CRP sử dụng trong chuyên khoa hô hấp
1. ĐẠI CƯƠNG
Lịch sử: Năm 1930, tại Viện Nghiên cứu Y học Rockefeller, Tillett và Francis đã phát hiện trong huyết thanh của bệnh nhân (BN) bị viêm phổi do phế cầu có một loại protein có khả năng kết tủa với C-Polysaccharide của vỏ phế cầu khuẩn và đặt tên nó là protein phản ứng C (C-Reactive Protein, CRP) (1).
Cấu tạo và sinh tổng hợp: CRP là một protein điển hình của đáp ứng pha cấp và là một dấu ấn sinh học đánh giá tình trạng viêm được sử dụng phổ biến nhất. CRP được sản xuất ra tại gan nhờ sự kích hoạt của các cytokine tiền viêm (pro-inflammtion cytokines) [marnellet 2005] như IL-6, IL-1, và IFN-a. CRP có trọng lượng phân tử là 120.000 kDA, được cấu tạo bởi 5 chuỗi polypeptid, sắp xếp đối xứng chung quanh lỗ trung tâm. CRP có tính ổn định cao do CRP có thành phần pentraxin ổn định, và có thời gian nửa đời dài 18-20 giờ, vì vậy người ta dễ dàng đo lường nồng độ CRP trong máu
Tóm tắt nội dung tài liệu: CRP sử dụng trong chuyên khoa hô hấp
Hướng dẫn tHực HànH 63 Hô hấp số 17/2018 1. ĐẠI CƯƠNG Lịch sử: Năm 1930, tại Viện Nghiên cứu Y học Rockefeller, Tillett và Francis đã phát hiện trong huyết thanh của bệnh nhân (BN) bị viêm phổi do phế cầu có một loại protein có khả năng kết tủa với C-polysaccharide của vỏ phế cầu khuẩn và đặt tên nó là protein phản ứng C (C-Reactive Protein, CRP) (1). Cấu tạo và sinh tổng hợp: CRP là một protein điển hình của đáp ứng pha cấp và là một dấu ấn sinh học đánh giá tình trạng viêm được sử dụng phổ biến nhất. CRP được sản xuất ra tại gan nhờ sự kích hoạt của các cytokine tiền viêm (pro-inflammtion cytokines) [marnellet 2005] như IL-6, IL-1, và IFN-a. CRP có trọng lượng phân tử là 120.000 kDA, được cấu tạo bởi 5 chuỗi polypeptid, sắp xếp đối xứng chung quanh lỗ trung tâm. CRP có tính ổn định cao do CRP có thành phần pentraxin ổn định, và có thời gian nửa đời dài 18-20 giờ, vì vậy người ta dễ dàng đo lường nồng độ CRP trong máu. Vai trò trong bệnh lý ở người: Nồng độ CRP trong máu người bình thường rất thấp, nhưng nó có thể tăng cao rất nhanh liên quan với tình trạng nhiễm trùng, đáp ứng tự miễn, ung thư và nhiễm trùng máu. CRP là một marker viêm có độ nhạy cao nhưng độ đặc hiệu không cao. Bình thường nồng độ CRP <3 mg/L, tăng >10 mg/L được coi là có ý nghĩa bệnh lý viêm cấp (2). Với khoảng từ 3 mg/L đến 10 mg/L có thể phản ánh nhiều tình trạng bệnh lý như béo phì, hút thuốc lá, đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn giấc ngủ, trầm cảm và nhiều trạng thái bệnh lý - sinh lý khác mà không phải là phản ứng viêm cấp (3). Trong các tình trạng viêm cấp, phá huỷ mô cấp (phản ứng pha cấp) nồng độ CRP có thể tăng tới 1000 lần trong 1 đến 2 ngày, tỷ lệ với mức độ nặng của tổn thương mô và mức độ nặng của quá trình viêm. CRP bám dính trên bề mặt tế bào bình thường bao gồm tiểu cầu, đại thực bào và các tế bào bị tổn thương hoặc tế bào chết và một số loại tế bào khác. CRP được nhận biết bởi thành phần bổ thể C1q và kích hoạt bổ thể theo con đường cổ điển hoặc cũng có thể kích hoạt đáp ứng của đại thực bào bằng việc gắn với receptor Fc (4,5). Vì vậy CRP có thể nhận diện nhiều tác nhân gây bệnh và các tế bào bất thường, từ đó loại bỏ chúng bằng con đường miễn dịch dịch thể. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng, CRP có thể có tác dụng có hại bên cạnh tác dụng bảo vệ như đã nói ở trên. CRP được sử dụng như một yếu tố dự đoán nguy cơ tim mạch vì CRP tham gia trực tiếp vào cơ chế tổn thương do xơ vữa động mạch (6), CRP tăng khi tổn thương mô trong nhồi máu cơ tim cấp và một số bệnh lý viêm khác (7). Những nghiên cứu hiện tại cho thấy CRP tăng trong các bệnh lý ung thư. Bên cạnh đó, ngày nay người ta còn sử dụng CRP như là một dấu ấn sinh học của giảm chức năng phổi, dấu ấn sinh học dự đoán của bệnh xơ nang và COPD, và được coi là dấu ấn sinh học của viêm hệ thống. Người ta cũng thấy rằng có một lượng CRP được sản xuất ra tại phổi bên cạnh nguồn chính được sản xuất tại gan. Tuy nhiên vai trò sinh học chính xác của CRP đối với hệ hô hấp, con đường tác động của CRP đối với các bệnh lý hô hấp khác nhau còn chưa được biết rõ. Cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để hiểu được vai trò của CRP với chức năng phổi và các bệnh lý hô hấp. Nếu những vai trò này được phát hiện, có thể những hiểu biết cổ điển của chúng ta về vai trò của CRP đối với bệnh lý của con người có thể phải được đánh giá lại. CRP SỬ DỤNG TRONG CHuyÊN KHOA HÔ HẤP BS NGuyỄN MINH SANG Khoa Hô hấp – Dị ứng, Bệnh viện Hữu Nghị Hướng dẫn tHực HànH 64 Hô hấp số 17/2018 2. VAI TRÒ CỦA CRP TRONG BỆNH LÝ HÔ HẤP Vai trò của CRP như một dấu ấn sinh học của quá trình viêm cấp: - Viêm phổi: Các tác nhân thông thường của viêm phổi bao gồm phế cầu, Haemophilus influenza và Mycoplasma pneumonae đều sản xuất phosphorylcholine (ChoP) trên bề mặt, ChoP cho phép vi khuẩn tương tác với rPAF (platelet- activating factor) cho phép tăng bám dính và xâm nhập vào tế bào nội mạc (8). ChoP cũng có thể gắn với CRP, làm làm cho ChoP không gắn vào được tế bào vật chủ, làm giảm xâm nhập của vi khuẩn vào tế bào vật chủ. Thêm nữa, CRP có khả năng bảo vệ chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn thông qua cơ chế hoạt động như một opsonin và hoạt hóa bổ thể theo con đường cổ điển thông qua tương tác với C1q (9), từ đó có khả năng diệt khuẩn chống lại viêm phổi (8). CRP được sản xuất cả ở tế bào nội mạc đường hô hô hấp với nồng độ thấp hơn trong máu nhưng có vai trò miễn dịch ban đầu quan trọng (10). Tuy nhiên trong quá trình viêm có sự gia tăng tính thấm qua màng mao mạch phế nang, CRP có thể thấm vào lòng phế nang và gắn với phosphatidyl- choline (thông qua ChoP) làm suy giảm hoạt động của surfactant (11,12). Như phần trên đã nói, CRP >10mg/L biểu hiện tình trạng viêm cấp. Nếu CRP huyết thanh £ 10mg/L có thể loại trừ chẩn đoán viêm phổi. Giá trị chẩn đoán viêm phổi của CRP không cao bằng procalcitonin nhưng cao hơn xét nghiệm công thức máu ngoại vi (13). Điểm cắt ở mức 33 mg/L có độ nhạy 83% và độ đặc hiệu 44%, trong chẩn đoán xác định viêm phổi, phân biệt với những bệnh nhân khác không mắc viêm phổi nhưng có triệu chứng lâm sàng tương tự (14). Chalmers và cộng sự cho thấy nồng độ CRP<100mg/L trên bệnh nhân viêm phổi cộng đồng trong ngày nhập viện và 4 ngày sau đó có liên quan độc lập với giảm tỷ lệ tử vong trong 30 ngày, giảm tỷ lệ thông khí nhân tạo và giảm tỷ lệ biến chứng của viêm phổi. Các nguy cơ trên tăng lên khi CRP không giảm ít nhất 50% từ ngày thứ 4 nhập viện trở đi (15). Một nghiên cứu (cohort) thực hiện trên 53 bệnh nhân chứng minh rằng việc xét nghiệm CRP hàng ngày ở bệnh nhân viêm phổi nặng là có ích nhằm phát hiện những bệnh nhân có diễn biến xấu, marker này là một yếu tố dự đoán tốt hơn các marker thường được dùng để theo dõi sự nhiễm khuẩn khác ví dụ như bạch cầu hay thân nhiệt. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những bệnh nhân có sự giảm nhanh nồng độ CRP có thể rút ngắn thời gian điều trị kháng sinh mà không làm giảm hiệu quả điều trị đồng thời hạn chế độc tính của thuốc (16). Nói tóm lại, CRP tăng rất cao trong phản ứng pha cấp, vì vậy trong viêm phổi CRP tăng cao ngay khi nhập viện trong ngày đầu tiên. CRP tăng trong viêm phổi thể hiện tác dụng bảo vệ của cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn. Tuy độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán viêm phổi không cao bằng procalcitonin nhưng CRP là một marker dễ làm, có giá trị chẩn đoán, theo tiên lượng và dõi điều trị. - Đợt cấp của COPD: Một trong các nguyên nhân quan trọng gây đợt cấp COPD là nhiễm trùng (bao gồm vi khuẩn và virus). Nhiều nghiên cứu cho thấy trong đợt cấp có nhiễm khuẩn nồng độ CRP tăng cao (17,18). Nghiên