Cúm (influenza) và chăm sóc y tế
Bệnh cúm là bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do
virus cúm gây ra và có khả năng lây nhiễm cao.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và thường xảy
ra theo mùa. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam,
đã có rất nhiều đại dịch cúm làm chết hàng triệu
người. Ngày nay một số đối tượng như trẻ em,
người già, phụ nữ có thai và một số người mắc
các bệnh mạn tính vẫn có thể gặp nguy hiểm ngay
cả khi bị nhiễm cúm thông thường
Bạn đang xem tài liệu "Cúm (influenza) và chăm sóc y tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cúm (influenza) và chăm sóc y tế
Tổng quan 31 Hô hấp số 17/2018 1. GIỚI THIỆu Bệnh cúm là bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do virus cúm gây ra và có khả năng lây nhiễm cao. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và thường xảy ra theo mùa. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam, đã có rất nhiều đại dịch cúm làm chết hàng triệu người. Ngày nay một số đối tượng như trẻ em, người già, phụ nữ có thai và một số người mắc các bệnh mạn tính vẫn có thể gặp nguy hiểm ngay cả khi bị nhiễm cúm thông thường. 2. TỔNG QuAN VỀ CÚM Virus cúm: Hiện có 3 type virus cúm là cúm A, B và C. Trong đó cúm A và B là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh. Cúm A thường gặp và là nguyên nhân của nhiều đại dịch lớn trên thế giới. Cúm B gây bệnh nhẹ hơn và có xu hướng lưu hành cùng với cúm A trong các đợt bùng phát hàng năm. Cúm C gây bệnh nhẹ hoặc không triệu chứng giống như cảm lạnh, gây viêm hô hấp cấp ở trẻ em và một số ca ở người lớn (1). - Đặc tính kháng nguyên: Cúm A được phân loại dựa vào kháng nguyên bề mặt của chúng. Kháng nguyên H (haemagglutinin) là glycoprotein bề mặt gắn kết với các đầu sialic acid trên glycoprotein bề mặt tế bào biểu mô hô hấp. Đây là vị trí gắn kết cần thiết để gây lây nhiễm. Nói cách khác, hemagglutinin giúp virus đi vào tế bào hô hấp của người bị nhiễm. Kháng nguyên N (neuraminidase) phá vỡ các liên kết giữa virus và tế bào biểu mô hô hấp, đồng thời, neuraminidase tương tác với quá trình bắt giữ tự tập trung qua trung gian hemagglutinin trong dịch tiết hô hấp. Do đó, neuraminidase giúp phóng thích virus từ các tế bào bị nhiễm virus ra ngoài. Trong các chủng gây bệnh ở người, 3 hemagglutinin dưới nhóm (H1, H2 và H3) và 2 neuraminidase dưới nhóm (N1 và N2) đã được mô tả. Hiện tại, đã có 16 loại hemagglutinin và 9 loại neuraminidase của chủng cúm A được báo cáo. - Hoán vị kháng nguyên (antigenic shift) và biến thể kháng nguyên (antigenic drift): Virus cúm A có khả năng đặc biệt là thay đổi các kháng nguyên trên glycoprotein vỏ của chúng, thông qua hoán vị kháng nguyên và biến thể kháng nguyên. Hoán vị kháng nguyên là các thay đổi lớn về kháng nguyên H và N, trong khi đó biến thể kháng nguyên là các thay đổi nhỏ. Hoán vị kháng nguyên có tương quan tới các đợt dịch và đại dịch cúm A, trong khi biến thể kháng nguyên chỉ gây ra các đợt bùng phát ở địa phương với nhiều mức độ khác nhau. Cụ thể, hoán vị kháng nguyên là kết quả của một phần bộ gen virus cúm có tỷ lệ cao bị hoán vị ở các virus khác nhau cùng nhiễm trên cùng một tế bào. Hoán vị giữa virus động vật và người gây ra các dưới type đại dịch (bảng 1) (2,3). CÚM (INFLuENZA) VÀ CHăM SÓC y TẾ ThS.BS NGuyỄN NHƯ VINH Trung Tâm Đào Tạo Bác Sĩ Gia Đình, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Khoa Thăm Dò Chức Năng Hô Hấp, Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh BS TRẦN QuỐC TÀI Khoa Thăm Dò Chức Năng Hô Hấp, Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tổng quan 32 Hô hấp số 17/2018 Bảng 1. Dưới type virus cúm A và tương quan với các trận dịch hay đại dịch trên thế giới (4). Năm Dưới type Mức độ nặng đợt bùng phát 1889 – 1890 H2N8 Đại dịch nặng 1900 – 1903 H3N8 Dịch trung bình 1918 – 