CRP sử dụng trong chuyên khoa hô hấp

1. ĐẠI CƯƠNG

Lịch sử: Năm 1930, tại Viện Nghiên cứu Y học Rockefeller, Tillett và Francis đã phát hiện trong huyết thanh của bệnh nhân (BN) bị viêm phổi do phế cầu có một loại protein có khả năng kết tủa với C-Polysaccharide của vỏ phế cầu khuẩn và đặt tên nó là protein phản ứng C (C-Reactive Protein, CRP) (1).

Cấu tạo và sinh tổng hợp: CRP là một protein điển hình của đáp ứng pha cấp và là một dấu ấn sinh học đánh giá tình trạng viêm được sử dụng phổ biến nhất. CRP được sản xuất ra tại gan nhờ sự kích hoạt của các cytokine tiền viêm (pro-inflammtion cytokines) [marnellet 2005] như IL-6, IL-1, và IFN-a. CRP có trọng lượng phân tử là 120.000 kDA, được cấu tạo bởi 5 chuỗi polypeptid, sắp xếp đối xứng chung quanh lỗ trung tâm. CRP có tính ổn định cao do CRP có thành phần pentraxin ổn định, và có thời gian nửa đời dài 18-20 giờ, vì vậy người ta dễ dàng đo lường nồng độ CRP trong máu

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "CRP sử dụng trong chuyên khoa hô hấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: CRP sử dụng trong chuyên khoa hô hấp

CRP sử dụng trong chuyên khoa hô hấp
Hướng dẫn tHực HànH
63
Hô hấp số 17/2018
1. ĐẠI CƯƠNG
Lịch sử: Năm 1930, tại Viện Nghiên cứu Y học 
Rockefeller, Tillett và Francis đã phát hiện trong 
huyết thanh của bệnh nhân (BN) bị viêm phổi 
do phế cầu có một loại protein có khả năng kết 
tủa với C-polysaccharide của vỏ phế cầu khuẩn 
và đặt tên nó là protein phản ứng C (C-Reactive 
Protein, CRP) (1).
Cấu tạo và sinh tổng hợp: CRP là một protein điển 
hình của đáp ứng pha cấp và là một dấu ấn sinh học 
đánh giá tình trạng viêm được sử dụng phổ biến 
nhất. CRP được sản xuất ra tại gan nhờ sự kích 
hoạt của các cytokine tiền viêm (pro-inflammtion 
cytokines) [marnellet 2005] như IL-6, IL-1, và 
IFN-a. CRP có trọng lượng phân tử là 120.000 
kDA, được cấu tạo bởi 5 chuỗi polypeptid, sắp xếp 
đối xứng chung quanh lỗ trung tâm. CRP có tính ổn 
định cao do CRP có thành phần pentraxin ổn định, 
và có thời gian nửa đời dài 18-20 giờ, vì vậy người 
ta dễ dàng đo lường nồng độ CRP trong máu. 
Vai trò trong bệnh lý ở người:
Nồng độ CRP trong máu người bình thường rất 
thấp, nhưng nó có thể tăng cao rất nhanh liên 
quan với tình trạng nhiễm trùng, đáp ứng tự miễn, 
ung thư và nhiễm trùng máu. CRP là một marker 
viêm có độ nhạy cao nhưng độ đặc hiệu không 
cao. Bình thường nồng độ CRP <3 mg/L, tăng 
>10 mg/L được coi là có ý nghĩa bệnh lý viêm 
cấp (2). Với khoảng từ 3 mg/L đến 10 mg/L có 
thể phản ánh nhiều tình trạng bệnh lý như béo 
phì, hút thuốc lá, đái tháo đường, tăng huyết áp, 
rối loạn giấc ngủ, trầm cảm và nhiều trạng thái 
bệnh lý - sinh lý khác mà không phải là phản ứng 
viêm cấp (3). Trong các tình trạng viêm cấp, phá 
huỷ mô cấp (phản ứng pha cấp) nồng độ CRP có 
thể tăng tới 1000 lần trong 1 đến 2 ngày, tỷ lệ với 
mức độ nặng của tổn thương mô và mức độ nặng 
của quá trình viêm. 
CRP bám dính trên bề mặt tế bào bình 
thường bao gồm tiểu cầu, đại thực bào và các tế 
bào bị tổn thương hoặc tế bào chết và một số loại 
tế bào khác. CRP được nhận biết bởi thành phần 
bổ thể C1q và kích hoạt bổ thể theo con đường cổ 
điển hoặc cũng có thể kích hoạt đáp ứng của đại 
thực bào bằng việc gắn với receptor Fc (4,5). Vì vậy 
CRP có thể nhận diện nhiều tác nhân gây bệnh và 
các tế bào bất thường, từ đó loại bỏ chúng bằng 
con đường miễn dịch dịch thể. Tuy nhiên, một số 
nghiên cứu cho rằng, CRP có thể có tác dụng có 
hại bên cạnh tác dụng bảo vệ như đã nói ở trên. 
CRP được sử dụng như một yếu tố dự đoán nguy 
cơ tim mạch vì CRP tham gia trực tiếp vào cơ chế 
tổn thương do xơ vữa động mạch (6), CRP tăng khi 
tổn thương mô trong nhồi máu cơ tim cấp và một 
số bệnh lý viêm khác (7). 
