Công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay

Công tác pháp chế là một trong các quá trình tổ chức thực hiện để đưa pháp

luật vào cuộc sống. Việc áp dụng pháp luật của các cơ quan hoặc cán bộ viên

chức thực thi nhiệm vụ không chỉ là biết pháp luật cho làm gì mà còn phải

biết làm như thế nào cho đúng. Công tác pháp chế ở các cơ sở giáo dục đại

học có vai trò quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý,

đảm bảo cho các trường đại học thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế, tuân thủ

pháp luật. Đối với các trường đại học, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

55/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 quy định về công tác pháp chế

trong Nhà trường. Bài viết nêu và phân tích đánh giá tình hình thực hiện

công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời

gian gần đây và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác pháp chế

ở trường đại học trong thời gian tới.

pdf 7 trang phuongnguyen 5480
Bạn đang xem tài liệu "Công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay

Công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
86 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 59, Kỳ 2 (2018) 87-92 
Công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam 
hiện nay 
Dương Thị Tuyết Nhung *, Nguyễn Ngọc Dương, Nguyễn Thị Thắm, Vũ Hội Khánh 
Hà, Nguyễn Minh Thu 
Phòng Hành chính -Tổng hợp, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 
THÔNG TIN BÀI BÁO 
TÓM TẮT 
Quá trình: 
Nhận bài 15/01/2018 
Chấp nhận 20/3/2018 
Đăng online 27/4/2018 
 Công tác pháp chế là một trong các quá trình tổ chức thực hiện để đưa pháp 
luật vào cuộc sống. Việc áp dụng pháp luật của các cơ quan hoặc cán bộ viên 
chức thực thi nhiệm vụ không chỉ là biết pháp luật cho làm gì mà còn phải 
biết làm như thế nào cho đúng. Công tác pháp chế ở các cơ sở giáo dục đại 
học có vai trò quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, 
đảm bảo cho các trường đại học thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế, tuân thủ 
pháp luật. Đối với các trường đại học, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 
55/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 quy định về công tác pháp chế 
trong Nhà trường. Bài viết nêu và phân tích đánh giá tình hình thực hiện 
công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời 
gian gần đây và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác pháp chế 
ở trường đại học trong thời gian tới. 
© 2018 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. 
Từ khóa: 
Pháp chế 
Công tác pháp chế 
Giáo dục đại học 
1. Mở đầu 
Theo từ điển Tiếng Việt, “Pháp chế là hệ thống 
luật lệ của nhà nước nói chung hoặc hệ thống luật 
lệ áp dụng trong một ngành nghề nhất định”.Theo 
Từ điển Luật học, “pháp chế là toàn bộ pháp luật 
của một nhà nước, một thời kỳ của một nhà nước 
hay toàn bộ pháp luật về một lĩnh vực của đời 
sống” (Từ điển tiếng Việt, 2000). 
Theo TS. Đỗ Khánh Tặng, “Pháp chế là việc 
chấp hành pháp luật một cách đúng đắn và 
nghiêm chỉnh của tất cả các cơ quan nhà nước, các 
tổ chức xã hội, các nhà chức trách và của mọi công 
dân” (Tìm hiểu về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tạp 
chí Giáo dục lý luận, số 2/1985). 
Theo PGS.TS Nguyễn Minh Đoan “Pháp chế là 
sự hiện diện của một hệ thống Pháp luật hoàn 
thiện và sự tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện 
hành một cách chính xác , thường xuyên, thống 
nhất bởi nhà nước và xã hội, nhằm xây dựng một 
xã hội có trật tự kỷ cương, đảm bảo cho hoạt động 
của toàn xã hội thống nhất, đồng bộ, vì một xã hội 
công bằng, văn minh” (Nhà nước và Pháp luật - 
Những vẫn đề Lý luận thực tiễn, NXB Hồng Đức 
2013). 
Như vậy, có thể thấy rằng hiện đang tồn tại 
những quan điểm khác nhau về pháp chế. Đáng 
chú ý là có những quan niệm đã đồng nhất pháp 
chế với hệ thống pháp luật hay ngành luật hoặc với 
_____________________ 
*Tác giả liên hệ 
E-mail: duongthituyetnhung@humg.edu.vn 
THÔNG TIN KHOA HỌC 
 Dương Thị Tuyết Nhung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (2), 87-92 87 
trạng thái thực hiện pháp luật của các chủ thể. 