cứu của Miguel Gallego (2016) trên những bệnh nhân có đợt cấp COPD ngoại trú cho thấy nồng độ CRP cao khi nhiễm khuẩn đặc biệt là đối với H. influenzae và S. pneumoniae. Nồng độ CRP >100 mg/L làm tăng 4 lần nguy cơ nhập viện (18). CRP không có giá trị để chẩn đoán xác định đợt cấp. Vì chỉ tác nhân gây đợt cấp là vi khuẩn thì CRP mới tăng, mà chúng ta đã biết rằng có rất nhiều trường hợp khởi phát đợt cấp là do nhiễm virus hoặc các tác nhân khác. CRP thấp chứng tỏ đợt cấp không có nhiễm khuẩn mà có thể do Hướng dẫn tHực HànH 65 Hô hấp số 17/2018 nhiễm virus hoặc phối hợp với suy tim khi đó cần những điều trị phù hợp khác mà không phải là kháng sinh. Giá trị của CRP trong đợt cấp COPD là xác định COPD do nhiễm khuẩn hay không từ đó có quyết định dùng kháng sinh một cách hợp lý (19). Chỉ khoảng 20% đợt cấp cần dùng kháng sinh, vì tác nhân gây nhiễm khuẩn là do nhiễm những chủng vi khuẩn mới, bao gồm cả khả năng chủng vi khuẩn đồn trú (colonization) đột biến và trở nên gây bệnh chứ không phải những chủng đồn trú trên đường hô hấp dưới (20). Điểm cắt (cut-off) để quyết định dùng kháng sinh còn chưa thực sự thống nhất. Weis và Almdal cho thấy có 30% trong 166 bệnh nhân đợt cấp COPD có CRP ở mức bình thường trong khi đó nồng độ CRP trung bình ở nhóm có đờm đục là 45mg/L và 97 mg/L ở nhóm có kèm thâm nhiễm (19). D Stolza và cộng sự nghiên cứu trên 243 bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp dưới thấy rằng mức cut-off 50mg/L có độ nhạy 93,8% trong xác định nhiễm khuẩn hô hấp dưới cần dùng kháng sinh (21. Bên cạnh đó CRP cho phép theo dõi đáp ứng điều trị kháng sinh. Johannes M.A Daniels và cộng sự cho thấy khi CRP<5mg/L thì 90% điều trị kháng sinh đã thành công (22). Nói tóm lại, vai trò của CRP trong đợt cấp COPD là chẩn đoán và theo dõi điều trị nhiễm khuẩn. Đối với bệnh nhân ngoại trú có thể dùng CRP như một biomarker đánh giá mức độ nặng của đợt cấp cần nhập viện. - Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS): ARDS là một thể tổn thương phổi cấp mức độ nặng. Trong hội chứng này nồng độ CRP tăng cao trong huyết thanh và trong dịch rửa phế quản- phế nang (BAL). Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ CRP trong máu cao hơn ở những người mắc ARDS so với bệnh nhân ARDS tử vong (10,23). Li và cs năm 1989 cho thấy CRP có thể có vai trò bảo vệ trong ARDS. Bajwa và cộng sự cho thấy nồng độ CRP trung bình ở nhóm sống sót là 176.5 mg/L so với nhóm nhóm tử vong là 133.5 mg/L, p=0,02 (23). Chúng ta biết rằng bạch cầu đa nhân trung tính có vai trò rất lớn trong đáp ứng viêm cấp của ARDS. Các nghiên cứu in vivo và in vitro đã chứng minh là do CRP có khả năng ức chế hóa ứng động bạch cầu đa nhân trung tính từ đó làm giảm quá trình viêm trong ARDS (24,25). Vì vậy, nồng độ CRP cao trong huyết thanh có giá trị dự đoán sự sống sót trên. Tuy nhiên người ta chưa đưa ra được mức cut-off với nồng độ nào thì CRP có tác dụng bảo vệ đối với ARDS. Đối với trẻ em và người già, nồng độ CRP cao không liên quan đến tiên lượng tốt ở bệnh nhân ARDS. Không những thế, ở trẻ em nồng độ CRP còn liên quan đến tác dụng có hại, nghiên cứu của Bruijin và cộng sự cho thấy ở nhóm bệnh nhi tử vong do ARDS nồng độ CRP trung bình là 126 mg/L so sánh với 56 mg/L ở nhóm bệnh nhi sống sót, p = 0.01 (26). Tương tự như vậy đối người già nồng CRP độ cao liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong (27). Ở đây cho chúng ta thấy vai trò bảo vệ của nồng độ CRP liên quan đến tuổi của bệnh nhân ARDS (23,26, 27). Có lẽ ở đây có vai trò của nhiễm trùng trên bệnh nhân ARDS. Tình trạng nhiễm trùng có thể làm cho nồng độ CRP cao hơn, để làm rõ hơn chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn về vai trò CRP đối với ADRS. CRP liên quan đến các tình trạng viêm hệ thống mạn tính: - COPD giai đoạn ổn định: Bệnh nhân COPD có tình trạng viêm hệ thống chính vì vậy nồng độ các marker viêm như CRP và fibrinogen tăng (18-30). Chúng ta đã biết rằng thuốc lá được xem là yếu tố quan trọng làm giảm nhanh FEV1 (31). Có thể do khói thuốc kích hoạt và duy trì phản ứng viêm hệ thống, những người đang hút thuốc có CRP cao hơn những người đã bỏ (29). Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ CRP cao liên quan có ý nghĩa với giảm chức năng phổi ở cả nam và nữ, tuy nhiên nồng độ CRP cao ở nam liên quan đến giảm FEV1 mức độ nặng. Olafsdottir đã chứng minh giới có ảnh hưởng đến nồng độ CRP và giảm chức năng phổi ở bệnh nhân COPD (32). CRP còn được coi là một yếu tố dự đoán nguy cơ nhập viện và tử vong vì COPD. Nghiên Hướng dẫn tHực HànH 66 Hô hấp số 17/2018 cứu của Dahl năm 2007 cho thấy những yếu tố nguy tiên lượng tử vong và nhập viện của bệnh nhân COPD bao gồm nồng độ CRP huyết thanh >3m/L, hút thuốc lá tương đương >15g/ngày, tuổi trên 70, FEV1<50%. Dahl kết luận CRP là một yếu tố dự đoán mạnh và độc lập tiên lượng của bệnh nhân COPD (33). Hầu hết các nghiên cứu đều lấy mức cut-off CRP>3mg/L cho tình trạng tăng viêm hệ thống. Giovanni Leuzzi trong một nghiên cứu phân tích gộp công bố rất gần đây cho thấy CRP cao liên quan có ý nghĩa với tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân COPD (34). Các bằng chứng đều thống nhất trên bệnh nhân COPD có tình trạng tăng viêm hệ thống, biểu hiện bằng tăng CRP và fibrinogen. Tình trạng tăng viêm hệ thống làm gia tăng tỷ lệ tử vong trong dài hạn của bệnh nhân COPD. Câu hỏi đặt ra là nếu có phương pháp nào đó điều trị làm giảm viêm hệ thống thì có cải thiện tỷ lệ tử vong không? Trả lời được câu hỏi này có ý nghĩa rất lớn với thực hành lâm sàng. Nghiên cứu rất nổi tiếng của Paul M Ridker đăng trên tạp chí NEJM năm 2005 cho thấy bên cạnh hiệu quả làm giảm cholesterol, statin còn làm giảm CRP một cách có ý nghĩa (35). Nhưng đối tượng nghiên cứu của Paul M Ridker là những bệnh nhân có hội chứng vành cấp. Tiếp sau đó nhiều nghiên cứu khác trên bệnh nhân COPD cũng cho thấy statin làm giảm viêm hệ thống và giảm tỷ lệ tử vong. Lies Lahousse (2013) nghiên cứu tác dụng của điều trị statin cho thấy so với nhóm không dùng statin nhóm điều trị statin dài hạn (trên 2 năm) giảm 39% nguy cơ tử vong. Đối với nhóm có hsCRP cao (>3mg/L) điều trị statin làm giảm tử vong 78%, trong khi đó nhóm có CRP£3mg/L chỉ giảm tử vong 21%. Lies Lahousse kết luận điều trị statin có tác dụng làm giảm tử vong do mọi nguyên nhân trên bệnh nhân COPD, tùy thuộc vào mức độ viêm hệ thống nền (36). Tóm lại, một trong những đặc điểm của COPD là tăng viêm hệ thống, biểu hiện bằng tăng CRP > 3mg/L. Tăng viêm hệ thống có liên hệ chặt chẽ với nguy cơ nhập viện và tử vong trên bệnh nhân COPD. Điều trị statin có hiệu quả làm giảm viêm hệ thống và giảm tỷ lệ tử vong. - Hen phế quản: Một số nghiên cứu cho thấy tình trạng tăng tính phản ứng phế quản (Bronchial hyperresponsiveness - BHR) có liên quan đến phản ứng viêm hệ thống và nồng độ CRP (37-39). Nghiên cứu thấy rằng FEV1 trung bình giảm và tăng tính phản ứng phế quản thường gặp ở những người có nồng độ CRP cao. Điều đó chứng tỏ rằng nồng độ CRP có liên quan đến giảm chức năng hô hấp và tăng tính phản ứng phế quản. Cả tăng tính phản ứng phế quản và giảm chức năng hô hấp đều liên quan đến quá trình viêm hệ thống. Trong giai đoạn ổn định, nồng độ hsCRP thường rất thấp, thấp hơn nữa nếu bệnh nhân được điều trị corticoid hít thường xuyên. M. Takemura và cộng sự trong một nghiên cứu cắt ngang chia bệnh nhân thành 2 nhóm, nhóm 1 (n=22) những bệnh nhân điều trị cortioid không đều, nhóm 2 (n=23) bệnh nhân dùng corticoid hít đều và 1 nhóm người khỏe mạnh đối chứng (n=14). Kết quả cho thấy kết quả nồng độ hsCRP ở các nhóm lần lượt là 1.3 ± 1.5 mg/L, 0.9 ± 1.0 mg/L và 0.2 ± 0.3 mg/L, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm 1 và nhóm đối