Những nghiên cứu hiện tại cho thấy CRP 
tăng trong các bệnh lý ung thư. Bên cạnh đó, ngày 
nay người ta còn sử dụng CRP như là một dấu ấn 
sinh học của giảm chức năng phổi, dấu ấn sinh 
học dự đoán của bệnh xơ nang và COPD, và được 
coi là dấu ấn sinh học của viêm hệ thống. 
Người ta cũng thấy rằng có một lượng CRP 
được sản xuất ra tại phổi bên cạnh nguồn chính 
được sản xuất tại gan. Tuy nhiên vai trò sinh học 
chính xác của CRP đối với hệ hô hấp, con đường 
tác động của CRP đối với các bệnh lý hô hấp khác 
nhau còn chưa được biết rõ. Cần nhiều nghiên cứu 
hơn nữa để hiểu được vai trò của CRP với chức 
năng phổi và các bệnh lý hô hấp. Nếu những vai 
trò này được phát hiện, có thể những hiểu biết cổ 
điển của chúng ta về vai trò của CRP đối với bệnh 
lý của con người có thể phải được đánh giá lại.
CRP SỬ DỤNG TRONG CHuyÊN KHOA HÔ HẤP
BS NGuyỄN MINH SANG
Khoa Hô hấp – Dị ứng, Bệnh viện Hữu Nghị
 Hướng dẫn tHực HànH
64
Hô hấp số 17/2018
2. VAI TRÒ CỦA CRP TRONG BỆNH LÝ 
HÔ HẤP
Vai trò của CRP như một dấu ấn sinh học của 
quá trình viêm cấp:
- Viêm phổi: 
Các tác nhân thông thường của viêm phổi 
bao gồm phế cầu, Haemophilus influenza 
và Mycoplasma pneumonae đều sản xuất 
phosphorylcholine (ChoP) trên bề mặt, ChoP 
cho phép vi khuẩn tương tác với rPAF (platelet-
activating factor) cho phép tăng bám dính và xâm 
nhập vào tế bào nội mạc (8). ChoP cũng có thể 
gắn với CRP, làm làm cho ChoP không gắn vào 
được tế bào vật chủ, làm giảm xâm nhập của vi 
khuẩn vào tế bào vật chủ. Thêm nữa, CRP có khả 
năng bảo vệ chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn 
thông qua cơ chế hoạt động như một opsonin và 
hoạt hóa bổ thể theo con đường cổ điển thông 
qua tương tác với C1q (9), từ đó có khả năng diệt 
khuẩn chống lại viêm phổi (8).
CRP được sản xuất cả ở tế bào nội mạc 
đường hô hô hấp với nồng độ thấp hơn trong máu 
nhưng có vai trò miễn dịch ban đầu quan trọng (10). 
Tuy nhiên trong quá trình viêm có sự gia tăng tính 
thấm qua màng mao mạch phế nang, CRP có thể 
thấm vào lòng phế nang và gắn với phosphatidyl-
choline (thông qua ChoP) làm suy giảm hoạt 
động của surfactant (11,12).
Như phần trên đã nói, CRP >10mg/L biểu 
hiện tình trạng viêm cấp. Nếu CRP huyết thanh £ 
10mg/L có thể loại trừ chẩn đoán viêm phổi. Giá 
trị chẩn đoán viêm phổi của CRP không cao bằng 
procalcitonin nhưng cao hơn xét nghiệm công 
thức máu ngoại vi (13). Điểm cắt ở mức 33 mg/L 
có độ nhạy 83% và độ đặc hiệu 44%, trong chẩn 
đoán xác định viêm phổi, phân biệt với những 
bệnh nhân khác không mắc viêm phổi nhưng có 
triệu chứng lâm sàng tương tự (14).
Chalmers và cộng sự cho thấy nồng độ 
CRP<100mg/L trên bệnh nhân viêm phổi cộng 
đồng trong ngày nhập viện và 4 ngày sau đó có 
liên quan độc lập với giảm tỷ lệ tử vong trong 30 
ngày, giảm tỷ lệ thông khí nhân tạo và giảm tỷ lệ 
biến chứng của viêm phổi. Các nguy cơ trên tăng 
lên khi CRP không giảm ít nhất 50% từ ngày thứ 
4 nhập viện trở đi (15). 
Một nghiên cứu (cohort) thực hiện trên 53 
bệnh nhân chứng minh rằng việc xét nghiệm CRP 
hàng ngày ở bệnh nhân viêm phổi nặng là có ích 
nhằm phát hiện những bệnh nhân có diễn biến 
xấu, marker này là một yếu tố dự đoán tốt hơn các 
marker thường được dùng để theo dõi sự nhiễm 
khuẩn khác ví dụ như bạch cầu hay thân nhiệt. 
Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những bệnh 
nhân có sự giảm nhanh nồng độ CRP có thể rút 
ngắn thời gian điều trị kháng sinh mà không làm 
giảm hiệu quả điều trị đồng thời hạn chế độc tính 
của thuốc (16). 
