Cơ sở lý luận lập dự toán ngân sách dựa trên kết quả hoạt động và tình hình áp dụng tại Việt Nam

Abuse and corruption of public assets, along with fraudulent activities

become more sophisticated, causing serious loss of public resources.

Budgeting is considered as the most important tool for guiding and optimally allocating resources in order to achieve development goals.

Therefore, the state budget management reform is considered a key

task in Viet Nam. Meanwhile performance-based budgeting (PBB) has

become one of the budgeting systems employed by governments in

most developed and developing countries. So the purpose of the article

examines the concept of PBB, some of the advantages and disadvantages of PBB, the trend of research on the application of PBB in some

countries and the situation of Vietnam's legal framework, to help the

Government have more basic information for the promulgation of relevant policies, in order to help the process of reforming Vietnam's budget

model in the future.

Keywords: public sector reform, budgeting reform, Performance-based

budgeting.

pdf 4 trang phuongnguyen 380
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở lý luận lập dự toán ngân sách dựa trên kết quả hoạt động và tình hình áp dụng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở lý luận lập dự toán ngân sách dựa trên kết quả hoạt động và tình hình áp dụng tại Việt Nam

Cơ sở lý luận lập dự toán ngân sách dựa trên kết quả hoạt động và tình hình áp dụng tại Việt Nam
1. Giới thiệu
Để quản lý và sử dụng nguồn
ngân sách nhà nước một cách hiệu
quả,Nhà nước phải sử dụng mô
hình lập dự toán ngân sách cho phù
hợp để phân bổ và quản lý nguồn
lực hạn hẹp cho các lĩnh vực kinh
tế - xã hội. Dự toán được coi là
công cụ quan trọng nhất để hướng
dẫn và phân bổ nguồn lực tối ưu
nhằm đạt được mục tiêu phát triển.
Hiện trên thế giới có nhiều mô hình
lập dự toán ngân sách cơ bản (theo
khoản mục truyền thống, theo công
việc thực hiện, theo chương trình,
theo kết quả hoạt động/kết quả đầu
ra), tùy theo trình độ quản lý và
điều kiện phát triển cũng như hệ
thống pháp luật mà mỗi quốc gia
lựa chọn mô hình cho phù hợp (Sử
Đình Thành, 2005).Việc lựa chọn
mô hình lập dự toán ngân sách hợp
lý sẽ giúp Nhà nước khai thác và sử
dụng nguồn lực một cách tiết kiệm,
hiệu quả và đảm bảo tính bền vững,
minh bạch của ngân sách nhà nước. 
Trong giai đoạn cải cách hành
chính của Việt Nam hiện nay, để
chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường trong điều kiện hội nhập
quốc tế, bên cạnh việc từng bước
hoàn thiện đồng bộ cơ chế quản lý
kinh tế, tài chính thì việc vận dụng
mô hình lập dự toán ngân sách dựa
trên kết quả hoạt động là một đòi
hỏi tất yếu trong giai đoạn đổi mới.
Dự toán dựa trên kết quả hoạt động
(Performance –based budgeting -
PBB) đã trở thành mô hình lập dự
toán chi phối ở nhiều quốc gia để
tìm cách đo lường hiệu quả hoạt
động của khu vực công. Đây là
phương pháp hiệu quả và hiệu lực
để phân bổ nguồn lực (Shah và
Shen, 2007).
Trong những năm qua, mặc dù
Chính phủ Việt Nam nỗ lực đổi
mới công tác lập dự toán ngân sách
theo định hướng kết quả hoạt
động,nhưng vẫn chưa đạt được
mục tiêu.Bởi lẽ, việc áp dụng mô
hình PBB đòi hỏi những thay đổi
trong khuôn khổ pháp lý cũng như
văn hóa quản lý theo hướng chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động. 
Trong phạm vi bài viết này, tác
giả tổng hợp một số điểm cơ bản về
PBB, tình hìnháp dụng PBB tại
một số quốc gia nhằmcung cấp
thêm những thông tin cơ sở cho các
cơ quan quản lý để quá trình đổi
mới mô hình lập dự toán ngân sách
của Việt Nam có những bước tiến
trong tương lai. 
2. Khái niệm lập dự toán theo
kết quả hoạt động
PBB không phải là khái niệm
mới, được sử dụng nhiều năm qua
ở cả khu vực công và tư của một số
nước phát triển và đang phát triển. 
Theo Mardiasmo (2002), hệ
thống PBB là một hệ thống bao
gồm các chương trình và tiêu chuẩn
kết quả hoạt động như là một công
cụ để đạt được các mục tiêu và mục
đích của các chương trình hàng
năm; trong đó sẽ thấy được các liên
kết giữa các quỹ có sẵn với các kết
quả mong đợi.
Theo Robinson và Brumby
(2005), PBB là một thủ tục hoặc cơ
chế muốn tăng cường mối quan hệ
giữa chi tiêu ngân sách và đầu ra -
Cơ sở lý luận lập dự toán ngân sách 
dựa trên kết quả hoạt động
và tình hình áp dụng tại Việt Nam
Ths. NCS Lê Thị Cẩm Hồng*
Abuse and corruption of public assets, along with fraudulent activities