chứng. Trong nhóm 1 nồng độ hsCRP huyết thanh tương quan ngược với chức năng phổi, tương quan thuận với bạch cầu ái toan trong máu. Ngược lại bệnh nhân được điều trị corticoid hít không thấy các sự tương quan này. Tác giả kết luận hsCRP có thể được sử dụng như một biomarker thay thế đánh giá tình trạng viêm đường thở trên bệnh nhân hen (40). Trong giai đoạn cấp, nồng độ CRP tăng cao hơn thể hiện hoạt động viêm hệ thống trội lên, nhưng tăng thường không vượt quá 10mg/L (mức & ... phân tích CRP là một trong các marker đánh giá viêm hệ thống mạn tính, có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư phổi. Nghiên cứu liên quan giữa nguy cơ mắc ung thư phổi và CRP lưu hành và kiểu gen CRP cho thấy nồng độ CRP liên quan đến tăng nguy cơ ung thư lên gấp đôi, trong khi đa hình đơn nucleotide (single nucleotide polymorphisms- SNPs) của CRP không liên quan đến nguy cơ ung thư (46). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nồng độ CRP tăng ở những người hút thuốc lá (xem phần COPD), thậm trí CRP còn tiếp tục tăng cho đến 15 năm sau khi bỏ thuốc lá. Bản thân thuốc là có khả năng kích hoạt viêm tại phổi, nồng độ CRP ở người hút thuốc lá phụ thuộc vào số lượng thuốc được hút. CRP tăng liên quan đến nguy cơ mắc ung thư trong tương lai gợi ý vai trò sinh bệnh học của viêm hệ thống mạn tính với quá trình ung thư hóa ở phổi (46). Những yếu tố khác dẫn đến tình trạng viêm mạn tính ở phổi như nhiễm trùng phổi, tiếp xúc với amiang, silic, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen, xơ phổi đều làm tăng nguy cơ ung thư (47,48). Mặc dù vậy, chúng ta còn cần nhiều nghiên cứu để kiểm chứng sự tương quan giữa marker viêm hệ thống (CRP) và tình trạng viêm tại phổi, những khám phá này có thể sẽ đưa đến cơ hội cho những điều trị can thiệp trúng đích nhằm dự phòng ung thư phổi (46). Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ CRP ở bệnh nhân ung thư phổi tế bào vảy thường cao hơn rõ rệt so với bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào vảy. Kích thước khối u có liên quan đến mức độ CRP trong huyết thanh (49,50), có lẽ cũng một phần do ung thư tế bào vảy thường có kích thước to. Tiên lượng: Tỷ lệ sống sau 5 năm thấp hơn ở những người có CRP>5 mg/L so với nhóm CRP≤5 mg/L. Những nghiên cứu này cho thấy CRP như là một yếu tố tiên lượng độc lập của ung thu phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn 1 (49). Thêm nữa, khi phân tích CRP như là một yếu tố tiên lượng với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ thì thấy tỷ lệ sống sót đặc hiệu bệnh (disease- specific survival rate) sau phẫu thuật thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm CRP cao so với nhóm CRP thấp, điều này có thể liên quan với mối quan hệ giữa nồng độ CRP trước và sau phẫu thuật (50,51). Đối với giai đoạn tiến xa của bệnh, CRP trong huyết thanh (s-CRP) là một yếu tố tiên lượng sống sót độc lập. Có rất ít nghiên cứu tập trung vào Hướng dẫn tHực HànH 68 Hô hấp số 17/2018 vai trò của CRP trong dịch màng phổi (p-CRP). ParK (2013) nghiên cứu vai trò p-CRP trên bênh nhân ung thư phổi có tràn dịch màng phổi ác tính. Kết quả cho thấy nồng độ CRP trong dịch màng phổi có tương quan với nồng độ CRP huyết thanh (r=0.82, p<0.0001). Đối với chẩn đoán phân biệt nguyên nhân tràn dịch ác tính hay lành tính, diện tích dưới đường cong của p-CRP (0,86) lớn hơn s-CRP (0,77). Nồng độ cao p-CRP liên quan có ý nghĩa làm giảm thời gian sống thêm (p=0.006). Tác giả kết luận p-CRP tốt hơn s-CRP trong xác dịnh nguyên gây tràn dịch màng phổi. Định lượng p-CRP có ý nghĩa trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh nhân ung thu phổi có tràn dịch màng phổi (52). - Lao phổi: Nước ta nằm trong vùng dịch tễ của lao phổi, chúng ta gặp khá thường xuyên bệnh nhân lao trên thực hành lâm sàng thường ngày, nhất là ở chuyên khoa hô hấp. Vậy vai