Covid hóa khoa học

Đại dịch Covid-19 làm thay đổi gần như tất cả các hoạt động xã hội, kể cả

hoạt động khoa học. Xu hướng ‘Covid hoá’ (covidization) khoa học ngoài

việc tạo ra những hiệu ứng tích cực (thời gian phát triển vaccine nhanh chưa

từng có, làm thay đổi mô hình hợp tác nghiên cứu trên thế giới ) cũng đã gây

ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng nghiên cứu và phẩm chất khoa học.

pdf 4 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Covid hóa khoa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Covid hóa khoa học

Covid hóa khoa học
52
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Dịch Covid-19 bùng phát vào cuối tháng 12/2019 tại Vũ Hán (Trung Quốc). 
Nguyên nhân của đại dịch là một 
virus trong chủng coronavirus 
và được định danh là SARS-
CoV-2. Thoạt đầu, dịch Covid-19 
được giới khoa học đánh giá là 
epidemic (dịch bệnh), nhưng 
sau một thời gian theo dõi quy 
mô và tác động của dịch, ngày 
12/3/2020, Tổ chức Y tế thế 
giới (WHO) chính thức tuyên bố 
pandemic (đại dịch). 
Mỗi đại dịch là một cơ hội để 
huy động cộng đồng khoa học 
và đại dịch Covid-19 cũng không 
phải là một ngoại lệ. Hầu như tất 
cả các trường đại học, tổ chức 
nghiên cứu, tập san khoa học, 
quỹ tài trợ khoa học khắp thế giới 
đều dành ưu tiên cho Covid-19. 
Một số chương trình nghiên cứu 
đang diễn ra phải hoãn lại để tập 
trung vào nghiên cứu Covid-19. 
Đó là một hiện tượng "Covid 
hoá"(Covidization) khoa học và 
làm ảnh hưởng đến hầu như tất 
cả những ai làm trong lĩnh vực 
nghiên cứu khoa học.
Hiệu ứng tích cực
Ảnh hưởng của Covid hoá 
khoa học đem lại nhiều thành 
quả tích cực. Sự ra đời của 
vaccine phòng chống nhiễm 
virus gây dịch Covid-19 là một 
trong những thành tựu lớn nhất 
trong năm 2020. Chỉ trong vòng 
10 tháng nghiên cứu, thế giới 
đã có 3 vaccine của Tập đoàn 
Pfizer, Công ty Moderna (Mỹ) [1] 
và Đại học Oxford [2], với hiệu 
quả cao mà ít thấy trước đây đối 
với các vaccine khác. Kết quả 
thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 
III (tức giai đoạn quyết định) cho 
thấy, cả hai vaccine Pfizer và 
Moderna có hiệu quả trên 90%. 
Nhìn chung, con số về hiệu quả 
trên 90% có thể nói là "tuyệt vời", 
vì trước đây các loại vaccine khác 
không có hiệu quả cao như thế. 
Có thể xem đây là một kỳ tích. Kỳ 
tích này chưa bao giờ đạt được 
trước đây. 
Thời gian phát triển vaccine 
cũng có thể xem là một kỷ lục. Xin 
nhắc lại rằng nghiên cứu bào chế 
vaccine phải trải qua 3 giai đoạn 
chính. Trong giai đoạn I, vaccine 
được tiêm cho một số ít (vài chục) 
người khoẻ mạnh nhằm đánh giá 
sự an toàn của vaccine và phản 
ứng miễn dịch của các đối tượng 
nghiên cứu. Nếu thành công 
trong giai đoạn I, vaccine sẽ được 
tiếp tục thử nghiệm ở giai đoạn 
II, nhưng lần này thì số lượng đối 
tượng có thể lên đến hàng trăm. 
Mục đích của thử nghiệm giai 
đoạn II vẫn là đánh giá hiệu quả 
và an toàn của vaccine, cùng liều 
lượng tối ưu của vaccine. Nếu 
thành công ở giai đoạn II, vaccine 
sẽ được thử nghiệm ở giai đoạn 
III, được xem là “tiêu chuẩn vàng” 
để đánh giá một vaccine. Kết quả 
nghiên cứu sẽ quyết định vaccine 
có được phê chuẩn cho sử dụng 
đại trà hay không. Thử nghiệm 
lâm sàng giai đoạn III đòi hỏi phải 
có vài vạn người tham gia. Ngay 
cả sau khi thử nghiệm thành công 
giai đoạn III, vaccine vẫn còn 