Nói tóm lại, CRP tăng rất cao trong phản ứng 
pha cấp, vì vậy trong viêm phổi CRP tăng cao 
ngay khi nhập viện trong ngày đầu tiên. CRP tăng 
trong viêm phổi thể hiện tác dụng bảo vệ của cơ 
thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn. Tuy độ 
nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán viêm phổi 
không cao bằng procalcitonin nhưng CRP là một 
marker dễ làm, có giá trị chẩn đoán, theo tiên 
lượng và dõi điều trị. 
- Đợt cấp của COPD: 
Một trong các nguyên nhân quan trọng gây 
đợt cấp COPD là nhiễm trùng (bao gồm vi khuẩn 
và virus). Nhiều nghiên cứu cho thấy trong đợt 
cấp có nhiễm khuẩn nồng độ CRP tăng cao (17,18). 
Nghiên cứu của Miguel Gallego (2016) trên 
những bệnh nhân có đợt cấp COPD ngoại trú cho 
thấy nồng độ CRP cao khi nhiễm khuẩn đặc biệt 
là đối với H. influenzae và S. pneumoniae. Nồng 
độ CRP >100 mg/L làm tăng 4 lần nguy cơ nhập 
viện (18).
CRP không có giá trị để chẩn đoán xác định 
đợt cấp. Vì chỉ tác nhân gây đợt cấp là vi khuẩn 
thì CRP mới tăng, mà chúng ta đã biết rằng có rất 
nhiều trường hợp khởi phát đợt cấp là do nhiễm 
virus hoặc các tác nhân khác. CRP thấp chứng 
tỏ đợt cấp không có nhiễm khuẩn mà có thể do 
Hướng dẫn tHực HànH
65
Hô hấp số 17/2018
nhiễm virus hoặc phối hợp với suy tim khi đó 
cần những điều trị phù hợp khác mà không phải là 
kháng sinh. Giá trị của CRP trong đợt cấp COPD 
là xác định COPD do nhiễm khuẩn hay không từ 
đó có quyết định dùng kháng sinh một cách hợp 
lý (19). Chỉ khoảng 20% đợt cấp cần dùng kháng 
sinh, vì tác nhân gây nhiễm khuẩn là do nhiễm 
những chủng vi khuẩn mới, bao gồm cả khả năng 
chủng vi khuẩn đồn trú (colonization) đột biến và 
trở nên gây bệnh chứ không phải những chủng 
đồn trú trên đường hô hấp dưới (20).
Điểm cắt (cut-off) để quyết định dùng kháng 
sinh còn chưa thực sự thống nhất. Weis và Almdal 
cho thấy có 30% trong 166 bệnh nhân đợt cấp 
COPD có CRP ở mức bình thường trong khi đó 
nồng độ CRP trung bình ở nhóm có đờm đục là 
45mg/L và 97 mg/L ở nhóm có kèm thâm nhiễm 
(19). D Stolza và cộng sự nghiên cứu trên 243 bệnh 
nhân nhiễm trùng đường hô hấp dưới thấy rằng 
mức cut-off 50mg/L có độ nhạy 93,8% trong xác 
định nhiễm khuẩn hô hấp dưới cần dùng kháng 
sinh (21. Bên cạnh đó CRP cho phép theo dõi đáp 
ứng điều trị kháng sinh. Johannes M.A Daniels và 
cộng sự cho thấy khi CRP<5mg/L thì 90% điều trị 
kháng sinh đã thành công (22).
Nói tóm lại, vai trò của CRP trong đợt cấp 
COPD là chẩn đoán và theo dõi điều trị nhiễm 
khuẩn. Đối với bệnh nhân ngoại trú có thể dùng 
CRP như một biomarker đánh giá mức độ nặng 
của đợt cấp cần nhập viện.
- Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS):
ARDS là một thể tổn thương phổi cấp mức 
độ nặng. Trong hội chứng này nồng độ CRP tăng 
cao trong huyết thanh và trong dịch rửa phế quản-
phế nang (BAL). Một số nghiên cứu cho thấy 
nồng độ CRP trong máu cao hơn ở những người 
mắc ARDS so với bệnh nhân ARDS tử vong (10,23). 
Li và cs năm 1989 cho thấy CRP có thể có vai trò 
bảo vệ trong ARDS. Bajwa và cộng sự cho thấy 
nồng độ CRP trung bình ở nhóm sống sót là 176.5 
mg/L so với nhóm nhóm tử vong là 133.5 mg/L, 
p=0,02 (23). Chúng ta biết rằng bạch cầu đa nhân 
trung tính có vai trò rất lớn trong đáp ứng viêm 
cấp của ARDS. Các nghiên cứu in vivo và in vitro 
đã chứng minh là do CRP có khả năng ức chế hóa 
ứng động bạch cầu đa nhân trung tính từ đó làm 
giảm quá trình viêm trong ARDS (24,25). Vì vậy, 
nồng độ CRP cao trong huyết thanh có giá trị dự 
đoán sự sống sót trên. Tuy nhiên người ta chưa 
đưa ra được mức cut-off với nồng độ nào thì CRP 
có tác dụng bảo vệ đối với ARDS.