1919 H1N1 Đại dịch nặng 1933 – 1935 H1N1 Dịch nhẹ 1946 – 1947 H1N1 Dịch nhẹ 1957 – 1958 H2N2 Đại dịch nặng 1968 – 1969 H3N2 Đại dịch trung bình 1977 – 1978 H1N1 Đại dịch nhẹ 2009 – 2010 H1N1 Đại dịch nhẹ tới trung bình Giữa các năm xảy ra sự hoán vị kháng nguyên, biến thể kháng nguyên xảy ra gần như mỗi năm, gây ra các đợt bùng phát ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy vậy, các đợt bùng phát này thường ít lan rộng và nặng nề như các đợt dịch và đại dịch do hoán vị kháng nguyên. Biến thể kháng nguyên được các nhà khoa học cho rằng là kết quả của các đột biến điểm trong đoạn gen RNA quy định hemagglutinin hay neuraminidase, hay xảy ra sau khi lây nhiễm ở dân số nhạy cảm (5). Nhờ hai hiện tượng này, virus cúm khi chuyển đổi một trong 2 loại kháng nguyên H và N này thì nó sẽ trở thành một virus dưới type khác. Ví dụ như loại cúm H1N2 khi thay đổi kháng nguyên N2 thành N1 thì sẽ tạo thành loại mới là H1N1 hoặc khi kháng nguyên H1 chuyển thành H5 thì sẽ tạo ra loại mới là H5N2. Như vậy, với khả năng chuyển đổi rất lớn các kháng nguyên H và N, có rất nhiều virus cúm A dưới type với tổ hợp H và N khác nhau. So với virus cúm A, virus cúm B ít có xu hướng thay đổi kháng nguyên hơn, chỉ có biến thể kháng nguyên về hemagglutinin được báo cáo. Vì có quá nhiều loại cúm A chỉ khác nhau kháng nguyên H và/hoặc N nên thuốc chích ngừa cúm phải thay đổi thường xuyên để phù hợp với loại cúm A đang hiện diện nhiều nhất. Đây cũng là lý do các thuốc chích ngừa cúm thay đổi hàng năm và các thuốc ở năm trước nếu dùng không hết không thể dùng trong năm kế tiếp. Một số loại cúm nổi tiếng vì khả năng gây bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm H5N1. Cúm H1N1 cũng đã từng gây nguy hiểm với tên gọi là cúm heo. Cách thức gây bệnh và lan truyền của cúm: Virus cúm A tồn tại khá lâu ngoài môi trường, có thể sống từ 24 đến 48 giờ trên các bề mặt như bàn, ghế, tủ... hay có thể tồn tại trong quần áo từ 8 đến 12 giờ và duy trì được 5 phút trong lòng bàn tay. Loại virus này đặc biệt sống lâu trong môi trường nước như có thể sống được đến 4 ngày trong môi trường nước ở nhiệt độ khoảng 22 độ C và sống đến 30 ngày ở nhiệt độ 0 độ C. Do đó, các hồ bơi trong các khách sạn cũng có thể tạo ra môi trường cho virus phát triển, nhất là vào tiết trời mưa dầm, thiếu ánh nắng để diệt virus. Cúm thường lây nhiễm từ người sang người qua đường hô hấp khi người bệnh hít phải virus có trong các luồng khí từ đường hô hấp của người bị cúm khi người đó ho hay hắt hơi. Bệnh cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc với mầm bệnh như tay dính virus qua bắt tay, sử dụng chung điện thoại, remote tivi rồi đưa lên mắt, mũi hay miệng của mình. Người mang virus cúm A(H1N1) có khả năng truyền virus cho những người xung quanh trong thời gian 1 ngày trước tới 7 ngày sau kể từ khi có triệu chứng của bệnh. Bệnh lây lan càng mạnh, càng nhanh khi có sự tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, đặc biệt ở nơi tập trung đông người như trường học, nhà trẻ, bệnh viện. Lịch sử các đại dịch ở Việt Nam và thế giới: Các đợt bùng phát dịch do cúm A thường khởi phát điển hình một cách đột ngột, đặt đỉnh trong vòng 2 tới 3 tuần và kéo dài từ 2 tới 3 tháng (6,7). Trong phần lớn các đợt bùng phát, chỉ điểm sớm nhất của hoạt động cúm là tăng bệnh lý hô hấp có sốt ở trẻ em, theo sau là tăng các bệnh lý do cúm ở người lớn. Phần lớn các đợt bùng phát có tỷ lệ tấn công 10-20% dân số chung, nhưng tỷ lệ này có thể vượt quá 50% trong các đợt đại dịch (8). Tại Việt Nam, đại dịch cúm gần đây nhất là vào năm 2009 do cúm gia cầm A dưới type H1N1. Theo báo cáo của Bộ Y tế Việt Nam, từ 31/05/2009 tới 30/09/2009, Việt Nam có 9.868 trường hợp nhiễm cúm H1N1, trong đó có 22 ca tử vong. Hình 1 thể hiện rõ đỉnh điểm của trận đại dịch, so sánh với các năm còn lại. Tổng quan 