Theo chúng tôi, có pháp luật rồi mới có pháp chế - 
pháp luật là tiền đề của pháp chế nhưng pháp chế 
không đồng nhất với trạng thái tốt hay xấu của quá 
trình thực hiện pháp luật. Vì vậy, có thể hiểu pháp 
chế là sự yêu cầu, đòi hỏi mọi chủ thể của pháp luật 
(các cơ quan, công chức, viên chức nhà nước, các 
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân) 
phải thực hiện một cách bình đẳng, nghiêm minh 
và thống nhất pháp luật. 
Công tác pháp chế là một trong các quá trình 
tổ chức để đưa pháp luật vào cuộc sống. Muốn 
thực hiện pháp luật tốt, đặc biệt là việc áp dụng 
pháp luật của các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước 
thì điều quan trọng không chỉ là biết pháp luật cho 
làm gì mà còn phải biết làm như thế nào. Từ khâu 
đánh giá tình hình thực tiễn, lựa chọn quy phạm 
pháp luật phù hợp, ra văn bản áp dụng pháp luật, 
tổ chức thực hiện văn bản đều phải theo đúng 
trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy 
định. 
Công tác pháp chế ở các cơ sở giáo dục đại học 
là công tác đảm bảo việc tuân thủ và thực hiện đầy 
đủ các chính sách, quy định của pháp luật, quy chế 
của trường đại học trong tổ chức và hoạt động của 
trường, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực 
quản lý ở các trường đại học. 
Căn cứ Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 
04/7/2011 của Chính phủ quy định về chức năng, 
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ 
chức pháp chế và chức năng, nhiệm vụ của trường 
đại học được quy định tại Điều lệ trường Đại học 
ban hành theo quyết định số 70/2014/QĐ-TTg 
ngày 10/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ và 
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có thể 
xác định rằng nội dung chủ yếu của công tác pháp 
chế ở trường đại học gồm rà soát văn bản, thẩm 
định dự thảo văn bản, tư vấn pháp luật, phổ biến 
pháp luật. 
2. Cơ cấu tổ chức của bộ phận pháp chế trong 
các cơ sở giáo dục đại học 
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP không quy 
định cụ thể về tổ chức pháp chế đối với các cơ sở 
giáo dục đại học. Tuy nhiên, căn cứ Nghị định số 
32/2008/NĐ-CP ngày 19/3/2008 của Chính phủ 
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ 
cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo và dựa trên 
tình hình thực tế của các cơ sở giáo dục đại học 
được giao tự chủ thực hiện các nhiệm vụ tuyển 
sinh, đào tạo, cấp văn bằng.; đồng thời, nhằm 
tăng cường công tác pháp chế trong các cơ sở giáo 
dục đại học; đảm bảo cho các cơ sở giáo dục đại 
học thực hiện nhiệm vụ được giao theo đúng các 
quy định của pháp luật, được sự ủng hộ của Bộ Tư 
pháp, ngày 24/7/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo có 
công văn số 3878/BGDĐT-PC hướng dẫn tổ chức 
làm công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại 
học. Công văn nói trên, cùng với việc chỉ rõ tầm 
quan trọng, nội dung... của công tác pháp chế, đã 
chỉ rõ: “Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học quyết 
định thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí cán bộ 
chuyên trách làm công tác pháp chế. Đối với các 
trường đại học, cao đẳng thành viên của đại học 
quốc gia, đại học vùng có thể bố trí cán bộ chuyên 
trách hoặc cán bộ kiêm nhiệm làm công tác pháp 
chế”. 
Trên thực tế, đa số cơ sở giáo dục đại học đã 
bố trí cán bộ làm công tác pháp chế kiêm nhiệm 
hoặc chuyên trách; một số trường đã thành lập 
phòng pháp chế hoặc ban pháp chế. 