được theo dõi trong giai đoạn IV 
để đánh giá an toàn. 
Nghiên cứu bào chế vaccine 
thường có xác suất thành công 
thấp. Tính từ ngày 1/2/2000 đến 
7/1/2020 đã có 43.414 công trình 
thử nghiệm vaccine trên thế giới 
được đăng ký. Dữ liệu từ các thử 
nghiệm này cho thấy, xác suất 
thành công trong giai đoạn I và 
II là 83%, nhưng từ giai đoạn II 
sang giai đoạn III thì giảm xuống 
còn 65% nếu vaccine do các 
công ty kỹ nghệ dược nghiên cứu 
và chỉ 37% nếu vaccine do các tổ 
chức của nhà nước bảo trợ. Tính 
chung từ giai đoạn I đến giai đoạn 
IV, xác suất thành công là chỉ từ 
7% (vaccine do nhà nước bảo 
trợ) đến 40% (vaccine do công ty 
covid hÓa khoa học
GS Nguyễn Văn Tuấn 
Khoa y, Đại học New South Wales và Đại học Công nghệ Sydney, Úc
Đại dịch Covid-19 làm thay đổi gần như tất cả các hoạt động xã hội, kể cả 
hoạt động khoa học. Xu hướng ‘Covid hoá’ (covidization) khoa học ngoài 
việc tạo ra những hiệu ứng tích cực (thời gian phát triển vaccine nhanh chưa 
từng có, làm thay đổi mô hình hợp tác nghiên cứu trên thế giới) cũng đã gây 
ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng nghiên cứu và phẩm chất khoa học. 
53
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
dược bảo trợ). Cho đến nay, dù có 
nhiều chương trình nghiên cứu, 
nhưng tất cả nghiên cứu vaccine 
cho MERS, SARS, Ebola đều 
thất bại (hiểu theo nghĩa không 
được phê chuẩn). 
Nhưng không phải bất cứ kỳ 
tích nào cũng đến một cách đột 
ngột hay bất ngờ, mà đó là thành 
tựu của rất nhiều nỗ lực từ tài trợ 
cho nghiên cứu đến hợp tác đa 
quốc gia. Tuy nhiên, yếu tố quan 
trọng nhất vẫn là nghiên cứu cơ 
bản từ nhiều năm trước. Khoảng 
20 năm qua, đã có nhiều nghiên 
cứu về một thế hệ vaccine mới 
dựa trên cơ sở hiểu biết cơ chế 
vận hành của RNA. Không giống 
như các vaccine truyền thống, 
vaccine mới đưa vào một mảng 
RNA tín hiệu (messenger RNA, 
hay mRNA), một phân tử điều 
phối tế bào nên làm gì và mã 
hoá cho kháng nguyên. Vaccine 
mRNA được “nhân tạo” sao cho 
vaccine không có đủ thông tin 
để sản xuất protein, nhưng có đủ 
thông tin để “lừa gạt” hệ thống 
miễn dịch của người nhận rằng 
đó là một virus thật, và kích hoạt 
việc sản xuất ra kháng thể chống 
lại virus. Đó là một ý tưởng rất 
hay và trong thực tế đã được bào 
chế và sử dụng trong việc phòng, 
chống một số bệnh ung thư. Do 
đó, vaccine mRNA cho Covid-19 
là một thành quả kéo dài của các 
nghiên cứu trong 2 thập niên qua.
Đại dịch Covid-19 còn làm 
thay đổi mô hình hợp tác nghiên 
cứu trên thế giới. Một công trình 
nghiên cứu thử nghiệm vaccine ở 
giai đoạn III thường cần từ 20.000 
đến 30.000 tình nguyện viên đáp 
ứng các tiêu chuẩn tuyển chọn 
nghiêm ngặt. Để tuyển được số 
lượng tình nguyện viên nhiều 
như thế là cả một thách thức 
(kinh nghiệm của người viết bài 
này, đối với các nghiên cứu lâm 
sàng chừng 10.000 bệnh nhân 
phải mất 1-2 năm để tuyển). Tuy 
nhiên, trong tình hình khẩn cấp, 
các nhóm nghiên cứu từ nhiều 
quốc gia sẵn sàng góp sức để 
tuyển cho đủ số tình nguyện viên 
thử nghiệm vaccine trong vòng 
không đầy 6 tháng. Có thể nói, 
dịch Covid-19 đã làm cho thế giới 
khoa học gần nhau hơn để thực 
hiện những nghiên cứu mà bình 
thường khó có thể thực hiện trong 
1 năm.
Vài hệ quả tiêu cực
Nhưng Covid hoá khoa học 
cũng gây ra vài hệ quả tiêu cực. 
Trước hết là ảnh hưởng đến tài 
