Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định viện kiểm sát nhân dân trong hiến pháp Việt Nam

Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp lần đầu tiên quy định về chế

định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), và từ đó đến nay, qua các Hiến pháp

1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013, chế định

này tiếp tục được ghi nhận và là cơ sở cho sự tồn tại của hệ thống cơ quan

VKSND trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ

của mình, VKSND thể hiện là thiết chế quan trọng trong thực hiện quyền lực

nhà nước. Do đó, việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đối với sự ra đời, tồn

tại và phát triển của chế định VKSND trong Hiến pháp Việt Nam là điều rất

cần thiết và có nhiều ý nghĩa.

pdf 6 trang phuongnguyen 1240
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định viện kiểm sát nhân dân trong hiến pháp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định viện kiểm sát nhân dân trong hiến pháp Việt Nam

Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định viện kiểm sát nhân dân trong hiến pháp Việt Nam
55Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
1. Cơ sở lý luận của chế định Viện 
kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp 
Việt Nam
Viện kiểm sát (VKS) ra đời đầu 
tiên ở Liên Xô vào năm 1922. Trước đó 
ở Nga là sự tồn tại của mô hình Viện 
công tố (VCT) xuất hiện từ khoảng 3 
thế kỷ trước bởi Pier Đệ nhất. VCT thời 
Nga hoàng ra đời sau và chịu nhiều ảnh 
hưởng của mô hình VCT Pháp, được 
Pier Đệ nhất tham khảo của VCT Pháp 
nhưng không sao chép y nguyên bởi 
“trọng tâm hoạt động của VCT của Pháp 
là tham gia trong TTHS buộc tội nhân 
danh nhà nước. Còn trọng tâm hoạt động 
của VCT Nga là giám sát tuân theo pháp 
luật“(1).
Năm 1917, Nhà nước Liên bang Xô – 
Viết ra đời, đến năm 1922 VKS Liên Xô được 
thành lập và đây là “mô hình VKS được Lênin 
tiếp thu và phát triển từ mô hình VCT của Pier 
Đệ nhất năm 1772 khi mở rộng phạm vi hoạt 
động kiểm sát tuân theo pháp luật và coi hoạt 
động này như là thuộc tính – chức năng nhà 
nước của VKS“(2). Như vậy, nói đến mô hình 
* Thạc sĩ, Phó trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật, 
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
1  Nguyễn Thái Phúc (2007), “Viện kiểm sát hay Viện 
công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật, (số 2), Tr2
2  Nguyễn Thái Phúc (2007), “Viện kiểm sát hay Viện 
công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật, (số 2), Tr4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH 
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
NGÔ HÙNG THÁI * 
Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp lần đầu tiên quy định về chế 
định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), và từ đó đến nay, qua các Hiến pháp 
1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013, chế định 
này tiếp tục được ghi nhận và là cơ sở cho sự tồn tại của hệ thống cơ quan 
VKSND trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ 
của mình, VKSND thể hiện là thiết chế quan trọng trong thực hiện quyền lực 
nhà nước. Do đó, việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đối với sự ra đời, tồn 
tại và phát triển của chế định VKSND trong Hiến pháp Việt Nam là điều rất 
cần thiết và có nhiều ý nghĩa. 
Từ khoá: Cơ sở, chế định Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp.
The Constitution of 1959 is the very first one that prescribes the institution 
of People’s Procuracies, since then, after several Constitutions in 1980, 1992 
(amended, supplemented in 2001) and 2013, the institution has continued to 
be recognized and been the basis for the existence of the system of People’s 
Procuracy agencies in the state apparatus of Viet Nam. With its position, 
function and tasks, the People’s Procuracies always prove themselves as one 
of the most important institutions in the exercise of the state power. As the 
result, it’s crucial and significant to clarify the theoretical and practical basis 