TT Tổ chức, bộ máy 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
1 
Có thành lập phòng/ban pháp 
chế 
45 20,2 
2 
Chỉ có cán bộ chuyên trách làm 
công tác pháp chế 
75 33,6 
3 
Chỉ có cán bộ kiêm nhiệm làm 
công tác pháp chế 
103 46,2 
Tổng số cơ sở giáo dục đại học 223 100 
Như vậy, việc thành lập phòng pháp chế và 
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác này tại các 
cơ sở giáo dục đại học hiện nay còn rất hạn chế so 
với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ pháp chế theo quy 
định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và Công 
văn số 3878/BGDĐT-PC. Đáng chú ý là mặc dù 
một số cơ sở đã ban hành quyết định thành lập 
phòng (ban) nhưng không thành lập được do 
không có biên chế hoặc khó khăn về cán bộ. Theo 
quy định, cán bộ làm công tác pháp chế phải có 
bằng cử nhân luật. Việc không thành lập phòng 
pháp chế hoặc không có cán bộ chuyên trách làm 
công tác pháp chế có tác động không nhỏ đến quá 
trình thực hiện các quy định của pháp luật trong 
mọi mặt hoạt động của nhà trường, khiến cho việc 
Bảng 1. Tình hình tổ chức pháp chế tại các cơ sở 
giáo dục đại học Việt Nam (Số liệu thống kê của 
Vụ Pháp chế Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2016). 
88 Dương Thị Tuyết Nhung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (2), 87-92 
tư vấn, góp ý và tham mưu ban hành văn bản chỉ 
đạo, điều hành, phổ biến giáo dục pháp luật, kiểm 
tra, xử lý, theo dõi tình hình thi hành pháp luật còn 
gặp nhiều khó khăn, không thể thực hiện đầy đủ 
theo quy định.... 
3. Tình hình thực hiện công tác pháp chế 
trong các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam 
giai đoạn 2011 -2016 
Trên cơ sở báo cáo Tổng kết tình hình thực 
hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 
04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, 
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ 
chức pháp chế; Tờ trình Dự thảo Nghị định sửa 
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55 và Đề 
án “Nâng cao hiệu quả hoạt động về công tác pháp 
chế tại các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam giai 
đoạn 2016-2020”, có thể rút ra những nhận xét cơ 
bản về công tác pháp chế trong các cơ sở giáo dục 
đại học Việt Nam hiện nay như sau: 
3.1. Về ưu điểm 
Thứ nhất, về công tác tư vấn với các bộ phận 
liên quan trong đảm bảo các quy định của luật giáo 
dục trong triển khai các hoạt động của nhà trường. 
Bộ phận pháp chế của các cơ sở giáo dục đại học 
đã tham gia chủ trì, phối hợp với các bộ phận liên 
quan tư vấn, giúp Hội đồng đại học, Hội đồng 
trường, Hội đồng quản trị và Giám đốc, Hiệu 
trưởng về những vấn đề pháp lý của đơn vị; bảo 
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà trường, đơn 
vị; của cán bộ, giảng viên, nhân viên, người học; 
giúp Hội đồng đại học, Hội đồng trường, Hội đồng 
quản trị, Giám đốc, Hiệu trưởng chuẩn bị ý kiến 
góp ý cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do 
các cơ quan, đơn vị gửi lấy ý kiến; kiến nghị với các 
cơ quan có thẩm quyền trong việc sửa đổi, bổ sung 
hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tham 
gia ý kiến về mặt pháp lý đối với văn bản do các 
đơn vị khác của cơ sở giáo dục đại học soạn thảo 
trước khi trình Hội đồng đại học, hội đồng trường, 
Hội đồng quản trị, Giám đốc, Hiệu trưởng ký ban 
hành. 