Đối với trẻ em và người già, nồng độ CRP 
cao không liên quan đến tiên lượng tốt ở bệnh 
nhân ARDS. Không những thế, ở trẻ em nồng độ 
CRP còn liên quan đến tác dụng có hại, nghiên 
cứu của Bruijin và cộng sự cho thấy ở nhóm bệnh 
nhi tử vong do ARDS nồng độ CRP trung bình 
là 126 mg/L so sánh với 56 mg/L ở nhóm bệnh 
nhi sống sót, p = 0.01 (26). Tương tự như vậy đối 
người già nồng CRP độ cao liên quan đến tăng tỷ 
lệ tử vong (27). Ở đây cho chúng ta thấy vai trò bảo 
vệ của nồng độ CRP liên quan đến tuổi của bệnh 
nhân ARDS (23,26, 27). Có lẽ ở đây có vai trò của 
nhiễm trùng trên bệnh nhân ARDS. Tình trạng 
nhiễm trùng có thể làm cho nồng độ CRP cao 
hơn, để làm rõ hơn chúng ta cần nhiều nghiên cứu 
hơn về vai trò CRP đối với ADRS.
CRP liên quan đến các tình trạng viêm hệ thống 
mạn tính:
- COPD giai đoạn ổn định:
Bệnh nhân COPD có tình trạng viêm hệ thống 
chính vì vậy nồng độ các marker viêm như CRP và 
fibrinogen tăng (18-30). Chúng ta đã biết rằng thuốc 
lá được xem là yếu tố quan trọng làm giảm nhanh 
FEV1 (31). Có thể do khói thuốc kích hoạt và duy 
trì phản ứng viêm hệ thống, những người đang hút 
thuốc có CRP cao hơn những người đã bỏ (29). Một 
số nghiên cứu cho thấy nồng độ CRP cao liên quan 
có ý nghĩa với giảm chức năng phổi ở cả nam và 
nữ, tuy nhiên nồng độ CRP cao ở nam liên quan 
đến giảm FEV1 mức độ nặng. Olafsdottir đã chứng 
minh giới có ảnh hưởng đến nồng độ CRP và giảm 
chức năng phổi ở bệnh nhân COPD (32). 
CRP còn được coi là một yếu tố dự đoán 
nguy cơ nhập viện và tử vong vì COPD. Nghiên 
 Hướng dẫn tHực HànH
66
Hô hấp số 17/2018
cứu của Dahl năm 2007 cho thấy những yếu tố 
nguy tiên lượng tử vong và nhập viện của bệnh 
nhân COPD bao gồm nồng độ CRP huyết thanh 
>3m/L, hút thuốc lá tương đương >15g/ngày, tuổi 
trên 70, FEV1<50%. Dahl kết luận CRP là một 
yếu tố dự đoán mạnh và độc lập tiên lượng của 
bệnh nhân COPD (33). Hầu hết các nghiên cứu đều 
lấy mức cut-off CRP>3mg/L cho tình trạng tăng 
viêm hệ thống. Giovanni Leuzzi trong một nghiên 
cứu phân tích gộp công bố rất gần đây cho thấy 
CRP cao liên quan có ý nghĩa với tăng tỷ lệ tử 
vong ở bệnh nhân COPD (34).
Các bằng chứng đều thống nhất trên bệnh 
nhân COPD có tình trạng tăng viêm hệ thống, biểu 
hiện bằng tăng CRP và fibrinogen. Tình trạng tăng 
viêm hệ thống làm gia tăng tỷ lệ tử vong trong dài 
hạn của bệnh nhân COPD. Câu hỏi đặt ra là nếu 
có phương pháp nào đó điều trị làm giảm viêm 
hệ thống thì có cải thiện tỷ lệ tử vong không? Trả 
lời được câu hỏi này có ý nghĩa rất lớn với thực 
hành lâm sàng. Nghiên cứu rất nổi tiếng của Paul 
M Ridker đăng trên tạp chí NEJM năm 2005 cho 
thấy bên cạnh hiệu quả làm giảm cholesterol, statin 
còn làm giảm CRP một cách có ý nghĩa (35). Nhưng 
đối tượng nghiên cứu của Paul M Ridker là những 
bệnh nhân có hội chứng vành cấp. Tiếp sau đó 
nhiều nghiên cứu khác trên bệnh nhân COPD cũng 
cho thấy statin làm giảm viêm hệ thống và giảm 
tỷ lệ tử vong. Lies Lahousse (2013) nghiên cứu 
tác dụng của điều trị statin cho thấy so với nhóm 
không dùng statin nhóm điều trị statin dài hạn (trên 
2 năm) giảm 39% nguy cơ tử vong. Đối với nhóm 
có hsCRP cao (>3mg/L) điều trị statin làm giảm tử 
vong 78%, trong khi đó nhóm có CRP£3mg/L chỉ 
giảm tử vong 21%. Lies Lahousse kết luận điều trị 
statin có tác dụng làm giảm tử vong do mọi nguyên 
nhân trên bệnh nhân COPD, tùy thuộc vào mức độ 
viêm hệ thống nền (36).
Tóm lại, một trong những đặc điểm của 
COPD là tăng viêm hệ thống, biểu hiện bằng tăng 
CRP > 3mg/L. Tăng viêm hệ thống có liên hệ chặt 
chẽ với nguy cơ nhập viện và tử vong trên bệnh 
nhân COPD. Điều trị statin có hiệu quả làm giảm 
viêm hệ thống và giảm tỷ lệ tử vong.