of the rationale, existence and development of the institution in the Viet 
Namese Constitution.
Keywords: Basis, People’s Procuracies institution, Constitution.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
56 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
VKS thì đầu tiên phải nói đến Lênin – người 
đặt nền móng cho mô hình VKS ở Liên Xô, 
người sáng lập ra nhà nước kiểu mới, tìm 
kiếm mô hình cơ quan thay thế cho mô hình 
Viện công tố của Nga hoàng. Với tư cách 
là người đứng đầu Nhà nước Xô viết của 
những năm đầu cách mạng, Lênin đã thấy 
được vai trò to lớn của pháp luật và pháp 
chế. Trong điều kiện khi đất nước chuyển 
sang xây dựng hòa bình và thực hiện chính 
sách kinh tế mới thì vấn đề tuân thủ pháp 
luật của nhà nước, vấn đề pháp chế được 
đặt ra một cách cấp bách bởi nguồn gốc của 
vi phạm pháp chế thống nhất, theo Lênin, 
đó là chủ nghĩa cục bộ địa phương, bản vị. 
Quan điểm của Lênin về pháp chế thống 
nhất đã đặt ra vấn đề phải thành lập VKS ở 
các nước XHCN. Việc thành lập VKSND ở 
nước ta là sự áp dụng tư tưởng của V.I.Lênin 
được trình bày trong tác phẩm "Bàn về chế độ 
trực thuộc song trùng và pháp chế ". Trong tác 
phẩm này, Lênin đã chỉ ra trở ngại lớn nhất 
trong việc xây dựng chế độ pháp trị là sự can 
thiệp của địa phương. Theo ông, pháp chế 
phải thống nhất và để đấu tranh một cách 
hiệu quả với chủ nghĩa cục bộ địa phương 
thì VKS phải được thành lập, và khi thành 
lập VKS thì sẽ giao cho cơ quan này thực 
hiện một công việc là: “Bảo đảm cho pháp chế 
được hiểu biết thống nhất và thông suốt trong 
toàn nước cộng hòa, bất kể những đặc điểm của 
dịa phương và sự can thiệp của nhà chức trách 
địa phương“(1). Theo Lênin, vấn đề pháp chế 
phải thống nhất thì mới tiến hành thành 
công cách mạng XHCN, bảo vệ và củng cố 
được chính quyền cách mạng, đồng thời cơ 
sở nền tảng cho tổ chức và hoạt động của 
VKS cũng chính là luận điểm này. Mô hình 
VKS của Lênin có những đặc điểm: 
1  V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập II, Nxb Tiến Bộ, 
Mátxcơva, tr709
+ Hoạt động kiểm sát tuân theo pháp 
luật là chức năng Hiến định của VKS. Nhờ 
vậy VKS có khả năng tác động và liên kết 
hoạt động của cả bộ máy nhà nước. VKS 
được xem như là bảo đảm quan trọng của 
pháp chế thống nhất; 
+ Hoạt động của VKS là một dạng 
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước 
độc lập, được tổ chức và hoạt động theo 
những nguyên tắc đặc thù cho phép nó 
thực hiện chức năng kiểm sát hiệu quả. 
+ VKS không can thiệp trực tiếp vào 
hoạt động chức năng của cơ quan, tổ chức 
mà nó kiểm sát tuân theo pháp luật - đây 
là sự khác biệt với các hoạt động giám sát, 
kiểm tra, thanh tra khác bởi VKS khi phát 
hiện vi phạm pháp luật thì không trực tiếp 
loại trừ vi phạm đó mà chỉ đưa vụ việc 
đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Ngoài ra, khi xây dựng mô hình VKS 
ở Liên Xô, Lênin luôn hướng tới vấn đề 
đảm bảo tính độc lập của VKS để đạt được 
hiệu quả cao nhất trong hoạt động, do đó 
ông đặc biệt chú ý tới những nguyên tắc 
tổ chức mang tính đặc thù của VKS như 
nguyên tắc độc lập, tập trung, thống nhất, 
không song trùng trực thuộc, qua đó để 
VKS ở Liên Xô có khả năng chống lại 
những ảnh hưởng của địa phương và của 
các chủ thể khác trong xã hội.
 Như vậy, có thể nói rằng những 
quan điểm và tư tưởng của Lênin về VKS 
mà được ông trình bày trong tác phẩm 
“Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp 
chế“ chính là “cơ sở lý luận cơ bản cho việc 
xây dựng hệ thống Viện kiểm sát ở các nước 
xã hội chủ nghĩa (trước đây) và ở nước ta từ 
năm 1960“ (2).
2  Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện Kiểm 
sát/Công tố Việt Nam và một số nước trên thế giới”, 
Tạp chí Thông tin khoa học kiểm sát, (số 1+2), Tr46
NGÔ HÙNG THÁI
57Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
2. Cơ sở thực tiễn của chế định 
Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến 
pháp Việt Nam
Thứ nhất, Việc quy định chế định 