Thứ hai, về công tác phổ biến, tuyên truyền 
giáo dục pháp luật. Các cơ sở giáo dục đại học đã 
thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo 
dục pháp luật cho cán bộ viên chức và sinh viên 
thông qua việc lồng ghép các cuộc họp, tổ chức hội 
nghị như hội nghị cán bộ viên chức, học tập nghị 
quyết, hội chợ việc làm cho sinh viên trong toàn 
trường, tuyên truyền phổ biến thông qua các cuộc 
giao ban Đảng ủy, Ban Giám hiệu, lãnh đạo các đơn 
vị, các tổ chức đoàn thể; các buổi họp của Ban cán 
sự lớp, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên. Đoàn 
Thanh niên của các trường đại học, cao đẳng đã tổ 
chức các cuộc thi tiểu phẩm về phòng chống ma 
túy, Luật an toàn giao thông. Các trường đại học và 
cao đẳng cũng đã tổ chức hội nghị tập huấn tuyên 
truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, 
viên chức với các nội dung như: Quan điểm của 
Đảng và Nhà nước về công tác phòng chống tham 
nhũng; các quy định của Luật Phòng chống tham 
nhũng, những vấn đề cơ bản gắn với hoạt động 
chuyên môn, nghiệp vụ của nhà trường (Chỉ thị số 
10/CT-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2013 của Chính 
phủ về đưa nội dung phòng, chống tham nhũng 
vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo đại 
học); tuyên truyền, phổ biến Luật Viên chức năm 
2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành; phổ biến 
một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, đặc 
biệt các nội dung có liên quan đến giao kết, thực 
hiện hợp đồng dân sự, một số vụ việc cụ thể, đồng 
thời góp ý đối với dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa 
đổi); phổ biến các quy định của pháp luật về 
phòng, chống tham nhũng và Luật thực hành tiết 
kiệm chống lãng phí năm 2013; tổ chức các hoạt 
động hưởng ứng “Ngày pháp luật nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015”. Đồng thời, 
bộ phận pháp chế cũng phối hợp với các bộ phận 
chức năng có liên quan kiểm tra, giám sát việc thực 
hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý 
thức pháp luật trong phạm vi đơn vị. 
Thứ ba, về công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ 
thống hóa văn bản. Bộ phận pháp chế trong các cơ 
sở giáo dục đại học đã thực hiện quyết định của 
các Hiệu trưởng về việc rà soát, hệ thống hoá văn 
bản quản lý nội bộ, tiến hành rà soát văn bản quản 
lý nội bộ trong năm nhằm phát hiện các vi phạm 
trong việc thực hiện nội quy, quy chế, đồng thời có 
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; 
chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp Hội 
đồng đại học, Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, 
Giám đốc, Hiệu trưởng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra 
việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của 
Nhà nước; văn bản quản lý, chỉ đạo, điều hành của 
nhà trường và của đơn vị; kiến nghị các biện pháp 
phòng ngừa, khắc phục hậu quả và xử lý các vi 
phạm pháp luật, nội quy, quy chế trong hoạt động 
của nhà trường và đơn vị. Ngoài ra, tất cả các 
 Dương Thị Tuyết Nhung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (2), 87-92 89 
trường đại học đều thực hiện chế độ báo cáo tình 
hình thực hiện công tác pháp chế với cơ quan quản 
lý giáo dục và thủ trưởng đơn vị theo quy định. 
 Thứ tư, về công tác tham gia góp ý kiến và 
thẩm định dự thảo văn bản. Bộ phận pháp chế một 
số trường đại học đã tham mưu, tư vấn cho Hiệu 
trưởng những vấn đề pháp lý có liên quan đến tổ 
chức, quản lý và hoạt động của nhà trường, bảo 
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà trường, 
đơn vị, cán bộ, giảng viên, nhân viên và người học; 
tham gia góp ý các văn bản do các đơn vị, các cơ sở 
giáo dục đại học soạn thảo, đồng thời hướng dẫn 
và triển khai đến các đơn vị trong trường góp ý và 
tổng hợp ý kiến. Đối với các dự thảo văn bản quy 
phạm pháp luật do các cơ quan, đơn vị gửi lấy ý 
kiến, bộ phận pháp chế đã tham mưu để nhà 
trường xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể, triển 
khai đến các đơn vị trong trường góp ý, chỉnh sửa, 
bổ sung, tổng hợp trình cơ quan có thẩm quyền 
xem xét; tổ chức thẩm định văn bản quản lý nội bộ 
do các đơn vị gửi đến trước khi trình Hiệu trưởng 
ký ban hành. 