- Hen phế quản:
Một số nghiên cứu cho thấy tình trạng 
tăng tính phản ứng phế quản (Bronchial 
hyperresponsiveness - BHR) có liên quan đến 
phản ứng viêm hệ thống và nồng độ CRP (37-39). 
Nghiên cứu thấy rằng FEV1 trung bình giảm và 
tăng tính phản ứng phế quản thường gặp ở những 
người có nồng độ CRP cao. Điều đó chứng tỏ 
rằng nồng độ CRP có liên quan đến giảm chức 
năng hô hấp và tăng tính phản ứng phế quản. Cả 
tăng tính phản ứng phế quản và giảm chức năng 
hô hấp đều liên quan đến quá trình viêm hệ thống.
Trong giai đoạn ổn định, nồng độ hsCRP 
thường rất thấp, thấp hơn nữa nếu bệnh nhân được 
điều trị corticoid hít thường xuyên. M. Takemura 
và cộng sự trong một nghiên cứu cắt ngang chia 
bệnh nhân thành 2 nhóm, nhóm 1 (n=22) những 
bệnh nhân điều trị cortioid không đều, nhóm 2 
(n=23) bệnh nhân dùng corticoid hít đều và 1 
nhóm người khỏe mạnh đối chứng (n=14). Kết 
quả cho thấy kết quả nồng độ hsCRP ở các nhóm 
lần lượt là 1.3 ± 1.5 mg/L, 0.9 ± 1.0 mg/L và 0.2 
± 0.3 mg/L, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm 
1 và nhóm đối chứng. Trong nhóm 1 nồng độ 
hsCRP huyết thanh tương quan ngược với chức 
năng phổi, tương quan thuận với bạch cầu ái toan 
trong máu. Ngược lại bệnh nhân được điều trị 
corticoid hít không thấy các sự tương quan này. 
Tác giả kết luận hsCRP có thể được sử dụng như 
một biomarker thay thế đánh giá tình trạng viêm 
đường thở trên bệnh nhân hen (40). 
Trong giai đoạn cấp, nồng độ CRP tăng cao 
hơn thể hiện hoạt động viêm hệ thống trội lên, 
nhưng tăng thường không vượt quá 10mg/L (mức 
& ... phân tích CRP là một trong các marker 
đánh giá viêm hệ thống mạn tính, có liên quan 
đến tăng nguy cơ ung thư phổi. 
Nghiên cứu liên quan giữa nguy cơ mắc ung 
thư phổi và CRP lưu hành và kiểu gen CRP cho 
thấy nồng độ CRP liên quan đến tăng nguy cơ ung 
thư lên gấp đôi, trong khi đa hình đơn nucleotide 
(single nucleotide polymorphisms- SNPs) của 
CRP không liên quan đến nguy cơ ung thư (46). 
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nồng độ CRP tăng 
ở những người hút thuốc lá (xem phần COPD), 
thậm trí CRP còn tiếp tục tăng cho đến 15 năm 
sau khi bỏ thuốc lá. Bản thân thuốc là có khả năng 
kích hoạt viêm tại phổi, nồng độ CRP ở người hút 
thuốc lá phụ thuộc vào số lượng thuốc được hút. 
CRP tăng liên quan đến nguy cơ mắc ung thư trong 
tương lai gợi ý vai trò sinh bệnh học của viêm hệ 
thống mạn tính với quá trình ung thư hóa ở phổi (46). 
Những yếu tố khác dẫn đến tình trạng viêm 
mạn tính ở phổi như nhiễm trùng phổi, tiếp xúc 
với amiang, silic, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, 
hen, xơ phổi đều làm tăng nguy cơ ung thư 
(47,48). Mặc dù vậy, chúng ta còn cần nhiều nghiên 
cứu để kiểm chứng sự tương quan giữa marker 
viêm hệ thống (CRP) và tình trạng viêm tại phổi, 
những khám phá này có thể sẽ đưa đến cơ hội 
cho những điều trị can thiệp trúng đích nhằm dự 
phòng ung thư phổi (46).
Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ CRP 
ở bệnh nhân ung thư phổi tế bào vảy thường cao 
hơn rõ rệt so với bệnh nhân ung thư phổi không 
phải tế bào vảy. Kích thước khối u có liên quan 
đến mức độ CRP trong huyết thanh (49,50), có lẽ 
cũng một phần do ung thư tế bào vảy thường có 
kích thước to. 
Tiên lượng: Tỷ lệ sống sau 5 năm thấp hơn ở 
những người có CRP>5 mg/L so với nhóm CRP≤5 
mg/L. Những nghiên cứu này cho thấy CRP như 
là một yếu tố tiên lượng độc lập của ung thu phổi 
không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn 1 (49). Thêm 
nữa, khi phân tích CRP như là một yếu tố tiên 
lượng với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào 
nhỏ thì thấy tỷ lệ sống sót đặc hiệu bệnh (disease-
specific survival rate) sau phẫu thuật thấp hơn có 
ý nghĩa ở nhóm CRP cao so với nhóm CRP thấp, 
điều này có thể liên quan với mối quan hệ giữa 
nồng độ CRP trước và sau phẫu thuật (50,51). 
Đối với giai đoạn tiến xa của bệnh, CRP trong 
huyết thanh (s-CRP) là một yếu tố tiên lượng sống 
sót độc lập. Có rất ít nghiên cứu tập trung vào 
 Hướng dẫn tHực HànH
68
Hô hấp số 17/2018
vai trò của CRP trong dịch màng phổi (p-CRP). 