33 Hô hấp số 17/2018 Trong một nghiên cứu ở 33 nước từ năm 1999 tới 2015, công bố trên tờ Lancet vào năm 2018, cho thấy tỷ lệ bệnh tật về hô hấp do cúm mỗi năm thay đổi từ 0,1 tới 6,4/100 ngàn dân < 65 tuổi, 2,9 - 44,0/100 ngàn dân 65-74 tuổi và 17,9 - 223,5/100 ngàn dân ở các đối tượng ≥ 75 tuổi (9). Tỷ lệ tử vong cao nhất ước tính ở Châu Phi Hạ Sahara (2,8 - 16,5/100 ngàn dân), Đông Nam Á (3,5 - 9,2/100 ngàn dân) và ở các đối tượng ≥75 tuổi (51,3 - 99,4/100 ngàn dân). Bệnh nhân có bệnh mạn tính phải nhập viện nhiều vì cúm dao động từ khoảng 20 tới hơn 1000/100 ngàn dân, với tỷ lệ cao nhất xảy ra ở nhóm đối tượng nhỏ hơn 5 tuổi và lớn hơn 64 tuổi. Mặc dù tỷ lệ tử vong thường không đồng đều trong các trận đại dịch cúm, tập trung ở các đối tượng lớn tuổi và trẻ sơ sinh, một sự dịch chuyển về tuổi đã được báo cáo trong các trận đại dịch (10,11). Trong trận đại dịch cúm năm 1918, tỷ lệ tử vong cao nhất xảy ra không chỉ hai độ tuổi biên mà còn ở người trẻ từ 20 tới 40 tuổi. Trong trận đại dịch năm 2009, tỷ lệ bệnh tật và tử vong cao được ghi nhận ở nhóm trẻ em và thanh thiếu niên. Trong năm 2018, chỉ có một số ca nhiễm cúm được báo cáo tại Việt Nam. Số liệu này được thể hiện ở hình 2. Hình 1. Số mẫu cúm dương tính theo phân loại dưới nhóm tại Việt Nam trong 10 năm 2007-2017 (Nguồn: FluNet, www.who.int/flunet, GISRS) Hình 2. Số mẫu cúm dương tính theo phân loại dưới nhóm tại Việt Nam trong năm 2018 (Nguồn: FluNet, www.who.int/flunet, GISRS) Tổng quan 34 Hô hấp số 17/2018 3. CHẨN ĐOÁN MỘT NGƯỜI BỊ NHIỄM CÚM Cúm mùa (seasonal influenza) là bệnh hô hấp cấp tính gây ra do virus cúm A và B. Mặc dù xấu đi nhanh, nhiễm cúm thường tự giới hạn. Tuy nhiên, bệnh tật và tử vong tăng lên ở một số dân số nguy cơ cao. Trong thời gian diễn ra một đợt bùng phát cúm, bệnh nhân tới với bệnh hô hấp cấp tính kèm sốt có thể được chẩn đoán là nhiễm cúm với khả năng chính xác cao. Ngược lại, những trường hợp riêng lẻ nhiễm cúm không thể phân biệt với nhiễm các virus khác nếu chỉ dựa vào dữ kiện lâm sàng. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chẩn đoán, điều trị và phòng lây nhiễm cúm A (H1N1), tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm cúm như sau: nghi ngờ khi bệnh nhân có yếu tố dịch tễ, sốt và triệu chứng viêm long đường hô hấp; chẩn đoán xác định khi bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng cúm và có xét nghiệm dương tính khẳng định nhiễm vi rút cúm A (H1N1). Người lành mang virus là người không có biểu hiện lâm sàng nhưng xét nghiệm có cúm A (H1N1). Những trường hợp này cũng phải được báo cáo (12). Bệnh nhân nên được xét nghiệm tìm cúm nếu kết quả xét nghiệm sẽ ảnh hưởng tới quyết định lâm sàng như bắt đầu điều trị kháng virus hay kháng sinh, tiến hành các xét nghiệm khác. Các bệnh nhân nên được xét nghiệm gồm bệnh nhân nội trú có bệnh hô hấp cấp tính kèm sốt, tất cả các bệnh nhân suy giảm miễn dịch có bệnh hô hấp cấp tính kèm sốt. Đồng thời, bác sĩ điều trị cũng cần hiểu được giới hạn của các xét nghiệm tìm cúm và ảnh hưởng của kết quả tới quyết định lâm sàng (bảng 2). Vì xét nghiệm kháng nguyên nhanh có độ nhạy kém, kết quả âm tính nên cần được phân tích cẩn thận, xem xét có phải âm giả hay không. Trong một số tình huống, có thể tiếp tục làm RT- PCR và/hoặc cấy virus để có chẩn đoán xác định. Bảng 2. Đặc điểm của các xét nghiệm tìm virus cúm (13). Xét nghiệm Thời gian có kết quả Mẫu chấp nhận được Nhận xét RT-PCR thông thường và xét nghiệm phân tử khác (xác định RNA hay nucleic acid virus cúm) Dao động (thông thường 1 tới 8 giờ) Phết mũi hầu, rửa mũi hầu hay phế quản, dịch hút mũi hay nội khí quản, đàm, phết họng* Độ nhạy cao, độ chuyên rất cao; được khuyến cáo mạnh, có thể phân biệt giữa cúm A và B và dưới type Xét nghiệm phân tử nhanh (xác định RNA hay nucleic acid virus cúm) <30 phút Phết mũi hầu, phết mũi