3.2. Về hạn chế và nguyên nhân của những hạn 
chế 
- Chưa có bộ phận pháp chế độc lập, hoạt động 
chưa đạt hiệu quả cao. Thực tế chỉ ra rằng công tác 
pháp chế tại các cơ sở giáo dục đại học mới được 
quan tâm hơn trong khoảng 5 năm gần đây nên 
vẫn còn khá nhiều trường chưa có tổ chức pháp 
chế riêng mà mới chỉ có cán bộ kiêm nhiệm công 
tác pháp chế. Chính vì vậy, trên bình diện chung, 
hoạt động pháp chế ở nhiều trường đại học còn 
chưa thực sự pháp huy hiệu quả. Kinh nghiệm ở 
một số trường đại học ở Hà Nội đã có tổ chức pháp 
chế cho thấy, hiệu quả công tác pháp chế đã được 
nâng lên đáng kể khi có một bộ phận chuyên biệt 
thực hiện công tác này. Bộ phận đó đã có vai trò 
đáng kể trong việc giúp cho trường đại học hoạt 
động đúng trong khuôn khổ pháp luật, tham mưu, 
tư vấn cho lãnh đạo nhà trường về những vấn đề 
pháp lý liên quan đến tổ chức, quản lý và hoạt 
động của nhà trường, bảo đảm quyền và lợi ích 
hợp pháp của nhà trường, đơn vị, cán bộ, giảng 
viên, nhân viên và người học; giúp lãnh đạo nhà 
trường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện 
các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản 
lý, chỉ đạo điều hành của nhà trường và đơn vị. 
Song, việc có bộ phận pháp chế riêng biệt không 
có nghĩa là hoạt động pháp chế đã tối đa hiệu quả. 
Hiệu quả hoạt động của công tác pháp chế còn phụ 
thuộc vào nhiều nhân tố như: sự lãnh đạo, chỉ đạo 
của các cấp ủy đảng, chính quyền trong các cơ sở 
giáo dục đại học đối với công tác pháp chế; năng 
lực, trình độ của cán bộ pháp chế; công tác phối 
hợp giữa các bộ phận liên quan trong thưc hiện 
các quy định của pháp luật trong hoạt động của các 
cơ sở giáo dục đại học v.v.. 
Từ năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có 
văn bản hướng dẫn tiêu chí đánh giá các cơ sở giáo 
dục đại học đối với phong trào thi đua thực hiện 
nhiệm vụ năm học, trong đó công tác pháp chế có 
05 tiêu chí/ 10 điểm đánh giá về phương thức tổ 
chức và từng mục hoạt động của bộ phận pháp chế 
trong trương đại học. Việc đánh giá hiệu quả công 
tác pháp chế qua chấm điểm các tiêu chí liên quan 
đến hoạt động pháp chế tại trường cho thấy, 
những trường đã có bộ phận pháp chế độc lập đạt 
điểm khá cao ở mức 8,5 - 9,5 điểm còn những 
trường mới có cán bộ pháp chế chuyên trách hoặc 
kiêm nhiệm có mức điểm thấp, chỉ đạt ở mức 6 - 7 
điểm. 
- Chưa hệ thống hóa được các văn bản của 
đơn vị; chưa hệ thống hóa được hết những văn 
bản quy phạm pháp luật cấp trên làm căn cứ pháp 
lý để rà soát, đánh giá tình hình thực tế của đơn vị 
nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các quy 
định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết 
hiệu lực hoặc không còn phù hợp; 
- Chưa đáp ứng được yêu cầu tham mưu cho 
lãnh đạo đơn vị về những vấn đề pháp lý; chưa 
đưa ra được những kiến nghị về các biện pháp 
phòng ngừa, khắc phục hậu quả và xử lý vi phạm 
pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế; 
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật 
chưa đạt kết quả cao; chưa thực hiện đồng bộ, triệt 
để tất cả các nội dung về công tác pháp chế theo 
quy định của Nhà nước v.v 
Những hạn chế trên đây bắt nguồn từ nhiều 
nguyên nhân khách quan và chủ quan. 
Về nguyên nhân khách quan: Do nội dung và 
hình thức của hệ thống văn bản pháp luật về giáo 
dục đại học hiện hành chưa ngang tầm với đòi hỏi 
của thực tiễn về số lượng và đặc biệt về chất lượng. 
Các văn bản ban hành còn thiếu toàn diện, chưa 
đầy đủ, đồng bộ, thậm chí chồng chéo, mâu thuẫn, 
nhiều lĩnh vực bức xúc của các hoạt động giáo dục 
vẫn chưa được điều chỉnh và chủ yếu được quy 
định bằng các văn bản dưới luật. Điều này ay dẫn 
đến tình trạng thiếu đồng bộ, thống nhất giữa các 
90 Dương Thị Tuyết Nhung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (2), 87-92 
văn bản; giá trị pháp lý cũng như hiệu lực điều 
chỉnh không cao thiếu tính ổn định của các văn 
bản. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp 
luật còn chậm chưa đồng bộ nên việc triển khai 
thực hiện gặp khó khăn. Các văn bản pháp luật liên 
quan đến công tác pháp chế còn nhiều hạn chế, bất 
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là các yêu 
cầu ngày càng cao của việc thực hiện quản lý nhà 
nước bằng pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ biến 
giáo dục pháp luật đã được quan tâm nhưng hiệu 
quả chưa cao; việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc 
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và văn 
bản quản lý, chỉ đạo điều hành của nhà trường 
chưa thường xuyên. Cơ chế chính sách cho cán bộ 
làm công tác pháp chế còn chưa thỏa đáng do đó 
chưa thu hút được nhân lực, kinh phí đảm bảo cho 
công tác pháp chế của nhiều trường đại học còn 
hạn hẹp. 