trò của CRP trong chẩn đoán và điều trị lao phổi như thế nào? CRP áp dụng trong chẩn đoán lao phổi: Nghiên cứu của Wilson D và cộng sự trên đối tượng lao AFB âm tính cho thấy ở nhóm có bằng chứng vi khuẩn học nồng độ CRP trung bình là 15,4 mg/L, khác biệt có ý nghĩa so với ở nhóm không mắc lao là 0,7 mg/L. Nồng độ CRP trên giới hạn bình thường có độ nhạy 0,98 (95% CI 0.94; 0.99), độ đặc hiệu 0.59 (95% CI 0.50; 0.68), giá trị chẩn đoán dương tính 0.74 (95% CI 0.67; 0.80), giá trị chẩn đoán âm tính 0.96 (95% CI 0.88; 0.99) (53). Tuy nhiên, chúng ta có thể CRP có độ nhạy rất cao nhưng độ đặc hiệu không cao trong chẩn đoán lao phổi. CRP áp dụng trong theo dõi bệnh: Trong một số trường hợp có biến chứng như tràn khí màng phổi, hang nấm ký sinh, giãn phế quản hoặc lao kê thì nồng độ CRP trong máu tăng. Sự gia tăng nồng độ CRP cũng phản ánh mức độ nặng của bệnh (hay nói cách khác là mức độ hoạt động của vi khuẩn lao (54). Nồng độ CRP trên bệnh nhân lao trước điều trị thường cao trên mức bình thường, tuy nhiên, sau khi được điều trị, nồng độ CRP có thể về mức bình thường, vì vậy người ta có thể dùng CRP như một biomarker theo dõi đáp ứng điều trị (55). KẾT LuẬN CRP là một marker phản ánh 2 tình trạng sinh lý bệnh quan trọng đó là phản ứng pha cấp (khi xảy ra tổn thương, phá hủy tế bào-mô) và tăng viêm hệ thống. Với vai trò của một marker của đáp ứng pha cấp, CRP được ứng dụng trong chẩn đoán, điều trị, và theo dõi các tình trạng nhiễm trùng cấp tính tại phổi trong đó quan trọng nhất là viêm phổi và đợt cấp COPD nhiễm trùng. Với vai trò là một marker viêm hệ thống, CRP được ứng dụng trong sàng lọc, theo dõi, tiên lượng ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và các tình trạng viêm mạn tính khác ở phổi. Hiểu biết về viêm hệ thống và vai trò của viêm hệ thống đối với sự hình thành bệnh lý ác tính ở phổi, COPD cho phép chúng ta đưa ra những dự phòng và điều trị phù hợp trong những bệnh cảnh cụ thể như bỏ thuốc lá, điều trị statin Trong tương lai, hy vọng chúng ta sẽ có thêm nhiều những hiểu biết mới về vai trò của CRP, từ đó có thể có thêm những phương pháp điều trị và dự phòng mới. Tài liệu tham khảo 1. Tillett, W.S. and T. Francis, Serological reactions in pneumonia with a non-protein somatic fraction of pneumococcus. J Exp Med, 1930. 52(4): p. 561-71. 2. Dhingra, R., et al., C-reactive protein, inflammatory conditions, and cardiovascular disease risk. Am J Med, 2007. 120(12): p. 1054-62. 3. Kushner, I., C-reactive protein elevation can be caused by conditions other than inflammation and may reflect biologic aging. Cleve Clin J Med, 2001. 68(6): p. 535-7. 4. Marnell, L., C. Mold, and T.W. Du Clos, C-reactive protein: Ligands, receptors and role in inflammation. Clinical Immunology, 2005. 117(2): p. 104-111. 5. Mold, C., et al., C-reactive protein mediates protection from lipopolysaccharide through interactions with Fc gamma R. J Immunol, 2002. 169(12): p. 7019-25. 6. Verma, S., P.E. Szmitko, and E.T. Yeh, C-reactive protein: structure affects function. Circulation, 2004. 109(16): p. 1914-7. Hướng dẫn tHực HànH 69 Hô hấp số 17/2018 7. Berton, G., et al., C-reactive protein in acute myocardial infarction: association with heart failure. Am Heart J, 2003. 145(6): p. 1094-101. 8. Gould, J.M. and J.N. Weiser, The inhibitory effect of C-reactive protein on bacterial phosphorylcholine platelet-activating factor receptor-mediated adherence is blocked by surfactant. J Infect Dis, 2002. 186(3): p. 361-71. 9. Kaplan, M.H. and J.E. Volanakis, Interaction of C-reactive protein complexes with the complement system. I. Consumption of human complement associated with the reaction of C-reactive protein with pneumococcal C-polysaccharide and with the choline phosphatides, lecithin and sphingomyelin. J Immunol, 1974. 112(6): p. 2135-47. 