VKSND trong các bản Hiến pháp xuất 
phát từ yêu cầu bảo đảm pháp luật XHCN 
được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất 
và từ thực tiễn cách mạng Việt Nam 
 Mô hình công tố đã tồn tại ở nước 
ta từ trước Cách mạng tháng Tám năm 
1945, sau đó tiếp tục tồn tại ở giai đoạn 
đầu trong nhà nước Việt Nam dân chủ 
công hòa. Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, 
năm 1958 Viện công tố Trung ương được 
thành lập trên cơ sở tách các Công tố viên 
ra khỏi Tòa án - bước khởi đầu hình thành 
hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, hoạt 
động chủ yếu là công tố trước Tòa án và 
đã bao hàm một số yếu tố của hoạt động 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đó là 
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm 
sát giam giữ cải tạo. 
Sau đó gần hai năm, mô hình Viện 
công tố chấm dứt tồn tại. Giai đoạn năm 
1959-1960, cách mạng nước ta bước vào 
giai đoạn phát triển mới, điều đó đòi hỏi 
pháp luật phải được chấp hành nghiêm 
chỉnh, thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về 
mục đích và hành động trong nhân dân, 
giữa nhân dân và nhà nước cũng như 
giữa các ngành với nhau, vì thế cần thiết 
phải tổ chức ra VKSND để cơ quan này 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm 
giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho 
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh 
và thống nhất. Sự ra đời của mô hình VKS 
thay thế cho mô hình Viện công tố ở Việt 
Nam gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ 
cách mạng trong hoàn cảnh xây dựng nhà 
nước kiểu mới. Đồng thời có thể thấy, yêu 
cầu này còn có tính khách quan khi ta 
nhìn về đặc điểm lịch sử của nền kinh tế 
ở Việt Nam lúc đó: lạc hậu, chủ yếu là sản 
xuất nhỏ. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng 
nặng nề của hàng nghìn năm phong kiến, 
và ảnh hưởng của Nho giáo, trong xã hội 
phong kiến Việt Nam thường xảy ra tình 
trạng luật pháp của nhà nước trung ương 
bị đặt dưới hương ước làng xã, thực trạng 
đó hình dần thành thói quen không đề 
cao luật pháp của nhà nước, tùy tiện trong 
chấp hành pháp luật. Do đó, “việc thành 
lập Viện kiểm sát nhân dân thay cho Viện công 
tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc 
chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta, giai 
đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân 
chủ nhân dân ở Miền Nam, vừa tiến hành 
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc. 
Cách mạng đã chuyển giai đoạn thì tất yếu 
bộ máy nhà nức cũng phải có những thay đổi 
phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới“(1).
Năm 1959, Hiến pháp mới được ban 
hành – đây là bản Hiến pháp lần đầu tiên 
ghi nhận sự ra đời của một chế định mới, 
một cơ quan nhà nước mới đó là chế định/
hệ thống cơ quan VKSND. Từ những phân 
tích trên cho thấy, việc lựa chọn mô hình 
VKSND ở nước ta là hoàn toàn trên cơ sở 
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của 
chúng ta. Thực tiễn đã chứng minh, chỉ có 
VKS mới có khả năng thực hiện chức năng 
bảo đảm pháp chế thống nhất, bảo đảm 
tuân thủ pháp luật trong phạm vi cả nước.
Từ đó cho đến Hiến pháp 1980, Hiến 
pháp 1992/2001 và Hiến pháp 2013, các 
bản Hiến pháp này dù có những thay đổi 
nhất định về VKSND, nhưng chế định 
VKSND vẫn được khẳng định là chế định/
là cơ quan có vai trò quan trọng trong việc 
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành 
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thứ hai, chế định VKSND là thể chế 
quan trọng của Quốc hội để thực hiện hiệu 
quả hoạt động giám sát tuân thủ Hiến 
pháp và pháp luật.
1  Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện Kiểm 
sát/Công tố Việt Nam và một số nước trên thế giới”, 
Thông tin khoa học kiểm sát, (số 1+2), Tr45
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
58 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
Là một trong những chức năng quan 
trọng của mình - chức năng giám sát của 