Nguyên nhân chủ quan: Do trình độ về pháp 
luật, pháp chế của cán bộ làm công tác pháp chế 
còn hạn chế (Bảng 2). Các kiến thức chuyên ngành 
khác về kinh tế, tài chính, ngân hàng và các chuyên 
ngành giáo dục cho công việc thì còn rất thiếu, đặc 
biệt là các kiến thức pháp luật về hội nhập quốc tế. 
Trong khi đó, nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa 
quan tâm đúng mức đến công tác pháp chế nên 
chưa tạo điều kiện để cán bộ làm công tác pháp 
chế được đào tạo sâu hơn về công tác này cũng 
như chưa bố trí thêm nhân lực thực hiện công tác 
pháp chế. Vì vậy, chất lượng công việc của cán bộ 
pháp chế tại trường chưa đáp ứng được yêu cầu 
đặt ra, đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế 
quốc tế. 
TT Tình hình đào tạo, bồi dưỡng 
Tỷ lệ 
Người % 
1 Đã được đào tạo, bồi dưỡng 121 47.3 
2 
Chưa 
được đào 
tạo, bồi 
dưỡng 
Có nhu cầu đào tạo, bồi 
dưỡng 
124 48.4 
Không có nhu cầu đào 
tạo, bồi dưỡng 
11 4.3 
 Tổng 256 100 
Số liệu nêu trên cho thấy, số cán bộ làm công 
tác pháp chế cần đào tạo, bồi dưỡng lại và chưa 
qua đào tạo, bồi dưỡng khá đông so với nhu cầu 
của thực tế. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng, kiến 
thức, kỹ năng công tác pháp chế là công việc cấp 
bách và rất cần thiết hiện nay, nhằm đáp ứng với 
yêu cầu công việc tại các cơ sở giáo dục đại học. 
4. Một số giải giải pháp chủ yếu nhằm nâng 
cao hiệu quả công tác pháp chế trong các cơ 
sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay 
4.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về công tác 
pháp chế trong các cơ sở giáo dục đại học 
Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm 
ban hành nghị định thay thế Nghị định số 
55/2011/NĐ-CP (Tờ trình Dự thảo sửa đổi Nghị 
định này đã được thực hiện từ năm 2015 đến nay 
vẫn chưa được hoàn thành); hoàn thiện hệ thống 
văn bản quy định về công tác pháp chế ngành giáo 
dục; tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trực tiếp 
triển khai thực hiện nhiệm vụ, nâng cao chất 
lượng hoạt động công tác pháp chế và đưa hoạt 
động công tác pháp chế cơ sở giáo dục đại học vào 
nề nếp; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm 
pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các trường 
đại học, cao đẳng theo hướng quy định cụ thể, đảm 
bảo tính khả thi, quy định rõ trách nhiệm, quyền 
của từng chủ thể. Đảm bảo khi văn bản được ban 
hành là có thể thực hiện được ngay; thường xuyên 
tổ chức, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm 
pháp luật để qua đó phát hiện những văn bản quy 
phạm pháp luật đã hết hiệu lực cần thay thế, sửa 
đổi. 