10. Li, J.J., et al., Impact of C-reactive protein (CRP) on surfactant function. J Trauma, 1989. 29(12): p. 1690-7. 11. Holm, B.A., et al., Pulmonary physiological and surfactant changes during injury and recovery from hyperoxia. J Appl Physiol (1985), 1985. 59(5): p. 1402-9. 12. Jobe, A., et al., Permeability of premature lamb lungs to protein and the effect of surfactant on that permeability. J Appl Physiol Respir Environ Exerc Physiol, 1983. 55(1 Pt 1): p. 169-76. 13. Christ-Crain, M. and S.M. Opal, Clinical review: the role of biomarkers in the diagnosis and management of community- acquired pneumonia. Crit Care, 2010. 14(1): p. 203. 14. Almirall, J., et al., Contribution of C-reactive protein to the diagnosis and assessment of severity of community- acquired pneumonia. Chest, 2004. 125(4): p. 1335-42. 15. Chalmers, J.D., A. Singanayagam, and A.T. Hill, C-reactive protein is an independent predictor of severity in community-acquired pneumonia. Am J Med, 2008. 121(3): p. 219-25. 16. Coelho, L., et al., Usefulness of C-reactive protein in monitoring the severe community-acquired pneumonia clinical course. Crit Care, 2007. 11(4): p. R92. 17. Dev, D., et al., Value of C-reactive protein measurements in exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. Respir Med, 1998. 92(4): p. 664-7. 18. Gallego, M., et al., C-reactive protein in outpatients with acute exacerbation of COPD: its relationship with microbial etiology and severity. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 2016. 11: p. 2633-2640. 19. Weis, N. and T. Almdal, C-reactive protein--can it be used as a marker of infection in patients with exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease? Eur J Intern Med, 2006. 17(2): p. 88-91. 20. Sethi, S., et al., New strains of bacteria and exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med, 2002. 347(7): p. 465-71. 21. Stolza, D., et al., Diagnostic value of signs, symptoms and laboratory values in lower respiratory tract infection. 2006. 59: p. 24. 22. Daniels, J.M.A., et al., Procalcitonin vs C-Reactive Protein as Predictive Markers of Response to Antibiotic Therapy in Acute Exacerbations of COPD. Chest, 2010. 138(5): p. 1108-1115. 23. Bajwa, E.K., et al., Plasma C-Reactive Protein Levels Are Associated With Improved Outcome in ARDS. Chest, 2009. 136(2): p. 471-80. 24. Kew, R.R., T.M. Hyers, and R.O. Webster, Human C-reactive protein inhibits neutrophil chemotaxis in vitro: possible implications for the adult respiratory distress syndrome. J Lab Clin Med, 1990. 115(3): p. 339-45. 25. Ahmed, N., et al., Transgenic mice expressing rabbit C-reactive protein exhibit diminished chemotactic factor- induced alveolitis. Am J Respir Crit Care Med, 1996. 153(3): p. 1141-7. 26. Bruijn, M., et al., Association between C-reactive protein levels and outcome in acute lung injury in children. Eur J Pediatr, 2013. 172(8): p. 1105-10. 27. Komiya, K., et al., Plasma C-reactive protein levels are associated with mortality in elderly with acute lung injury. J Crit Care, 2012. 27(5): p. 524.e1-6. 28. Donaldson, G.C., et al., Airway and Systemic Inflammation and Decline in Lung Function in Patients With COPD. Chest, 2005. 128(4): p. 1995-2004. 29. Gan, W.Q., S.F. Man, and D.D. Sin, The interactions between cigarette smoking and reduced lung function on systemic inflammation. Chest, 2005. 127(2): p. 558-64. 30. Mannino, D.M., E.S. Ford, and S.C. Redd, Obstructive and restrictive lung disease and markers of inflammation: data from the third national health and nutrition examination. The American Journal of Medicine, 2003. 114(9): p. 758-762. 31. Anthonisen, N.R., J.E. Connett, and R.P. Murray, Smoking and lung function of Lung Health Study participants after 11 years. Am J Respir Crit Care Med, 2002. 166(5): p. 675-9. 