Độ nhạy và độ chuyên cao, được khuyến cáo mạnh, có thể phân biệt giữa cúm A và B và dưới type Miễn dịch huỳnh quang 1 tới 4 giờ Phết hay rữa mũi hầu, rửa phế quản, dịch hút mũi hay nội khí quản Độ nhạy trung bình cao và độ chuyên cao, được khuyến cáo, có thể xác định và phân biệt cúm A và B, giữa cúm A/B và các virus hô hấp khác Xét nghiệm miễn dịch điện tử (xét nghiệm xác định kháng nguyên miễn dịch sắc ký nhanh) 10 tới 15 phút Xét nghiệm miễn CLIA: phết mũi hầu, phết mũi Xét nghiệm không miễn CLIA: rửa mũi hầu, dịch hút mũi hầu Độ nhạy trung bình cao và độ chuyên cao, có thể phân biệt giữa cúm A và B và dưới type Xét nghiệm chẩn đoán cúm nhanh Phết mũi hầu, rửa mũi, dịch hút mũi, phết họng* Độ nhạy thấp tới trung bình, độ chuyên cao, được khuyến cáo, trong đợt bùng phát, kết quả âm tính không giúp loại trừ chẩn đoán Xác định kháng nguyên (EIA) < 15 phút - Tùy vào xét nghiệm, có thể chỉ xác định cúm A, xác định và phân biệt cúm A và B, hay xác định nhưng không phân biệt cúm A và B Tổng quan 35 Hô hấp số 17/2018 4. CHăM SÓC y TẾ CHO NGƯỜI BỊ NHIỄM CÚM Chăm sóc ở tuyến ban đầu: Hầu hết bệnh nhân bị cúm tự hết sau 1-2 tuần mà không cần điều trị. Tuy nhiên, các biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra, với biểu hiện khó thở, đau hay đè ép lồng ngực hay dạ dày, có dấu hiệu mất nước như chóng mặt khi đứng hay không đi tiểu, lơ mơ hay nôn liên tục hay không thể uống đủ nước. Trẻ em có thể biểu hiện bằng da xanh tái, bứt rứt nhiều, khóc không có nước mắt (sơ sinh), sốt kèm nổi ban hay khó đánh thức. Bộ Y tế quy định bệnh nhân nhiễm cúm phải được cách ly và thông báo kịp thời cho cơ quan y tế dự phòng (12). Điều trị triệu chứng như sốt, đau đầu, mỏi cơ do cúm với acetaminophen hay các thuốc kháng viêm không steroid. Nên tránh salicylate, đặc biệt ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi vì mối tương quan giữa sử dụng salicylate và hội chứng Reye ở các đối tượng nhiễm cúm. Thuốc ho có thể được dùng để giảm bớt ho, tuy nhiên, ho đi kèm với nhiễm cúm thường tự giới hạn ở phần lớn các trường hợp. Điều trị triệu chứng cúm giúp bệnh nhân cảm thấy khỏe hơn nhưng không thể giúp bệnh cúm hết nhanh hơn. Bệnh nhân cũng được khuyến khích uống nhiều nước, nghỉ ngơi cho đến khi bình phục hoàn toàn, cùng với hoạt động trong giới hạn dung nạp. Kháng sinh chỉ được chỉ định khi có biến chứng nhiễm vi khuẩn đi kèm với cúm, như trong trường hợp viêm phổi, viêm tai giữa hay viêm xoang do vi khuẩn. Chăm sóc ở bệnh viện: Thuốc kháng virus có thể được dùng để điều trị hay phòng ngừa cúm, tuy nhiên thuốc này không phổ biến ở nước ta và thường chỉ được dùng trong mùa dịch. Phần lớn người mắc cúm không cần phải sử dụng đến thuốc này mà chỉ những người có triệu chứng nặng hay có nguy cơ bị biến chứng cao mới được bác sĩ chỉ định dùng thuốc này. Hiện có hai nhóm thuốc kháng virus được dùng để điều trị và dự phòng cúm là (14,15): - Thuốc ức chế neuraminidase (zanamivir - Relenza®, oseltamivir - Tamiflu® và peramivir) điều trị được cả cúm A và B. Thuốc ức chế neuraminidase có hiệu quả trung bình, làm giảm thời gian và mức độ nặng triệu chứng, đặc biệt khi được điều trị sớm. Thuốc ức chế neuraminidase cũng làm giảm thời gian giảm hiệu giá virus (16). Xét nghiệm Thời gian có kết quả Mẫu chấp nhận được Nhận xét Xét nghiệm xác định neuraminidase < 15 phút - Xác định nhưng không phân biệt cúm A và B Cấy virus Phết mũi hầu, rửa mũi hầu hay phế quản, dịch hút mũi hay nội khí quản, phết họng* Độ nhạy trung bình cao và độ chuyên cao nhất, dùng để xác nhận lại kết quả của xét nghiệm tầm soát, nhưng không có vai trò trong can thiệp sớm Cấy virus trong vỏ 24 tới 72 giờ - - Phân lập trong cấy tế bào 3 tới 10 ngày - - Xét nghiệm huyết thanh (ức chế hemagglutinin, ELISA, gắn kết bổ thể hay trung hòa) Huyết thanh Chỉ có ở một số phòng thí nghiệm, không