nhân 
có bệnh cảnh nặng không thể uống oseltamivir, 
do đó cần dùng oseltamivir đường nuôi ăn hay 
peramivir đường tĩnh mạch.
Theo phác đồ của Bộ Y Tế Việt Nam (12), liều 
lượng thuốc kháng virus để điều trị cúm A H1N1 
như sau:
- Oseltamivir (Tamiflu): 
Người lớn và trẻ em trên 13 tuổi: 75mg x 2 
lần/ngày x 5 ngày. 
Trẻ em từ 1-13 tuổi: dùng dung dịch uống tuỳ 
theo trọng lượng cơ thể 
<15 kg: 30 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày.
16-23 kg: 45 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. 
24-40 kg: 60 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày.
> 40 kg: 75 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày.
Trẻ em dưới 12 tháng:
< 3 tháng: 12 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày.
3-5 tháng: 20 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày.
6-11 tháng: 25 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày.
- Zanamivir: dạng hít định liều. Sử dụng trong 
các trường hợp: Không có oseltamivir, trường 
hợp chậm đáp ứng hoặc kháng với oseltamivir.
Người lớn và trẻ em trên 7 tuổi: 2 lần xịt 5mg 
x 2 lần/ngày.
Trẻ em: Từ 5-7 tuổi: 2 lần xịt 5 mg x 1 lần/
ngày.
Do đề kháng ngày càng nhiều, Ủy ban tư 
vấn về thực hành tiêm chủng (ACIP) khuyến cáo 
adamantine không được sử dụng ở Hoa Kỳ để 
điều trị cúm, trừ một số trường hợp cụ thể (14). 
Cân bằng với nguy cơ tạo ra sự đề kháng thuốc 
kháng virus, việc chọn lựa bệnh nhân để điều trị 
là rất quan trọng. Các bệnh nhân có bệnh nặng 
(cần nhập viện hay có bằng chứng nhiễm trùng hô 
hấp dưới) hay có nguy cơ cao có biến chứng nên 
được điều trị.
Mặc dù đã có một số nghiên cứu về việc kết 
hợp các thuốc kháng virus, cách điều trị này chưa 
được khuyến cáo vì chưa đủ bằng chứng về lợi 
ích. Trong một nghiên cứu thử nghiệm đa trung 
 Tổng quan
38
Hô hấp số 17/2018
tâm mù đôi, bệnh nhân nhiễm cúm có nguy cơ 
cao bị biến chứng được phân ngẫu nhiên điều 
trị 5 ngày với bộ ba oseltamivir, amantadine và 
ribavirin hay một mình oseltamivir (29). Tỷ lệ bệnh 
nhân với kết quả PCR phết mũi hầu xác định 
virus vào ngày 3 thấp hơn ở nhóm điều trị bộ ba 
(40% so với 50%), nhưng không có sự khác biệt 
về các kết cục cuối (thời gian có triệu chứng). 
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, trong trường hợp 
nhiễm cúm nặng có thể phối hợp oseltamivir và 
zanamivir (12). 
Bệnh nhân nhiễm cúm có thể phát triển Hội 
chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS). Lúc này, 
bệnh nhân cần được chăm sóc chuẩn cùng với các 
biện pháp thông khí bảo vệ phổi (thể tích thông 
khí thấp và có áp lực dương cuối thì thở ra) (30). Ở 
các bệnh nhân tiếp tục bị giảm oxi máu nặng mặc 
dù đã áp dụng các biện pháp trên, một số biện 
pháp khác như ECMO (oxy hóa máu bằng màng 
ngoài cơ thể) hay tư thế nằm sấp.
Phòng ngừa cúm:
- Chích ngừa: Cách tốt nhất để giảm nguy 
cơ mắc cúm là chích ngừa. Người đã chích ngừa 
nếu mắc cúm có thể nhẹ hơn, thời gian bị bệnh 
ngắn hơn và ít tử vong hơn người chưa chích 
ngừa. Hiện tại thuốc chích ngừa cúm đang lưu 
hành là thuốc được WHO khuyến cáo cho mùa 
cúm 2018 ở Nam bán cầu bao gồm các 3 chủng 
như sau: cúm A (H1N1), cúm A (H3N2) và cúm 
B (Phuket/3073/2013).
- Thuốc kháng virus: Thuốc kháng virus 
không nên dùng để thay thế cho chích ngừa 
cúm. Hiệu quả của thuốc kháng virus chỉ có ở 
một số đối tượng nhất định, như nguy cơ bị biến 
chứng do cúm, nguy cơ mắc cúm do phơi nhiễm, 
cân nhắc với nguy cơ đề kháng với thuốc kháng 
virus.