32. Olafsdottir, I.S., et al., Gender differences in the association between C-reactive protein, lung function impairment, and COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 2007. 2(4): p. 635-42. 33. Dahl, M., et al., C-reactive protein as a predictor of prognosis in chronic obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med, 2007. 175(3): p. 250-5. 34. Leuzzi, G., et al., C-reactive protein level predicts mortality in COPD: a systematic review and meta-analysis. 2017. 26(143). 35. Ridker, P.M., et al., C-reactive protein levels and outcomes after statin therapy. N Engl J Med, 2005. 352(1): p. 20-8. 36. Lahousse, L., et al., Statins, systemic inflammation and risk of death in COPD: the Rotterdam study. Pulm Pharmacol Ther, 2013. 26(2): p. 212-7. 37. Kony, S., et al., Association of bronchial hyperresponsiveness and lung function with C-reactive protein (CRP): a population based study. Thorax, 2004. 59(10): p. 892-6. Hướng dẫn tHực HànH 70 Hô hấp số 17/2018 38. O’Connor, G.T., D. Sparrow, and S.T. Weiss, A prospective longitudinal study of methacholine airway responsiveness as a predictor of pulmonary-function decline: the Normative Aging Study. Am J Respir Crit Care Med, 1995. 152(1): p. 87-92. 39. Rijcken, B., et al., Airway hyperresponsiveness to histamine associated with accelerated decline in FEV1. Am J Respir Crit Care Med, 1995. 151(5): p. 1377-82. 40. Takemura, M., et al., High sensitivity C-reactive protein in asthma. 2006. 27(5): p. 908-912. 41. Razi, E., et al., Evaluation of high-sensitivity C-reactive protein in acute asthma. 2011, Eur Respiratory Soc. 42. Bafadhel, M., et al., Procalcitonin and C-Reactive Protein in Hospitalized Adult Patients With Community-Acquired Pneumonia or Exacerbation of Asthma or COPD. Chest, 2011. 139(6): p. 1410-1418. 43. Bray, F., et al., Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA Cancer J Clin, 2018. 44. Pine, S.R., et al., Increased levels of circulating interleukin 6, interleukin 8, C-reactive protein, and risk of lung cancer. J Natl Cancer Inst, 2011. 103(14): p. 1112-22. 45. Zhou, B., et al., C-reactive protein, interleukin 6 and lung cancer risk: a meta-analysis. PLoS One, 2012. 7(8): p. e43075. 46. Chaturvedi, A.K., et al., C-reactive protein and risk of lung cancer. J Clin Oncol, 2010. 28(16): p. 2719-26. 47. Littman, A.J., L.A. Jackson, and T.L. Vaughan, Chlamydia pneumoniae and lung cancer: epidemiologic evidence. Cancer Epidemiol Biomarkers Prev, 2005. 14(4): p. 773-8. 48. Durham, A.L. and I.M. Adcock, The relationship between COPD and lung cancer. Lung Cancer, 2015. 90(2): p. 121-7. 49. Xu, Y., Z. Li, and Y. Shen-Tu, [The prognostic value of detection of serum C-reactive protein in the patients with stage I lung cancer]. Zhongguo Fei Ai Za Zhi, 2011. 14(5): p. 400-3. 50. Hara, M., et al., Preoperative serum C-reactive protein level in non-small cell lung cancer. Anticancer Res, 2007. 27(4c): p. 3001-4. 51. Hara, M., et al., Postoperative serum C-reactive protein levels in non-small cell lung cancer patients. Ann Thorac Cardiovasc Surg, 2010. 16(2): p. 85-90. 52. Park, D.-S., et al., Diagnostic Value and Prognostic Significance of Pleural C-Reactive Protein in Lung Cancer Patients with Malignant Pleural Effusions. Yonsei Medical Journal, 2013. 54(2): p. 396-402. 53. Wilson, D., M. Badri, and G. Maartens, Performance of serum C-reactive protein as a screening test for smear-negative tuberculosis in an ambulatory high HIV prevalence population. PLoS One, 2011. 6(1): p. e15248. 54. Kwas, H., et al., C-reactive protein and pulmonary tuberculosis: What correlation with disease severity. 2015. 46(suppl 59). 55. Bajaj, G., A. Rattan, and P. Ahmad, Prognostic value of ‘C’ reactive protein in tuberculosis. Indian Pediatr, 1989. 26(10): p. 1010-3.
File đính kèm:
crp_su_dung_trong_chuyen_khoa_ho_hap.pdf