trợ cho nghiên cứu khoa học. Các 
nhà tài trợ phải dành một ngân 
sách lớn cho các vấn đề liên 
quan đến Covid-19, và do đó họ 
phải hy sinh các chương trình tài 
trợ khác. Hệ quả là các chương 
trình nghiên cứu về các bệnh 
khác bị ảnh hưởng khá nặng nề. 
Chẳng hạn như tính đến tháng 
4/2020, Ủy hội châu Âu đã dành 
ngân sách 165 triệu USD để tài 
trợ cho các nghiên cứu Covid-19 
(số tiền này lớn hơn ngân sách 
dành cho nghiên cứu HIV/AIDS, 
bệnh lao và sốt rét cộng lại). Hệ 
quả là bức tranh khoa học chung 
bị mất cân đối, nhiều nhà khoa 
học chuyên về các bệnh không 
lây bị mất việc làm vì không được 
tài trợ.
Để tồn tại trong thời dịch 
Covid-19, nhiều nhà khoa học 
phải chuyển hướng nghiên cứu. 
Do đó, chúng ta thấy các nhà khoa 
học xã hội, các chuyên gia khoa 
học máy tính và toán học, các kỹ 
sư, các chuyên gia về các bệnh 
không lây chuyển sang nghiên 
cứu về dịch tễ học và Covid-19, 
một lĩnh vực khoa học mà họ 
chưa từng được huấn luyện. Giới 
khoa học gọi đùa những người 
này là ‘trespasser’ (lấn sân). Tuy 
Thời gian phát triển vaccine ngắn kỷ lục là một trong những hiệu ứng tích cực của 
Covid hóa khoa học.
54
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
nhiên, những người “lấn sân” này 
lại có những cái nhìn mới, đem 
lại những phương pháp cách 
tân. Chẳng hạn như giới kỹ sư và 
khoa học máy tính giúp thực hiện 
những mô phỏng về dịch bệnh 
ở quy mô lớn mà trước đây giới 
dịch tễ học còn lúng túng. Các 
nhà khoa học xã hội giúp chúng 
ta hiểu hơn về tâm lý và phản 
ứng của bệnh nhân. Nhìn chung, 
các nhà khoa học “lấn sân” đã có 
những đóng góp tuyệt vời, làm 
phong phú hệ sinh thái khoa học 
Covid-19.
Covid hoá còn gây ảnh hưởng 
đến mô hình xuất bản khoa học. 
Chúng ta biết rằng trước đây (và 
cho đến nay), các bài báo nghiên 
cứu khoa học phải qua một quá 
trình bình duyệt, thường kéo dài 
từ 3 tháng đến 1 năm. Rõ ràng, 
thời gian bình duyệt như thế 
không thể nào chấp nhận được 
trong thời đại dịch xảy ra, vì nó 
làm cản trở các khám phá mới về 
chẩn đoán và điều trị cho bệnh 
nhân. Do đó, các tập san khoa 
học dành ưu tiên cho các công 
trình nghiên cứu về Covid-19, 
mà theo đó các bài báo liên quan 
đến Covid-19 có thể được công 
bố nhanh hơn và không qua bình 
duyệt chặt chẽ như trước đây. 
Lượng thông tin khoa học về 
Covid-19 vô cùng phong phú và 
nhanh chưa từng có trong lịch 
sử khoa học. Theo Science, nếu 
chỉ tính từ đầu tháng 1/2020 đến 
giữa tháng 5/2020, đã có 23.000 
bài báo khoa học liên quan đến 
Covid-19 được công bố, và cứ 
mỗi 20 ngày, con số này tăng 
gấp đôi [3]. Vẫn theo Science, 
chỉ trong tuần đầu tháng 5/2020, 
số bài báo khoa học liên quan 
đến Covid-19 lên đến 4.000 [3]. 
Giới y khoa trên thế giới chứng 
kiến nhiều bài báo liên quan 
đến Covid-19 được công bố trên 
những tập san có tầm ảnh hưởng 
cao như New England Journal of 
Medicine, Lancet, JAMA, BMJ có 
thể nói là từng phút.
Nhưng ngay cả các tập san 
khoa học truyền thống cũng 
không thể nào công bố tất cả 
nghiên cứu về Covid-19. Đa số 
(khoảng 70%) các nghiên cứu 
liên quan đến Covid-19 được 
công bố trên những thư khố 
khoa học* như BioRxiv, MedRxiv, 
ChemRxiv và ChinaXiv [4]. Thư 
khố BioRxiv cho biết, họ nhận 
bài báo về dịch Covid-19 đầu tiên 
vào ngày 19/1/2020, nhưng đến 
tháng 2/2020 thì con số lên đến 