có vai trò trong can thiệp sớm, chỉ khuyến cáo để chẩn đoán hồi cứu, theo dõi hay nghiên cứu Viết tắt: RT-PCR: reverse-transcriptase polymerase chain reaction (phản ứng chuỗi polymerase sao mã ngược); CLIA: Clinical Laboratory Improvement Amend ... từ 13% tới 17%, chủ yếu do độc tính lên hệ thần kinh trung ương (23,24). Rimantadine ít gây các tác dụng này hơn so với amantadine (6% so với 13%) và có tỷ lệ bỏ trị do tác dụng phụ ngang giả dược (23,24). Khi có chỉ định, điều trị kháng virus nên được bắt đầu càng sớm càng tốt vì điều trị kháng virus có hiệu quả nhất trong vòng 48 giờ đầu tiên. Điều trị không nên bị trì hoãn vì đợi kết quả xét nghiệm chẩn đoán, hay ngừng điều trị ở các bệnh nhân có chỉ định đến khám > 48 giờ sau khi khởi phát triệu chứng, đặc biệt ở các bệnh nhân cần nhập viện. Hơn nữa, bệnh nhân có kết quả xét nghiệm kháng nguyên cúm nhanh âm tính nhưng trên lâm sàng vẫn nghi ngờ nhiều cúm thì nên được điều trị vì các xét nghiệm này có độ nhạy thấp. Theo UpToDate 2018 (25), tất cả các bệnh nhân có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc đang nghi ngờ nhiễm cúm có bệnh cảnh nặng, như nhiễm trùng hô hấp dưới (khó thở, thở nhanh, giảm bão hòa oxy không rõ nguyên nhân) hay có các dấu hiệu lâm sàng xấu nhanh, được điều trị kháng virus với oseltamivir nếu đến khám sớm (<48 giờ) (Mức khuyến cáo 1B) hay trễ hơn (Mức khuyến cáo 1C). Các bệnh nhân ngoại trú đến khám trong vòng 48 giờ sau khi triệu chứng khởi phát có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc đang nghi ngờ nhiễm cúm và có nguy cơ cao bị biến chứng được điều trị với oseltamivir hay zanamivir (Mức khuyến cáo 1A). Nguy cơ cao bị biến chứng thể hiện ở bảng 3. Bảng 3. Các nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm (26) Trẻ em < 5 tuổi, đặc biệt < 2 tuổi Người lớn ≥ 65 tuổi Phụ nữ mang thai hay, hậu sản tới 2 tuần Người ở nhà dưỡng lão hay cơ sở chăm sóc lâu dài Người có các tình trạng bệnh lý đi kèm: Hen Bệnh lý thần kinh và phát triển thần kinh (gồm các rối loạn não bộ, tủy sống, thần kinh ngoại vi và cơ như bại não, động kinh, đột quỵ, chậm phát triển tâm thần, chậm phát triển trung bình tới nặng, loạn sản cơ, chấn thương tủy sống) Bệnh phổi mạn tính (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, xơ nang) Bệnh tim (bệnh tim bẩm sinh, suy tim ứ huyết, bệnh mạch vành) Rối loạn máu (bệnh hồng cầu hình liềm) Rối loạn nội tiết (đái tháo đường) Rối loạn thận Rối loạn gan Rối loạn chuyển hóa (rối loạn chuyển hóa di truyền, rối loạn ty thể) Hệ miễn dịch suy yếu do bệnh lý (HIV, AIDS, ung thư) hay thuốc (glucocorticoid mạn) Trẻ em < 19 tuổi điều trị aspirin dài hạn Béo phì nhiều (chỉ số khối cơ thể BMI ≥ 40) Các yếu tố khiến nhiễm cúm dễ nặng ở bệnh nhân lớn tuổi bao gồm giảm độ đàn hồi của phổi, giảm sức cơ hô hấp, giảm miễn dịch tế bào và giảm đáp ứng tế bào B với các kháng nguyên mới (27). Điều trị kháng virus cũng nên được xem xét ở Tổng quan 37 Hô hấp số 17/2018 bệnh nhân cắt lách nhiễm cúm. Mặc dù không có dữ liệu nào về nguy cơ cúm nặng hay biến chứng ở các bệnh nhân cắt lách, cúm là một yếu tố nguy cơ nhiễm trùng thứ phát có thể gây bệnh nặng ở các đối tượng này (28). Cũng theo UpToDate 2018 (25), các bệnh nhân ngoại trú đến khám trong vòng >48 giờ sau khi triệu chứng khởi phát có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc đang nghi ngờ nhiễm cúm và có nguy cơ cao bị biến chứng, chưa có dấu hiệu hồi phục, được điều trị với oseltamivir hay zanamivir (Mức khuyến cáo 1C). Các bệnh nhân đến khám trong vòng 48 giờ sau khi triệu chứng khởi phát với bệnh cảnh nhẹ, không có nguy cơ biến chứng được điều trị kháng virus (Mức khuyến cáo 2C). Các bệnh nhân nhiễm cúm không biến chứng có triệu chứng hơn 48 giờ không được điều trị kháng virus (Mức khuyến cáo 1B). Tất cả phụ nữ mang thai có chẩn đoán xác định nhiễm cúm