Quốc hội là chức năng Hiến định, đây 
là hoạt động giám sát ở tầm vĩ mô. Xuất 
phát từ vấn đề tổ chức và hoạt động của 
bộ máy nhà nước ta – quyền lực là thống 
nhất; tập quyền XHCN, chế định VKSND 
được thiết kế để giúp Quốc hội thực hiện 
chức năng giám sát của mình – đây là hoạt 
động giám sát ở tầm vi mô thông qua chức 
năng của VKS, “là một hình thức thực hiện 
quyền lực nhà nước được Quốc hội – cơ quan 
quyền lực nhà nước cao nhất giao cho Viện 
kiểm sát nhân dân”(1).
Bằng những quy định trong Hiến 
pháp, qua thực tiễn hoạt động của mình, 
có thể khẳng định, VKSND theo mô hình 
Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 là thiết 
chế quan trọng nhằm thực hiện có hiệu 
quả hoạt động giám sát tuân thủ Hiến 
pháp và pháp luật của Quốc hội bởi “mỗi 
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước đều 
có xu hướng lạm dụng. Để các hoạt động đó 
có hiệu quả cao, tránh lạm quyền thì yêu cầu 
đặt ra phải có sự kiểm tra, giám sát thường 
xuyên của một cơ quan nào đó”(2); đồng thời 
ở phương diện khác, thông qua chức 
năng giao cho VKS, Quốc hội sẽ thường 
kỳ nhận được thông tin một cách đầy đủ 
nhất, toàn diện nhất về tình hình pháp 
chế trong cả nước, qua đó Quốc hội có thể 
thông qua VKSND để có những giải pháp 
nhằm tăng cường pháp chế trong một lĩnh 
vực cụ thể nào đó vì thông qua hoạt động 
kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND, 
Quốc hội có thể thấy những hạn chế trong 
hoạt động lập pháp của mình. 
 Thứ ba, chế định VKSND là thể chế để 
đảm bảo nguyên tắc thượng tôn pháp luật 
1  Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình công tác 
kiểm sát, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, Tr5
2  Đỗ Văn Đương (Chủ nhiệm) (2011), Cơ sở lý luận và 
thực tiễn của việc sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân 
dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học 
cấp Bộ, Hà Nội, Tr32
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp 
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phù 
hợp với định hướng xây dựng nền kinh tế 
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 
hiện nay.
 Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước 
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, 
Nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực thuộc 
về nhân dân “với các đặc trưng cơ bản là 
thượng tôn pháp luật, bảo đảm công lý và tôn 
trọng quyền con người”(3), quyền lực nhà 
nước là thống nhất có sự phân công, phối 
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong 
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành 
pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của 
bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập 
trung dân chủ, có sự phân công, phân 
cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống 
nhất của Trung ương, thì nhiệm vụ tăng 
cường pháp chế là một trong những giải 
pháp quan trọng, điều đó đòi hỏi khách 
quan hệ thống cơ quan tư pháp và các cơ 
quan thực hiện chức năng tư pháp phải 
mở rộng và tăng cường hoạt động kiểm 
tra, kiểm soát xã hội, do vậy sự tồn tại 
của chế định VKSND trong Hiến pháp là 
điều hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, trong 
điều kiện kinh tế thị trường, chúng ta gặp 
phải những mặt trái không tránh khỏi 
đó là biểu hiện của chủ nghĩa cục bộ địa 
phương, bản vị, thoát ly pháp luật của Nhà 
nước, nạn tham nhũng Để khắc phục 
thực trạng này, phải có cơ chế giám sát 
việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động 
của các chủ thể, kịp thời phát hiện hành 
vi vi phạm pháp luật để yêu cầu cơ quan 
có thẩm quyền giải quyết, bảo đảm tính 
thống nhất của pháp chế, tính thượng tôn 
pháp luật - và giải pháp tốt nhất để thực 
hiện điều đó chính là mô hình VKSND. 
Thứ tư, sự tồn tại của chế định VKSND 
3  Nguyễn Đức Bình (2014), “Quyền tư pháp và thực 
hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí 
Tòa án nhân dân, (số 05), Tr4
NGÔ HÙNG THÁI
59Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền con 