ParK (2013) nghiên cứu vai trò p-CRP trên bênh 
nhân ung thư phổi có tràn dịch màng phổi ác tính. 
Kết quả cho thấy nồng độ CRP trong dịch màng 
phổi có tương quan với nồng độ CRP huyết thanh 
(r=0.82, p<0.0001). Đối với chẩn đoán phân biệt 
nguyên nhân tràn dịch ác tính hay lành tính, diện 
tích dưới đường cong của p-CRP (0,86) lớn hơn 
s-CRP (0,77). Nồng độ cao p-CRP liên quan có 
ý nghĩa làm giảm thời gian sống thêm (p=0.006). 
Tác giả kết luận p-CRP tốt hơn s-CRP trong xác 
dịnh nguyên gây tràn dịch màng phổi. Định lượng 
p-CRP có ý nghĩa trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh 
nhân ung thu phổi có tràn dịch màng phổi (52). 
- Lao phổi:
Nước ta nằm trong vùng dịch tễ của lao phổi, 
chúng ta gặp khá thường xuyên bệnh nhân lao 
trên thực hành lâm sàng thường ngày, nhất là ở 
chuyên khoa hô hấp. Vậy vai trò của CRP trong 
chẩn đoán và điều trị lao phổi như thế nào?
CRP áp dụng trong chẩn đoán lao phổi: 
Nghiên cứu của Wilson D và cộng sự trên đối 
tượng lao AFB âm tính cho thấy ở nhóm có bằng 
chứng vi khuẩn học nồng độ CRP trung bình là 
15,4 mg/L, khác biệt có ý nghĩa so với ở nhóm 
không mắc lao là 0,7 mg/L. Nồng độ CRP trên 
giới hạn bình thường có độ nhạy 0,98 (95% CI 
0.94; 0.99), độ đặc hiệu 0.59 (95% CI 0.50; 0.68), 
giá trị chẩn đoán dương tính 0.74 (95% CI 0.67; 
0.80), giá trị chẩn đoán âm tính 0.96 (95% CI 
0.88; 0.99) (53). Tuy nhiên, chúng ta có thể CRP 
có độ nhạy rất cao nhưng độ đặc hiệu không cao 
trong chẩn đoán lao phổi.
CRP áp dụng trong theo dõi bệnh: Trong một 
số trường hợp có biến chứng như tràn khí màng 
phổi, hang nấm ký sinh, giãn phế quản hoặc lao 
kê thì nồng độ CRP trong máu tăng. Sự gia tăng 
nồng độ CRP cũng phản ánh mức độ nặng của 
bệnh (hay nói cách khác là mức độ hoạt động của 
vi khuẩn lao (54). Nồng độ CRP trên bệnh nhân lao 
trước điều trị thường cao trên mức bình thường, 
tuy nhiên, sau khi được điều trị, nồng độ CRP có 
thể về mức bình thường, vì vậy người ta có thể 
dùng CRP như một biomarker theo dõi đáp ứng 
điều trị (55).
KẾT LuẬN 
CRP là một marker phản ánh 2 tình trạng sinh lý 
bệnh quan trọng đó là phản ứng pha cấp (khi xảy 
ra tổn thương, phá hủy tế bào-mô) và tăng viêm 
hệ thống. Với vai trò của một marker của đáp ứng 
pha cấp, CRP được ứng dụng trong chẩn đoán, 
điều trị, và theo dõi các tình trạng nhiễm trùng 
cấp tính tại phổi trong đó quan trọng nhất là viêm 
phổi và đợt cấp COPD nhiễm trùng. Với vai trò là 
một marker viêm hệ thống, CRP được ứng dụng 
trong sàng lọc, theo dõi, tiên lượng ung thư phổi, 
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và các tình trạng 
viêm mạn tính khác ở phổi. Hiểu biết về viêm hệ 
thống và vai trò của viêm hệ thống đối với sự hình 
thành bệnh lý ác tính ở phổi, COPD cho phép 
chúng ta đưa ra những dự phòng và điều trị phù 
hợp trong những bệnh cảnh cụ thể như bỏ thuốc 
lá, điều trị statin Trong tương lai, hy vọng 
chúng ta sẽ có thêm nhiều những hiểu biết mới 
về vai trò của CRP, từ đó có thể có thêm những 
phương pháp điều trị và dự phòng mới.
Tài liệu tham khảo 
1. Tillett, W.S. and T. Francis, Serological reactions in 
pneumonia with a non-protein somatic fraction of 
pneumococcus. J Exp Med, 1930. 52(4): p. 561-71.
2. Dhingra, R., et al., C-reactive protein, inflammatory 
conditions, and cardiovascular disease risk. Am J Med, 
2007. 120(12): p. 1054-62.
3. Kushner, I., C-reactive protein elevation can be caused 
by conditions other than inflammation and may reflect 
biologic aging. Cleve Clin J Med, 2001. 68(6): p. 535-7.
4. Marnell, L., C. Mold, and T.W. Du Clos, C-reactive 
protein: Ligands, receptors and role in inflammation. 
Clinical Immunology, 2005. 117(2): p. 104-111.