4.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao năng 
lực cán bộ làm công tác pháp chế 
Trước hết, để công tác pháp chế đạt hiệu quả 
tốt các trường đại học cần phải có tổ chức cấp 
phòng làm công tác pháp chế chuyên nghiệp 
tương xứng với vị trí, vai trò của công tác này. Việc 
chỉ có một cán bộ kiêm nhiệm hoặc cán bộ chuyên 
trách về công tác pháp chế như hiện nay ở nhiều 
trường đại học khó có thể giúp cho hoạt động 
pháp chế được chuyên nghiệp và hiệu quả. Phòng 
Pháp chế cần có Trưởng phòng, Phó Trưởng 
phòng và một số chuyên viên, nhân viên kiêm 
nhiệm, cộng tác viên. Nhiệm kỳ của Trưởng 
phòng, Phó Trưởng phòng Pháp chế có thể theo 
nhiệm kỳ của Hiệu trưởng. Việc bổ nhiệm, miễn 
nhiệm cán bộ lãnh đạo phòng Pháp chế thực hiện 
theo quy định chung; có thể là cán bộ chuyên trách 
hoặc kiêm nhiệm. Cán bộ Phòng pháp chế cần
Bảng 2: Tình hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp 
chế ở các cơ sở giáo dục đại học (Số liệu thống kê 
của Vụ Pháp chế Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2016). 
 Dương Thị Tuyết Nhung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (2), 87-92 91 
 được tuyển chọn từ những người có phẩm chất 
đạo đức tốt, chuyên viên làm công tác pháp chế 
phải có bằng cử nhân luật hoặc phải được bồi 
dưỡng kiến thức pháp lý. 
4.3. Hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa 
đơn vị làm công tác pháp chế với các đơn vị 
khác 
Công tác pháp chế gắn liền với công tác kiểm 
tra, giám sát hoạt động của tất cả các đơn vị và cá 
nhân vì vậy để công tác này đạt hiệu quả cao, các 
trường đại học cần xây dựng cơ chế hoạt động 
phối hợp chặt chẽ giữa phòng và các đơn vị hữu 
quan trong trường. Các đơn vị, tổ chức, cá nhân 
trong trường có trách nhiệm phối hợp, hợp tác với 
đơn vị làm công tácpháp chế, thực hiện các yêu 
cầu, quy định về công tác pháp chế, tạo điều kiện 
thuận lợi cho đơn vị chuyên trách pháp chế làm 
nhiệm vụ. 
4.4. Tăng cường công tác tuyên truyền và phổ 
biến, giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo 
dục đại học 
Công tác tuyên truyền của các cơ sở giáo dục 
đại học hiện đều đã được thực hiện nhưng còn 
chưa đạt hiệu quả cao, nhiều nơi còn làm mang 
tính hình thức. Để hoạt động thực sự có hiệu quả, 
các trường cần nâng cao hơn nữa tinh thần và 
trách nhiệm của bộ phận pháp chế nói riêng và các 
phòng ban, bộ phận khác nói chung của trường đối 
với công tác này. Cần quán trie ̣ t kịp thời các Nghị 
quyét, va n bản chỉ đạo của Đảng lie n quan đến 
công tác giáo dục, đào tạo trong trường đại học. 
Tiếp tục triển khai, tuyên truyền phổ biến Hiến 
pháp năm 2013, Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị 
quyết 77-NQ/CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt 
động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập 
giai đoạn 2014-2017, Quyết định số 2653/QĐ-
BGDĐT, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật 
Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Điều 
lệ trường đại học, Điều lệ trường cao đẳng các văn 
bản chỉ đạo về đổi mới quản lý giáo dục đại học, 
các văn bản pháp luật mới về giáo dục, các chế độ 
chính sách mới có liên quan và các quy định, quy 
chế của từng trường đại học, các nội quy, quy định 
của đơn vị cho cán bộ, viên chức, giảng viên, người 
lao động, người học v.v 
4.5. Xây dựng chiến lược cho công tác pháp chế 
trong giai đoạn 5 năm và kế hoạch thực hiện 
công tác pháp chế của từng năm học 
Bộ phận pháp chế độc lập của các cơ sở giáo 
dục đại học cần xây dựng chiến lược cho công tác 
pháp chế trong giai đoạn 5 năm và kế hoạch thực 
hiện công tác pháp chế của từng năm học để có thể 
chủ động trong công tác và các hoạt động liên 
quan đến pháp chế được thực hiện theo hướng 
chuyên nghiệp, chính xác. 