hoặc đang nghi ngờ nhiễm cúm, ngay cả khi đến khám sau 48 giờ khởi phát triệu chứng, chưa có dấu hiệu hồi phục, được điều trị kháng virus (Mức khuyến cáo 2C). Bác sĩ điều trị nên xem xét dữ liệu theo dõi cúm mỗi mùa để xác định type cúm nào (A hay B) và dưới type nào của cúm A (H1N1 hay H3N2) đang lưu hành, cũng như kiểu hình đề kháng thuốc kháng virus. Thuốc ức chế neuraminidase (oseltamivir và zanamivir) được khuyến cáo để điều trị bệnh nhân nhiễm cúm. Zanamivir đường hít không được khuyến cáo để điều trị các bệnh nhân nhập viện do ít dữ liệu ở nhóm đối tượng này. Các bệnh nhân bệnh cảnh nặng không thể điều trị với oseltamivir do không thể dung nạp đường dạ dày, nên được điều trị peramivir đường tĩnh mạch. Mặc dù Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chỉ chấp nhận peramivir tĩnh mạch cho bệnh nhân nhiễm cúm không biến chứng, nhóm tác giả nghĩ rằng các bệnh nhân có bệnh cảnh nặng không thể uống oseltamivir, do đó cần dùng oseltamivir đường nuôi ăn hay peramivir đường tĩnh mạch. Theo phác đồ của Bộ Y Tế Việt Nam (12), liều lượng thuốc kháng virus để điều trị cúm A H1N1 như sau: - Oseltamivir (Tamiflu): Người lớn và trẻ em trên 13 tuổi: 75mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. Trẻ em từ 1-13 tuổi: dùng dung dịch uống tuỳ theo trọng lượng cơ thể <15 kg: 30 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. 16-23 kg: 45 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. 24-40 kg: 60 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. > 40 kg: 75 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. Trẻ em dưới 12 tháng: < 3 tháng: 12 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. 3-5 tháng: 20 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. 6-11 tháng: 25 mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. - Zanamivir: dạng hít định liều. Sử dụng trong các trường hợp: Không có oseltamivir, trường hợp chậm đáp ứng hoặc kháng với oseltamivir. Người lớn và trẻ em trên 7 tuổi: 2 lần xịt 5mg x 2 lần/ngày. Trẻ em: Từ 5-7 tuổi: 2 lần xịt 5 mg x 1 lần/ ngày. Do đề kháng ngày càng nhiều, Ủy ban tư vấn về thực hành tiêm chủng (ACIP) khuyến cáo adamantine không được sử dụng ở Hoa Kỳ để điều trị cúm, trừ một số trường hợp cụ thể (14). Cân bằng với nguy cơ tạo ra sự đề kháng thuốc kháng virus, việc chọn lựa bệnh nhân để điều trị là rất quan trọng. Các bệnh nhân có bệnh nặng (cần nhập viện hay có bằng chứng nhiễm trùng hô hấp dưới) hay có nguy cơ cao có biến chứng nên được điều trị. Mặc dù đã có một số nghiên cứu về việc kết hợp các thuốc kháng virus, cách điều trị này chưa được khuyến cáo vì chưa đủ bằng chứng về lợi ích. Trong một nghiên cứu thử nghiệm đa trung Tổng quan 38 Hô hấp số 17/2018 tâm mù đôi, bệnh nhân nhiễm cúm có nguy cơ cao bị biến chứng được phân ngẫu nhiên điều trị 5 ngày với bộ ba oseltamivir, amantadine và ribavirin hay một mình oseltamivir (29). Tỷ lệ bệnh nhân với kết quả PCR phết mũi hầu xác định virus vào ngày 3 thấp hơn ở nhóm điều trị bộ ba (40% so với 50%), nhưng không có sự khác biệt về các kết cục cuối (thời gian có triệu chứng). Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, trong trường hợp nhiễm cúm nặng có thể phối hợp oseltamivir và zanamivir (12). Bệnh nhân nhiễm cúm có thể phát triển Hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS). Lúc này, bệnh nhân cần được chăm sóc chuẩn cùng với các biện pháp thông khí bảo vệ phổi (thể tích thông khí thấp và có áp lực dương cuối thì thở ra) (30). Ở các bệnh nhân tiếp tục bị giảm oxi máu nặng mặc dù đã áp dụng các biện pháp trên, một số biện pháp khác như ECMO (oxy hóa máu bằng màng ngoài cơ thể) hay tư thế nằm sấp. Phòng ngừa cúm: - Chích ngừa: Cách tốt nhất để giảm nguy cơ mắc cúm là chích ngừa. Người đã chích ngừa nếu mắc cúm có thể nhẹ hơn, thời gian bị bệnh ngắn hơn và ít tử vong hơn người