5. Mold, C., et al., C-reactive protein mediates protection 
from lipopolysaccharide through interactions with Fc 
gamma R. J Immunol, 2002. 169(12): p. 7019-25.
6. Verma, S., P.E. Szmitko, and E.T. Yeh, C-reactive protein: 
structure affects function. Circulation, 2004. 109(16): p. 
1914-7.
Hướng dẫn tHực HànH
69
Hô hấp số 17/2018
7. Berton, G., et al., C-reactive protein in acute myocardial 
infarction: association with heart failure. Am Heart J, 
2003. 145(6): p. 1094-101.
8. Gould, J.M. and J.N. Weiser, The inhibitory effect of 
C-reactive protein on bacterial phosphorylcholine 
platelet-activating factor receptor-mediated adherence 
is blocked by surfactant. J Infect Dis, 2002. 186(3): p. 
361-71.
9. Kaplan, M.H. and J.E. Volanakis, Interaction of C-reactive 
protein complexes with the complement system. I. 
Consumption of human complement associated with 
the reaction of C-reactive protein with pneumococcal 
C-polysaccharide and with the choline phosphatides, 
lecithin and sphingomyelin. J Immunol, 1974. 112(6): p. 
2135-47.
10. Li, J.J., et al., Impact of C-reactive protein (CRP) on 
surfactant function. J Trauma, 1989. 29(12): p. 1690-7.
11. Holm, B.A., et al., Pulmonary physiological and surfactant 
changes during injury and recovery from hyperoxia. J 
Appl Physiol (1985), 1985. 59(5): p. 1402-9.
12. Jobe, A., et al., Permeability of premature lamb lungs to 
protein and the effect of surfactant on that permeability. 
J Appl Physiol Respir Environ Exerc Physiol, 1983. 55(1 
Pt 1): p. 169-76.
13. Christ-Crain, M. and S.M. Opal, Clinical review: the role of 
biomarkers in the diagnosis and management of community-
acquired pneumonia. Crit Care, 2010. 14(1): p. 203.
14. Almirall, J., et al., Contribution of C-reactive protein to 
the diagnosis and assessment of severity of community-
acquired pneumonia. Chest, 2004. 125(4): p. 1335-42.
15. Chalmers, J.D., A. Singanayagam, and A.T. Hill, 
C-reactive protein is an independent predictor of severity 
in community-acquired pneumonia. Am J Med, 2008. 
121(3): p. 219-25.
16. Coelho, L., et al., Usefulness of C-reactive protein in monitoring 
the severe community-acquired pneumonia clinical course. 
Crit Care, 2007. 11(4): p. R92.
17. Dev, D., et al., Value of C-reactive protein measurements 
in exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
disease. Respir Med, 1998. 92(4): p. 664-7.
18. Gallego, M., et al., C-reactive protein in outpatients 
with acute exacerbation of COPD: its relationship with 
microbial etiology and severity. Int J Chron Obstruct 
Pulmon Dis, 2016. 11: p. 2633-2640.
19. Weis, N. and T. Almdal, C-reactive protein--can it be used 
as a marker of infection in patients with exacerbation 
of chronic obstructive pulmonary disease? Eur J Intern 
Med, 2006. 17(2): p. 88-91.
20. Sethi, S., et al., New strains of bacteria and exacerbations 
of chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med, 
2002. 347(7): p. 465-71.
21. Stolza, D., et al., Diagnostic value of signs, symptoms 
and laboratory values in lower respiratory tract infection. 
2006. 59: p. 24.
22. Daniels, J.M.A., et al., Procalcitonin vs C-Reactive 
Protein as Predictive Markers of Response to Antibiotic 
Therapy in Acute Exacerbations of COPD. Chest, 2010. 
138(5): p. 1108-1115.
23. Bajwa, E.K., et al., Plasma C-Reactive Protein Levels Are 
Associated With Improved Outcome in ARDS. Chest, 
2009. 136(2): p. 471-80.
24. Kew, R.R., T.M. Hyers, and R.O. Webster, Human 
C-reactive protein inhibits neutrophil chemotaxis in vitro: 
possible implications for the adult respiratory distress 
syndrome. J Lab Clin Med, 1990. 115(3): p. 339-45.
25. Ahmed, N., et al., Transgenic mice expressing rabbit 
C-reactive protein exhibit diminished chemotactic factor-
induced alveolitis. Am J Respir Crit Care Med, 1996. 
153(3): p. 1141-7.
26. Bruijn, M., et al., Association between C-reactive protein 
levels and outcome in acute lung injury in children. Eur J 
Pediatr, 2013. 172(8): p. 1105-10.
27. Komiya, K., et al., Plasma C-reactive protein levels are 
associated with mortality in elderly with acute lung injury. 
J Crit Care, 2012. 27(5): p. 524.e1-6.
28. Donaldson, G.C., et al., Airway and Systemic Inflammation 
and Decline in Lung Function in Patients With COPD. 
Chest, 2005. 128(4): p. 1995-2004.
29. Gan, W.Q., S.F. Man, and D.D. Sin, The interactions 
between cigarette smoking and reduced lung function on 
systemic inflammation. Chest, 2005. 127(2): p. 558-64.