Nói tóm lại, tăng cường công tác pháp chế 
trong quản lý giáo dục là tiền đề, là cơ sở cho việc 
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của các cơ 
sở giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay và mai 
sau. Công tác pháp chế trong cơ sở giáo dục đại 
học có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với hoạt 
động quản lý của nhà trường, giúp cho nhà trường 
tuân thủ pháp luật trong hoạt động góp phần thực 
hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các trường đại 
học, cao đẳng một khi đã xây dựng được đơn vị, 
đội ngũ cán bộ pháp chế vững mạnh thì vị thế của 
nhà trường được nâng lên, nhất là trong những 
cuộc đàm phán với đối tác, đặc biệt là với đối tác 
nước ngoài. Điều này còn khẳng định "tầm" là một 
đơn vị sự nghiệp minh bạch, chất lượng, luôn tuân 
thủ pháp luật và rất đáng tin cậy bởi các hồ sơ tài 
liệu, những rủ i ro pháp lý đã được lường trước, 
giảm bớt và có thể được loại bỏ bởi sự thẩm định 
của cán bộ pháp chế. 
Tài liệu tham khảo 
Cẩm Tú, 2016. Công tác pháp chế. Bài toán khó cần 
tháo gỡ,  
hoat-dong-cua-tu-phap-dia-phuong.aspx? 
ItemID=6781. 
Chỉ thị số 10/CT-TTg, 2013. Đưa nội dung giảng 
dạy về phòng chống tham nhũng vào giảng dạy 
tại các cơ sở giáo dục đào tạo đại học. Chính 
phủ. 
Công văn số 3878/BGDĐT - PC ngày 24/7/2014 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn tổ chức 
làm công tác pháp chế trong cơ sở giáo dục đại 
học, 2014. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
Điều lệ Trường Đại học ban hành kèm theo Quyết 
định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 
của Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ 2014. 
Đỗ Khánh Tặng, 1985. Tìm hiểu về pháp chế xã hội 
chủ nghĩa. Tạp chí Giáo dục lý luận 2. 
92 Dương Thị Tuyết Nhung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 59 (2), 87-92 
Hiến pháp 2013, Luật Giáo dục đại học, Luật giáo 
dục nghề nghiệp. Quốc hội. 
Lê Văn, 2016. 8 Đại học Việt Nam lọt top 100 
trường đại học Đông Nam Á, 
/8-dh-viet-nam-lot-top-100-truong-dh-dong-
nam-a-318485.html. 
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2004. Học 
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất 
bản Lý luận chính trị, Hà Nội. 
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, 2011. Chính phủ. 
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, 2011. Chức năng, 
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ 
chức pháp chế. Chính phủ. 
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, 2011. Chức năng, 
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ 
chức pháp chế. Chính phủ. 
Nghị quyết 29-NQ/TW, 2013. Ban chấp hành 
Trung ương. 
Nghị quyết 77-NQ/CP, 2014. Thí điểm đổi mới cơ 
chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học 
công lập. Chính phủ. 
Nguyễn Minh Đoan, 2013. Nhà nước và Pháp luật 
- Những vấn đề Lý luận thực tiễn, Nhà xuất bản 
Hồng Đức. 
Quyết định số 2653 về việc triển khai nghị quyết 
số 29-NQ/CP, 2014. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
Quyết định số 798/QĐ - BGD&ĐT, 2014. Phê 
duyệt đề án: Nâng cao năng lực cán bộ làm 
công tác pháp chế ngành giáo dục giai đoạn 
2014-2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2014. 
Từ điển Luật học, 1999. Nhà xuất bản Bách khoa, 
Hà Nội. 
Từ điển tiếng Việt, 2000. Nhà xuất bản Đà Nẵng.
ABSTRACT 
Legal work in higher education institutions in Vietnam 
Nhung Tuyet Thi Dương, Duong Ngoc Nguyen, Tham Thi Nguyen, Ha Khanh Hoi Vu, Thu 
Minh Nguyen 
Administrative-General Department, University of Mining and Geology, Vietnam 
Legal mission is one of the organizational processes undertaken to bring the law into life. The 
application of the law by agencies or officials who perform the task is not only knowing what the law 
allows to do but also how to do it properly. Legal work at higher education institutions plays an important 
role in improving the effectiveness of management activities, ensuring implementation of legality and 
law. The government has issued Decree No. 55/2011 / ND-CP dated July 4, 2011 regulating the legal work 
in education institutions. This paper reviews current status of legal work and proposes some solutions to 
improve the effectiveness of legal work in higher education institutions in Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfcong_tac_phap_che_trong_cac_co_so_giao_duc_dai_hoc_o_viet_na.pdf