281 bài và đến giữa tháng 4/2020 
đã là hơn 6.000. Đây là những 
nghiên cứu chưa qua bình duyệt, 
nhưng vì nhu cầu chống dịch, 
nên các tác giả sẵn sàng chia sẻ 
với cộng đồng khoa học thế giới. 
Như là một quy luật chung, số 
lượng nghiên cứu có tương quan 
nghịch với phẩm chất nghiên cứu. 
Giới nghiên cứu ước tính khoảng 
85% các nghiên cứu y khoa là 
phung phí, vì tác giả đặt câu hỏi 
nghiên cứu sai, vì thiết kế nghiên 
cứu không đúng, vì phân tích sai 
và diễn giải chủ quan [5]. Tính 
đến nay, đã có hơn 1.000 thử 
nghiệm lâm sàng được đăng ký 
với Thư viện quốc gia về y khoa 
của Hoa Kỳ. Nhưng theo một số 
tác giả, các nghiên cứu đó được 
thiết kế không đạt chuẩn hay cỡ 
mẫu quá nhỏ để có thể cung cấp 
thông tin hữu ích. Một ví dụ tiêu 
biểu là có đến 145 thử nghiệm về 
thuốc hydroxychloroquine, nhưng 
32 trong số này có cỡ mẫu dưới 
100 người, 10 nghiên cứu không 
có nhóm chứng và 12 nghiên cứu 
có mục tiêu so sánh nhưng lại 
không dùng mô hình ngẫu nhiên 
hoá [5].
Đến thời điểm 7/1/2021, thư khố khoa học BioRxiv, MedRxiv đã công bố 12.104 
bài báo liên quan đến Covid-19.
*Thư khố là một hình thức công bố do chuyên 
ngành vật lý khởi xướng hơn 30 năm trước, 
nhưng chỉ mới phổ biến trong chuyên ngành 
y sinh học thời gian gần đây. Theo mô thức 
này, tác giả chỉ đơn giản tải bản thảo bài báo 
(và có khi cả dữ liệu) lên một thư khố. Bản 
thảo có thể chưa hoàn chỉnh và cũng chưa 
qua bình duyệt. Mục tiêu của việc công bố 
kết quả trên các thư khố là tạo điều kiện để 
kết quả nghiên cứu đến với cộng đồng khoa 
học nhanh, để các nhà khoa học khác có 
thể bình luận trước khi bài báo được nộp cho 
một tập san có bình duyệt.
55
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Theo nhận định của Tập san 
BMJ, nhiều công trình và bài báo 
được công bố trên những tập 
san “chính thống” hàng đầu trên 
thế giới, nếu bình thường chỉ có 
thể công bố trên những tập san 
“dởm” [6]. Tình trạng bình duyệt 
không thấu đáo, vội vã công bố 
kết quả nghiên cứu dẫn đến hiện 
tượng bất tái lập trong nghiên 
cứu và một số bài báo khoa học 
phải bị rút xuống. Chẳng hạn 
như nghiên cứu về hiệu quả của 
steroids trong việc điều trị bệnh 
nhân Covid-19 công bố trên New 
England Journal of Medicine cho 
thấy dexamethasone giảm nguy 
cơ tử vong 17% (tỷ số nguy cơ 
0,83; khoảng tin cậy 95% dao 
động từ 0,75 đến 0,93) [7], nhưng 
chỉ 1 tháng sau, một thử nghiệm 
lâm sàng khác cho thấy thuốc 
không có hiệu quả giảm tử vong 
[8]. Một ví dụ tiêu biểu khác là 
nghiên cứu quan sát chỉ ra rằng, 
những người có nhóm máu O 
có nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 
thấp hơn 35% so với những người 
thuộc nhóm máu khác [9], nhưng 
một nghiên cứu sau đó cho thấy 
nhóm máu không có liên quan 
đến nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 
[10]. Những kết quả thiếu nhất 
quán như trên dẫn đến một số 
bài báo bị thu hồi, và số lượng 
càng ngày nhiều. Tính đến nay 
(23/12/2020), theo Retraction 
Watch, đã có 50 bài báo khoa 
học liên quan đến Covid-19 bị 
rút lại hay trong tình trạng “quan 
tâm” [11]. Đó là một con số kỷ 
lục trong một thời gian rất ngắn, 
và đặt ra nhiều câu hỏi về phẩm 
chất khoa học trong thời đại dịch 
Covid-19.
Tóm lại, đại dịch Covid-19 đặt 
ra rất nhiều vấn đề cho nghiên 
cứu khoa học và sự đáp ứng của 
cộng đồng khoa học quốc tế dẫn 