người, quyền công dân ở Việt Nam.
Quyền con người, quyền công dân là 
vấn đề mà Nhà nước Việt Nam luôn đề 
cao, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi 
chúng ta đang thực hiện xây dựng Nhà 
nước pháp quyền XHCN với “yêu cầu vừa 
xây dựng, hoàn thiện các thiết chế kiểm soát 
quyền lực nhà nước đang là một vấn đề vừa cơ 
bản, vừa cấp bách... Khi mặc nhiên thừa nhận 
quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, 
của nhân dân thì tất yếu quyền lực nhà nước 
phải bị nhân dân kiểm soát”(1).
Hoạt động kiểm sát tuân theo pháp 
luật trong hoạt động tư pháp của VKSND 
là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho các 
quyền, tự do của công dân được tuân thủ 
và thực thi. Cương lĩnh xây dựng đất nước 
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 
2011 - 2020 đã khẳng định yêu cầu phải bảo 
đảm quyền con người, quyền công dân và 
các điều kiện để mọi người được phát triển 
toàn diện. Bên cạnh đó, một trong những 
mục tiêu cải cách tư pháp được ghi nhận 
trong Nghị quyết 49 là: “Các cơ quan tư pháp 
phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc 
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời 
là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp 
chế XHCN, đấu tranh hiệu quả với các loại tội 
phạm và vi phạm”. Trước những nhiệm vụ 
của Nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực 
bảo đảm quyền con người như vậy thì yêu 
cầu cho sự tồn tại và tiếp tục phát triển của 
chế định VKSND trong Hiến pháp là cần 
thiết và khách quan.
 Thứ năm, chế định VKSND – một 
trong những thiết chế nhằm kiểm soát 
quyền lực nhà nước.
1  Nguyễn Quang Anh (2014), “Một số giải pháp hoàn 
thiện thể chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước 
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí kiểm sát, (số 20), Tr9
Việc hiến định hóa chế định VKSND 
trong Hiến pháp là sự kế thừa truyền 
thống, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động 
của cơ quan công tố/VKSND trong hơn 70 
năm qua trong vấn đề kiểm soát quyền lực 
nhà nước, đồng thời đó là sự tiếp thu một 
cách có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và 
hoạt động của VCT/VKS của các nước trên 
thế giới. Trong số “các cơ chế kiểm tra, giám 
sát quyền lực nhà nước ở nước ta Viện kiểm sát 
nhân dân có một vai trò và vị trí mà các thiết 
chế khác không thay thế được”(2). Đồng thời, 
với điều kiện cụ thể ở Việt Nam, từ đặc 
điểm cấu trúc quyền lực nhà nước ta, “rất 
cần một thiết chế giám sát quyền lực độc lập, có 
tính chuyên nghiệp cao để giúp Quốc hội thực 
hiện chức năng giám sát ở những tầng thấp 
hơn Quốc hội trong việc giám sát hoạt động của 
các cơ quan hành pháp và tư pháp” (3).
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng 
ta tiến hành xây dựng Nhà nước pháp 
quyền XHCN - Với bước phát triển trong 
nhận thức của Đảng ta tiếp thu những hạt 
nhân hợp lý của thuyết phân quyền, trong 
điều kiện không có đối trọng và kiềm chế 
lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực nhà 
nước thì quyền giám sát tối cao của Quốc 
hội đối với toàn bộ hoạt động nhà nước 
là cách thức kiểm soát quyền lực chủ yếu 
ở Việt Nam, vì thế đẩy mạnh xây dựng 
Nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực 
của Nhà nước trước hết phải là hoàn thiện 
cách thức, cơ chế giám sát quyền lực nhà 
nước, kiện toàn các cơ quan và các thiết 
chế giám sát mà trong đó có VKSND. 
Cần phải thấy rằng, VKSND không 
chỉ chịu sự giám sát tối cao của Quốc 
2  Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2010), Bàn về chức năng 
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và chức năng 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát ở nước 
ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Tr23
3  Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2010), Bàn về chức năng 
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và chức năng 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát ở nước 
ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Tr23