chưa chích ngừa. Hiện tại thuốc chích ngừa cúm đang lưu hành là thuốc được WHO khuyến cáo cho mùa cúm 2018 ở Nam bán cầu bao gồm các 3 chủng như sau: cúm A (H1N1), cúm A (H3N2) và cúm B (Phuket/3073/2013). - Thuốc kháng virus: Thuốc kháng virus không nên dùng để thay thế cho chích ngừa cúm. Hiệu quả của thuốc kháng virus chỉ có ở một số đối tượng nhất định, như nguy cơ bị biến chứng do cúm, nguy cơ mắc cúm do phơi nhiễm, cân nhắc với nguy cơ đề kháng với thuốc kháng virus. Theo UpToDate 2018, phòng ngừa cúm cho tất cả các người sinh sống ở các cơ sở chăm sóc dài hạn trong đợt bùng phát dù có chích ngừa cúm trước đó hay không (Mức khuyến cáo 1A). Tuy vậy, những người này nếu đã được chích ngừa trong mùa có vaccine khá tương đồng với virus cúm hiện lưu hành thì không cần dự phòng bằng thuốc kháng virus. Ở các đối tượng chưa chích ngừa có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm, đã tiếp xúc với người mắc cúm trong vòng 48 giờ, điều trị dự phòng được khuyến cáo (Mức khuyến cáo 1A). Những đối tượng có nguy cơ bị biến chứng, tiếp xúc với người mắc cúm trong vòng 48 giờ, đã chích ngừa trước đây nhưng vaccine không tương đồng nên được điều trị dự phòng (Mức khuyến cáo 1A) (31). - Lối sống: Người dân cần thường xuyên rửa tay với xà phòng và nước để có thể hạn chế lây truyền cúm. Có thể dùng các loại nước sát trùng thay thế. Mang khẩu trang hoặc dùng khăn giấy (che cả miệng lẫn mũi) khi ho hay hắt hơi và bỏ giấy này ngay sau khi sử dụng. Có thể ho và hắt hơi vào tay áo để không làm nhiễm bẩn tay cũng là cách hạn chế lây lan. Đồng thời, tránh để mắt, mũi và miệng tiếp xúc với mầm bệnh và tránh tiếp xúc gần với người đang mắc bệnh. Đối với nhân viên y tế, việc áp dụng thật tốt các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn là rất quan trọng. KẾT LuẬN Cúm là bệnh do virus rất phổ biến và dễ mắc đối với mọi người. Tuy phần lớn người mắc cúm là nhẹ và tự khỏi nhưng cũng có nhiều đối tượng sẽ gặp nguy hiểm khi mắc cúm. Việc chẩn đoán bệnh cúm chủ yếu dựa vào biểu hiện lâm sàng (sốt, ho, mệt mỏi) nhưng trong một số trường hợp có thể cần dùng đến xét nghiệm để chẩn đoán. Điều trị cúm chủ yếu là điều trị triệu chứng và nghỉ ngơi, thuốc chống virus chỉ dùng trong một số trường hợp đặc biệt. Vì cúm rất dễ lây nên biện pháp phòng ngừa là tránh tiếp xúc với người bệnh và giữ vệ sinh bản thân cho tốt. Chích ngừa cúm cũng là một biện pháp phòng ngừa hiệu quả cho tất cả mọi người vì thuốc chích ngừa cúm an toàn và hiệu quả. Tổng quan 39 Hô hấp số 17/2018 1. Nesmith N, Williams JV, Johnson M, Zhu Y, Griffin M, Talbot HK. Sensitive diagnostics confirm that influenza C is an uncommon cause of medically attended respiratory illness in adults. Clinical Infectious Diseases. 2017;65(6):1037-1039. 2. R D. Harrison’s Principles of Internal Medicine. McGraw Hill; 2017. 3. Webster RG, Wright SM, Castrucci MR, Bean WJ, Kawaoka Y. Influenza–a model of an emerging virus disease. Intervirology. 1993;35(1-4):16-25. 4. Armstrong GL, Brammer L, Finelli L. Timely assessment of the severity of the 2009 H1N1 influenza pandemic. Clinical Infectious Diseases. 2011;52(suppl_1):S83-S89. 5. Webster R, Kendal A, Gerhard W. Analysis of antigenic drift in recently isolated influenza A (H1N1) viruses using monoclonal antibody preparations. Virology. 1979;96(1):258-264. 6. Bresee J, Hayden FG. Epidemic influenza—responding to the expected but unpredictable. New England Journal of Medicine. 2013;368(7):589-592. 7. Glezen WP, Couch RB, MacLean RA, et al. Interpandemic influenza in the Houston area, 1974–76. New England Journal of Medicine. 1978;298(11):587-592. 8. Monto As, Kioumehr F. The Tecumseh study of respiratory illness: IX. Occurrence of influenza in the community, 1966–1971. American Journal of Epidemiology. 1975;102(6):553-563. 