30. Mannino, D.M., E.S. Ford, and S.C. Redd, Obstructive 
and restrictive lung disease and markers of inflammation: 
data from the third national health and nutrition 
examination. The American Journal of Medicine, 2003. 
114(9): p. 758-762.
31. Anthonisen, N.R., J.E. Connett, and R.P. Murray, Smoking 
and lung function of Lung Health Study participants after 11 
years. Am J Respir Crit Care Med, 2002. 166(5): p. 675-9.
32. Olafsdottir, I.S., et al., Gender differences in the 
association between C-reactive protein, lung function 
impairment, and COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon 
Dis, 2007. 2(4): p. 635-42.
33. Dahl, M., et al., C-reactive protein as a predictor of 
prognosis in chronic obstructive pulmonary disease. Am 
J Respir Crit Care Med, 2007. 175(3): p. 250-5.
34. Leuzzi, G., et al., C-reactive protein level predicts mortality 
in COPD: a systematic review and meta-analysis. 2017. 
26(143).
35. Ridker, P.M., et al., C-reactive protein levels and outcomes 
after statin therapy. N Engl J Med, 2005. 352(1): p. 20-8.
36. Lahousse, L., et al., Statins, systemic inflammation 
and risk of death in COPD: the Rotterdam study. Pulm 
Pharmacol Ther, 2013. 26(2): p. 212-7.
37. Kony, S., et al., Association of bronchial 
hyperresponsiveness and lung function with C-reactive 
protein (CRP): a population based study. Thorax, 2004. 
59(10): p. 892-6.
 Hướng dẫn tHực HànH
70
Hô hấp số 17/2018
38. O’Connor, G.T., D. Sparrow, and S.T. Weiss, A 
prospective longitudinal study of methacholine airway 
responsiveness as a predictor of pulmonary-function 
decline: the Normative Aging Study. Am J Respir Crit 
Care Med, 1995. 152(1): p. 87-92.
39. Rijcken, B., et al., Airway hyperresponsiveness to 
histamine associated with accelerated decline in FEV1. 
Am J Respir Crit Care Med, 1995. 151(5): p. 1377-82.
40. Takemura, M., et al., High sensitivity C-reactive protein in 
asthma. 2006. 27(5): p. 908-912.
41. Razi, E., et al., Evaluation of high-sensitivity C-reactive 
protein in acute asthma. 2011, Eur Respiratory Soc.
42. Bafadhel, M., et al., Procalcitonin and C-Reactive Protein 
in Hospitalized Adult Patients With Community-Acquired 
Pneumonia or Exacerbation of Asthma or COPD. Chest, 
2011. 139(6): p. 1410-1418.
43. Bray, F., et al., Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN 
estimates of incidence and mortality worldwide for 36 
cancers in 185 countries. CA Cancer J Clin, 2018.
44. Pine, S.R., et al., Increased levels of circulating interleukin 
6, interleukin 8, C-reactive protein, and risk of lung 
cancer. J Natl Cancer Inst, 2011. 103(14): p. 1112-22.
45. Zhou, B., et al., C-reactive protein, interleukin 6 and lung 
cancer risk: a meta-analysis. PLoS One, 2012. 7(8): p. 
e43075.
46. Chaturvedi, A.K., et al., C-reactive protein and risk of lung 
cancer. J Clin Oncol, 2010. 28(16): p. 2719-26.
47. Littman, A.J., L.A. Jackson, and T.L. Vaughan, Chlamydia 
pneumoniae and lung cancer: epidemiologic evidence. 
Cancer Epidemiol Biomarkers Prev, 2005. 14(4): p. 773-8.
48. Durham, A.L. and I.M. Adcock, The relationship between 
COPD and lung cancer. Lung Cancer, 2015. 90(2): p. 
121-7.
49. Xu, Y., Z. Li, and Y. Shen-Tu, [The prognostic value of 
detection of serum C-reactive protein in the patients 
with stage I lung cancer]. Zhongguo Fei Ai Za Zhi, 2011. 
14(5): p. 400-3.
50. Hara, M., et al., Preoperative serum C-reactive protein 
level in non-small cell lung cancer. Anticancer Res, 
2007. 27(4c): p. 3001-4.
51. Hara, M., et al., Postoperative serum C-reactive protein 
levels in non-small cell lung cancer patients. Ann Thorac 
Cardiovasc Surg, 2010. 16(2): p. 85-90.
52. Park, D.-S., et al., Diagnostic Value and Prognostic 
Significance of Pleural C-Reactive Protein in Lung 
Cancer Patients with Malignant Pleural Effusions. Yonsei 
Medical Journal, 2013. 54(2): p. 396-402.
53. Wilson, D., M. Badri, and G. Maartens, Performance 
of serum C-reactive protein as a screening test for 
smear-negative tuberculosis in an ambulatory high 
HIV prevalence population. PLoS One, 2011. 6(1): p. 
e15248.
54. Kwas, H., et al., C-reactive protein and pulmonary 
tuberculosis: What correlation with disease severity. 
2015. 46(suppl 59).
55. Bajaj, G., A. Rattan, and P. Ahmad, Prognostic value of 
‘C’ reactive protein in tuberculosis. Indian Pediatr, 1989. 
26(10): p. 1010-3.

File đính kèm:

  • pdfcrp_su_dung_trong_chuyen_khoa_ho_hap.pdf