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
60 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
hội, mà ở khía cạnh ngược lại, cơ quan 
này còn có vai trò nhất định trong phản 
biện quyền lực của Quốc hội thông qua 
những ý kiến phản hồi về tính thiếu khả 
thi, chồng chéo không thống nhất của 
hệ thống pháp luật, những hạn chế của 
các đạo luật do Quốc hội ban hành. Đây 
chính là quan hệ biện chứng về kiểm 
soát quyền lực trong điều kiện cụ thể 
của nước ta. Vì vậy, trong định hướng 
hoàn thiện phương thức giám sát quyền 
lực nhà nước thông qua giám sát tối cao 
của Quốc hội thì giải pháp đúng đắn là 
mô hình VKSND để VKSND thực sự là 
chỗ dựa đáng tin cậy của Quốc hội trong 
việc thực hiện quyền giám sát tối cao 
của mình.
Thứ sáu, chế định/mô hình VKSND là 
chế định/mô hình được thiết kế xuất phát 
từ bản chất và kiểu nhà nước Việt Nam
Là một trong bốn kiểu nhà nước đã 
và đang tồn tại trong lịch sử loài người, 
nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước 
kiểu mới với đặc trưng hết sức cơ bản và 
quan trọng, đó là sở hữu công về tư liệu 
sản xuất, là nhà nước của giai cấp Công – 
Nông, quyền lực nhà nước thuộc về nhân 
dân lao động, là nhà nước “không tổ chức 
theo nguyên tắc phân quyền, mà theo nguyên 
tắc tập quyền, nghĩa là mọi quyền lực nhà 
nước tập trung vào Quốc hội”(1). Đây là sự 
khác biệt giữa nhà nước XHCN với kiểu 
nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong 
kiến và kiểu nhà nước tư sản. Xuất phát 
từ kiểu nhà nước như vậy, bản chất nhà 
nước ta – nhà nước XHCN cũng có nhiều 
sự khác biệt cơ bản với các kiểu nhà nước 
khác với đặc trưng: Nhà nước Cộng hoà 
XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân 
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả 
1  Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2008), Nghiên cứu những cơ 
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức 
và hoạt động của Viện kiểm sát ở Việt Nam theo yêu cầu cải 
cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Tr42
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân 
mà nền tảng là liên minh giai cấp công 
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí 
thức. Và để bảo vệ chế độ sở hữu công về 
tư liệu sản xuất; nhằm đảm bảo nhà nước 
ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, 
vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về 
nhân dân thì việc thiết kế mô hình bộ máy 
nhà nước ta cần phải được thiết kế phù 
hợp để thực hiện điều đó. Do vậy có thể 
khẳng định“sự ra đời của Viện kiểm sát nhân 
dân là do bản chất nhà nước và nguyên tắc cơ 
bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà 
nước ta”(2).
Với mô hình Viện công tố và mô hình 
VKS đã tồn tại trong lịch sử, có thể thấy 
việc lựa chọn mô hình VKS là hết sức phù 
hợp với bản chất và kiểu nhà nước của Việt 
Nam, do đó việc thiết kế chế định VKSND 
trong Hiến pháp Việt Nam là hoàn toàn 
hợp lý bởi “điều kiện lịch sử, kinh tế, văn 
hóa, xã hội cũng là nhân tố quan trọng 
nhưng bản chất, kiểu nhà nước mới là 
nhân tố quyết định việc xuất hiện, lựa 
chọn mô hình Viện kiểm sát ở mỗi quốc 
gia. Nhà nước kiểu mới – nhà nước dựa 
trên nền tảng của chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất chỉ có thể tồn tại và thực hiện 
được nhiệm vụ của mình khi mà hệ thống 
pháp luật bảo vệ nền tảng kinh tế đó được 
tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh. Chủ 
sở hữu nhà nước - chủ sở hữu trừu tượng 
- cần đến một người đại diện cụ thể cho 
mình thực hiện nhiệm vụ này. Người đó 
chính là Viện kiểm sát” (3).
2  Đặng Minh Phượng (2013), Chế định Viện kiểm sát 
nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam, Luận văn thạc sỹ 
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr28
3  Nguyễn Thái Phúc (2007), “Viện kiểm sát hay Viện 
công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật, (số 2), Tr4,5.

File đính kèm:

  • pdfco_so_ly_luan_va_thuc_tien_cua_che_dinh_vien_kiem_sat_nhan_d.pdf