Theo UpToDate 2018, phòng ngừa cúm cho 
tất cả các người sinh sống ở các cơ sở chăm sóc 
dài hạn trong đợt bùng phát dù có chích ngừa cúm 
trước đó hay không (Mức khuyến cáo 1A). Tuy 
vậy, những người này nếu đã được chích ngừa 
trong mùa có vaccine khá tương đồng với virus 
cúm hiện lưu hành thì không cần dự phòng bằng 
thuốc kháng virus. Ở các đối tượng chưa chích 
ngừa có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm, đã 
tiếp xúc với người mắc cúm trong vòng 48 giờ, 
điều trị dự phòng được khuyến cáo (Mức khuyến 
cáo 1A). Những đối tượng có nguy cơ bị biến 
chứng, tiếp xúc với người mắc cúm trong vòng 
48 giờ, đã chích ngừa trước đây nhưng vaccine 
không tương đồng nên được điều trị dự phòng 
(Mức khuyến cáo 1A) (31).
- Lối sống: Người dân cần thường xuyên rửa 
tay với xà phòng và nước để có thể hạn chế lây 
truyền cúm. Có thể dùng các loại nước sát trùng 
thay thế. Mang khẩu trang hoặc dùng khăn giấy 
(che cả miệng lẫn mũi) khi ho hay hắt hơi và bỏ 
giấy này ngay sau khi sử dụng. Có thể ho và hắt 
hơi vào tay áo để không làm nhiễm bẩn tay cũng 
là cách hạn chế lây lan. Đồng thời, tránh để mắt, 
mũi và miệng tiếp xúc với mầm bệnh và tránh tiếp 
xúc gần với người đang mắc bệnh.
Đối với nhân viên y tế, việc áp dụng thật tốt 
các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn là rất quan 
trọng.
KẾT LuẬN
Cúm là bệnh do virus rất phổ biến và dễ mắc đối 
với mọi người. Tuy phần lớn người mắc cúm là 
nhẹ và tự khỏi nhưng cũng có nhiều đối tượng 
sẽ gặp nguy hiểm khi mắc cúm. Việc chẩn đoán 
bệnh cúm chủ yếu dựa vào biểu hiện lâm sàng 
(sốt, ho, mệt mỏi) nhưng trong một số trường hợp 
có thể cần dùng đến xét nghiệm để chẩn đoán. 
Điều trị cúm chủ yếu là điều trị triệu chứng và 
nghỉ ngơi, thuốc chống virus chỉ dùng trong một 
số trường hợp đặc biệt. Vì cúm rất dễ lây nên biện 
pháp phòng ngừa là tránh tiếp xúc với người bệnh 
và giữ vệ sinh bản thân cho tốt. Chích ngừa cúm 
cũng là một biện pháp phòng ngừa hiệu quả cho 
tất cả mọi người vì thuốc chích ngừa cúm an toàn 
và hiệu quả.
 Tổng quan
39
Hô hấp số 17/2018
1. Nesmith N, Williams JV, Johnson M, Zhu Y, Griffin M, Talbot 
HK. Sensitive diagnostics confirm that influenza C is an 
uncommon cause of medically attended respiratory illness in 
adults. Clinical Infectious Diseases. 2017;65(6):1037-1039.
2. R D. Harrison’s Principles of Internal Medicine. McGraw 
Hill; 2017.
3. Webster RG, Wright SM, Castrucci MR, Bean WJ, 
Kawaoka Y. Influenza–a model of an emerging virus 
disease. Intervirology. 1993;35(1-4):16-25.
4. Armstrong GL, Brammer L, Finelli L. Timely assessment 
of the severity of the 2009 H1N1 influenza pandemic. 
Clinical Infectious Diseases. 2011;52(suppl_1):S83-S89.
5. Webster R, Kendal A, Gerhard W. Analysis of antigenic 
drift in recently isolated influenza A (H1N1) viruses 
using monoclonal antibody preparations. Virology. 
1979;96(1):258-264.
6. Bresee J, Hayden FG. Epidemic influenza—responding 
to the expected but unpredictable. New England Journal 
of Medicine. 2013;368(7):589-592.
7. Glezen WP, Couch RB, MacLean RA, et al. Interpandemic 
influenza in the Houston area, 1974–76. New England 
Journal of Medicine. 1978;298(11):587-592.
8. Monto As, Kioumehr F. The Tecumseh study of 
respiratory illness: IX. Occurrence of influenza in 
the community, 1966–1971. American Journal of 
Epidemiology. 1975;102(6):553-563.
9.. Iuliano AD, Roguski KM, Chang HH, et al. 