đến hiện tượng “Covid hoá” khoa 
học [12]. Covid hoá khoa học từ 
ngân sách tài trợ cho nghiên cứu, 
hợp tác nghiên cứu khoa học, 
đến công bố khoa học. Hàng vạn 
nhóm nghiên cứu và “tập đoàn 
khoa học” trên thế giới tập trung 
vào nghiên cứu về Covid-19. 
Ngay cả những labo không có 
kinh nghiệm về các bệnh truyền 
nhiễm cũng chuyển sang nghiên 
cứu Covid-19 với hy vọng đóng 
góp một phần vào việc chinh 
phục đại dịch. Thành quả của 
Covid hoá khoa học là những 
mô hình tiên lượng sự diễn biến 
của dịch, những khám phá quan 
trọng trong điều trị bệnh nhân và 
vaccine có hiệu quả cao trong 
việc phòng ngừa lây nhiễm. Tuy 
nhiên, Covid hoá khoa học cũng 
gây nên những hệ quả mất cân 
đối trong hệ sinh thái nghiên cứu 
khoa học, làm suy giảm phẩm 
chất nghiên cứu và thay đổi mô 
hình công bố khoa học ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] E.J. Anderson, N.G. Rouphael, 
A.T. Widge, L.A. Jackson, P.C. Roberts, 
M. Makhene, et al. (2020), “Safety and 
Immunogenicity of SARS-CoV-2 mRNA-
1273 Vaccine in Older Adults”, N. Engl. 
J. Med., 383(25), pp.2427-2438.
[2] M. Voysey, S.A.C. Clemens, S.A. 
Madhi, L.Y. Weckx, P.M. Folegatti, P.K. 
Aley, et al. (2020), “Safety and efficacy 
of the ChAdOx1 nCoV-19 vaccine 
(AZD1222) against SARS-CoV-2: an 
interim analysis of four randomised 
controlled trials in Brazil, South Africa, 
and the UK”, Lancet, DOI: https://doi.
org/10.1016/S0140-6736(20)32661-1.
[3] J. Brainard (2020), “Scientists are 
drowning in COVID-19 papers. Can new tools 
keep them afloat?”, Science, https://www.
sciencemag.org/news/2020/05/scientists-
are-drowning-covid-19-papers-can-new-
tools-keep-them-afloat#.
[4] D. Kwon (2020), “How swamped 
preprint servers are blocking bad 
coronavirus research”, Nature, 
581(7807), pp.130-131.
[5] P.P. Glasziou, S. Sanders, T. 
Hoffmann (2020), “Waste in covid-19 
research”, B.M.J., DOI: https://doi.
org/10.1136/bmj.m1847.
[6] R.J. Dinis-Oliveira (2020), 
“COVID-19 research: pandemic versus 
“paperdemic”, integrity, values and risks 
of the ‘speed science’”, Forensic. Sci. 
Res., DOI: https://doi.org/10.1080/2096
1790.2020.1767754.
[7] R.C. Group, P. Horby, W.S. 
Lim, J.R. Emberson, M. Mafham, J.L. 
Bell, et al. (2020), “Dexamethasone in 
Hospitalized Patients with Covid-19 - 
Preliminary Report”, N. Engl. J. Med., 
DOI: 10.1056/NEJMoa2021436.
[8] C.M.P. Jeronimo, M.E.L. Farias, 
F.F.A. Val, V.S. Sampaio, M.A.A. 
Alexandre, G.C. Melo, et al. (2020), 
“Methylprednisolone as adjunctive 
therapy for patients hospitalized with 
COVID-19 (Metcovid): A randomised, 
double-blind, phase IIb, Placebo-
Controlled Trial”, https://www.arca.
fiocruz.br/handle/icict/43042.
[9] D. Ellinghaus, F. Degenhardt, 
L. Bujanda, M. Buti, A. Albillos, P. 
Invernizzi, et, al. (2020), “Genomewide 
Association Study of Severe Covid-19 
with Respiratory Failure”, N. Engl. J. 
Med., 383, pp.1522-1534.
[10] C.A. Latz, C. DeCarlo, L. 
Boitano, C.Y.M. Png, R. Patell, M.F. 
Conrad, et al. (2020), “Blood type and 
outcomes in patients with COVID-19”, 
Ann Hematol, 99(9), pp.2113-2118.
[11] Retractionwatch.com/retracted-
coronavirus-covid-19-papers.
[12] https://naturemicrobiologycommunity.
nature.com/posts/65638-covidisation-
of-academic-research-opportunities-
and-risks.

File đính kèm:

  • pdfcovid_hoa_khoa_hoc.pdf