9.. Iuliano AD, Roguski KM, Chang HH, et al. Estimates of global seasonal influenza-associated respiratory mortality: a modelling study. The Lancet. 2018;391(10127):1285-1300. 10. Simonsen L, Clarke MJ, Schonberger LB, Arden NH, Cox NJ, Fukuda K. Pandemic versus epidemic influenza mortality: a pattern of changing age distribution. Journal of infectious diseases. 1998;178(1):53-60. 11. Taubenberger JK, Morens DM. 1918 Influenza: the mother of all pandemics. Emerging infectious diseases. 2006;12(1):15. 12. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng lây nhiễm cúm A (H1N1). https://thuvienphapluat.vn/ van-ban/The-thao-Y-te/Quyet-dinh-2762-QD-BYT- huong-dan-chan-doan-dieu-tri-phong-lay-nhiem-cum-A- H1N1-92439.aspx, October 10th, 2019. 13. Harper SA, Bradley JS, Englund JA, et al. Seasonal influenza in adults and children—diagnosis, treatment, chemoprophylaxis, and institutional outbreak management: clinical practice guidelines of the Infectious Diseases Society of America. Clinical infectious diseases. 2009:1003-1032. 14. Fiore AE, Fry A, Shay D, et al. Antiviral agents for the treatment and chemoprophylaxis of influenza—recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP). MMWR Recomm Rep. 2011;60(1):1-24. 15. Ghebrehewet S, MacPherson P, Ho A. Influenza. BMJ 355: i6258. In:2016. 16.. Aoki FY, Boivin G. Influenza virus shedding—excretion patterns and effects of antiviral treatment. Journal of Clinical Virology. 2009;44(4):255-261. 17.. Abramowicz M, Rizack M. Drugs for non-HIV viral infections. Treat Guidel Med Lett. 2007;5(59):59-70. 18. Relenza dear doctor letter in EU follow U.S. advisory. In: “The Pink Sheet” F-D-C Reports, Chevy Chase, MD, January 31, 2000, p. 20. 19. Tamiflu (oseltamivir phosphate) prescribing information, Roche Pharmaceuticals, revised November 2006. 20. Japan May Lift Warning on Use of Roche’s Tamiflu by Teenagers pid=20601101&sid=aaXFBeFgaXVE&refer=japan (Accessed on October 18, 2011). 21. Dobson J, Whitley RJ, Pocock S, Monto AS. Oseltamivir treatment for influenza in adults: a meta- analysis of randomised controlled trials. The Lancet. 2015;385(9979):1729-1737. 22. Weinstock DM, Zuccotti G. Adamantane resistance in influenza A. Jama. 2006;295(8):934-936. 23. Dolin R, Reichman RC, Madore HP, Maynard R, Linton PN, Webber-Jones J. A controlled trial of amantadine and rimantadine in the prophylaxis of influenza A infection. New England Journal of Medicine. 1982;307(10):580-584. 24. Monto AS, Ohmit SE, Hornbuckle K, Pearce CL. Safety and efficacy of long-term use of rimantadine for prophylaxis of type A influenza in nursing homes. Antimicrobial agents and chemotherapy. 1995;39(10):2224-2228. 25. Zachary KC. Treatment of seasonal influenza in adults. 2018, October 10th, 2018. 26. CDC. Centers for Disease Control and Prevention. People at high risk of developing flu-related complications. www.cdc.gov/flu/about/disease/high_ risk.htm Accessed August 27, 2018. 27. Falsey AR, Walsh EE. Viral pneumonia in older adults. Clinical infectious diseases. 2006;42(4):518-524. 28. CDC. Centers for Disease Control and Prevention. Recommended adult immunization schedules--United States, 2008. MMWR Morb Mortal Wkly Rep 2007; 56:Q1. 29. Beigel JH, Bao Y, Beeler J, et al. Oseltamivir, amantadine, and ribavirin combination antiviral therapy versus oseltamivir monotherapy for the treatment of influenza: a multicentre, double-blind, randomised phase 2 trial. The Lancet Infectious Diseases. 2017;17(12):1255-1265. 30. Napolitano LM, Angus DC, Uyeki TM. Critically ill patients with influenza A (H1N1) pdm09 virus infection in 2014. Jama. 2014;311(13):1289-1290. 31. Zachary KC. Prevention of seasonal influenza with antiviral drugs in adults. 2018. Accessed October 10th, 2018. Tài liệu tham khảo
File đính kèm:
cum_influenza_va_cham_soc_y_te.pdf