Estimates of global seasonal influenza-associated 
respiratory mortality: a modelling study. The Lancet. 
2018;391(10127):1285-1300.
10. Simonsen L, Clarke MJ, Schonberger LB, Arden NH, 
Cox NJ, Fukuda K. Pandemic versus epidemic influenza 
mortality: a pattern of changing age distribution. Journal 
of infectious diseases. 1998;178(1):53-60.
11. Taubenberger JK, Morens DM. 1918 Influenza: the 
mother of all pandemics. Emerging infectious diseases. 
2006;12(1):15.
12. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng lây 
nhiễm cúm A (H1N1). https://thuvienphapluat.vn/
van-ban/The-thao-Y-te/Quyet-dinh-2762-QD-BYT- 
huong-dan-chan-doan-dieu-tri-phong-lay-nhiem-cum-A-
H1N1-92439.aspx, October 10th, 2019.
13. Harper SA, Bradley JS, Englund JA, et al. Seasonal 
influenza in adults and children—diagnosis, treatment, 
chemoprophylaxis, and institutional outbreak 
management: clinical practice guidelines of the 
Infectious Diseases Society of America. Clinical 
infectious diseases. 2009:1003-1032.
14. Fiore AE, Fry A, Shay D, et al. Antiviral agents for the treatment 
and chemoprophylaxis of influenza—recommendations of 
the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP). 
MMWR Recomm Rep. 2011;60(1):1-24.
15. Ghebrehewet S, MacPherson P, Ho A. Influenza. BMJ 
355: i6258. In:2016.
16.. Aoki FY, Boivin G. Influenza virus shedding—excretion 
patterns and effects of antiviral treatment. Journal of 
Clinical Virology. 2009;44(4):255-261.
17.. Abramowicz M, Rizack M. Drugs for non-HIV viral 
infections. Treat Guidel Med Lett. 2007;5(59):59-70.
18. Relenza dear doctor letter in EU follow U.S. advisory. 
In: “The Pink Sheet” F-D-C Reports, Chevy Chase, MD, 
January 31, 2000, p. 20.
19. Tamiflu (oseltamivir phosphate) prescribing information, 
Roche Pharmaceuticals, revised November 2006.
20. Japan May Lift Warning on Use of Roche’s Tamiflu by 
Teenagers  
pid=20601101&sid=aaXFBeFgaXVE&refer=japan 
(Accessed on October 18, 2011).
21. Dobson J, Whitley RJ, Pocock S, Monto AS. 
Oseltamivir treatment for influenza in adults: a meta-
analysis of randomised controlled trials. The Lancet. 
2015;385(9979):1729-1737.
22. Weinstock DM, Zuccotti G. Adamantane resistance in 
influenza A. Jama. 2006;295(8):934-936.
23. Dolin R, Reichman RC, Madore HP, Maynard R, Linton 
PN, Webber-Jones J. A controlled trial of amantadine and 
rimantadine in the prophylaxis of influenza A infection. New 
England Journal of Medicine. 1982;307(10):580-584.
24. Monto AS, Ohmit SE, Hornbuckle K, Pearce CL. Safety and 
efficacy of long-term use of rimantadine for prophylaxis of 
type A influenza in nursing homes. Antimicrobial agents 
and chemotherapy. 1995;39(10):2224-2228.
25. Zachary KC. Treatment of seasonal influenza in adults. 
2018, October 10th, 2018.
26. CDC. Centers for Disease Control and Prevention. 
People at high risk of developing flu-related 
complications. www.cdc.gov/flu/about/disease/high_
risk.htm Accessed August 27, 2018.
27. Falsey AR, Walsh EE. Viral pneumonia in older adults. 
Clinical infectious diseases. 2006;42(4):518-524.
28. CDC. Centers for Disease Control and Prevention. 
Recommended adult immunization schedules--United 
States, 2008. MMWR Morb Mortal Wkly Rep 2007; 56:Q1.
29. Beigel JH, Bao Y, Beeler J, et al. Oseltamivir, amantadine, 
and ribavirin combination antiviral therapy versus 
oseltamivir monotherapy for the treatment of influenza: a 
multicentre, double-blind, randomised phase 2 trial. The 
Lancet Infectious Diseases. 2017;17(12):1255-1265.
30. Napolitano LM, Angus DC, Uyeki TM. Critically ill 
patients with influenza A (H1N1) pdm09 virus infection 
in 2014. Jama. 2014;311(13):1289-1290.
31. Zachary KC. Prevention of seasonal influenza with antiviral 
drugs in adults. 2018. Accessed October 10th, 2018.
Tài liệu tham khảo

File đính kèm:

  • pdfcum_influenza_va_cham_soc_y_te.pdf