become more sophisticated, causing serious loss of public resources.
Budgeting is considered as the most important tool for guiding and opti-
mally allocating resources in order to achieve development goals.
Therefore, the state budget management reform is considered a key
task in Viet Nam. Meanwhile performance-based budgeting (PBB) has
become one of the budgeting systems employed by governments in
most developed and developing countries. So the purpose of the article
examines the concept of PBB, some of the advantages and disadvan-
tages of PBB, the trend of research on the application of PBB in some
countries and the situation of Vietnam's legal framework, to help the
Government have more basic information for the promulgation of rele-
vant policies, in order to help the process of reforming Vietnam's budget
model in the future.
Keywords: public sector reform, budgeting reform, Performance-based
budgeting. 
* Khoa Kế toán, Trường Đại học Kinh Tế TP. HCM
Nhận: 11/9/2019 
Biên tập: 21/9/2019
Duyệt đăng: 30/9/2019
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 9/201942
Nghiên cứu trao đổi
kết quả đầu ra thông qua việc sử
dụng thông tin kết quả hoạt động
trong việc ra quyết định về phân bổ
nguồn lực.
Hoặc theo Shah và Shen (2007),
PBB là một hệ thống dự toán trình
bày mục đích và mục tiêu cần có
tiền, chi phí của các chương trình
và hoạt động liên quan được đề
xuất để đạt được các mục tiêu và
đầu ra hoặc dịch vụ được đưa ra
theo từng chương trình.
Tóm lại, PBB được xem là mô
hình soạn lập dự toán dựa vào cơ
sở tiếp cận những thông tin kết quả
hoạt động để phân bổ và đánh giá
sử dụng nguồn lực tài chính nhằm
hướng vào đạt được những mục
tiêu chiến lược phát triển của chính
phủ nói chung và đơn vị nói riêng. 
3. Ưu điểm và nhược điểm
của mô hình PBB
Ưu điểm
Về lý thuyết, PBB đã được giới
thiệu với một kỳ vọng cung cấp cho
chính phủ nhiều lợi ích. PBB kết nối
chi tiêu với kết quả bằng cách minh
họa mối liên hệ giữa đầu vào, đầu ra
và kết quả. Ngoài ra, Sokhari (1981)
cũng quan sát thấy rằng việc áp
dụng PBB đem lại các lợi ích sau:
- Tăng cường truyền thông tốt
hơn giữa các thành viên lập ngân
sách và công dân: PBB làm rõ các
mục tiêu/mục tiêu của chương trình
và xác định mục tiêu kết quả hoạt
động, mang lại cho các đơn vị và
nhân viên cảm giác tốt hơn về kỳ
vọng kết quả hoạt động. PBB giúp
các nhà quản lý nhà nước truyền
thông hiệu quả hơn về các hoạt
động của họ, kết quả hoạt động và
lợi ích công của các chương trình
đến với công chúng.
- Cải thiện hiệu quả (efficiency)
và hiệu lực (effectiveness) quản lý
công trong các cơ quan nhà nước.
Các đơn vị công tăng tính linh hoạt
và tự chủ để quản lý cung cấp dịch,
do đó giúp tái cơ cấu các chương
trình không thành công hoặc loại
bỏ các chương trình không cần
thiết thông qua việc đánh giá hiệu
quả, dẫn đến tăng tính linh hoạt
trong việc sử dụng các nguồn lực
hiệu quả và hiệu lực hơn, và cung
cấp thông tin tốt hơn cho người ra
quyết định. 
- Thêm thông tin giúp việc ra
các quyết định về ngân sách dễ
dàng hơn. PBB sẽ làm tăng thêm
giá trị cho các cuộc thảo luận khi
thông tin về kết quả hoạt động
được đưa vào xem xét khi quyết
định mức tài trợ. Với thông tin kết
quả hoạt động thích hợp, các chính
trị gia đang có thể gây áp lực cho
các đơn vị cải tiến và hiểu rõ hơn
về các vấn đề liên quan. Ngoài ra,
các thông tin về đo lường kết quả
hoạt động tốt sẽ giúp các chính phủ
so sánh kết quả hoạt động của các
đơn vị với các nhà cung cấp khác. 
- Giúp cải thiện trách nhiệm giải
trình và tính minh bạch của các
hoạt động của chính phủ. PBB
được xem như một công cụ chính
chứng minh về tính minh bạch và
trách nhiệm đối với cơ quan lập
pháp và công chúng. Mặt khác,
PBB phân loại nguồn lực theo
chương trình và cung cấp phép đo
lường các chỉ số kết quả hoạt động
tốt hơn, nâng cao trách nhiệm giải
trình và làm cho các nhà quản lý có
thêm trách nhiệm đối với các quyết
định về các chương trình có ảnh
hưởng đến kết quả ngân sách.
Một số các lợi ích khác như
PBB tạo điều kiện cho việc thực
hiện kiểm toán, theo dõi, đánh giá
và báo cáo về kết quả hoạt động.
Hơn nữa, PBB cải thiện hoạt động
bằng cách kết nối ngân sách và kết
quả hoạt động chương trình theo
thời gian. PBB cũng giúp tiết kiệm
chi phí, giảm các dịch vụ nhân đôi
và khuyến khích sự hiểu biết tốt
hơn về hoạt động của chính phủ
(Melkers và Willoughby, 2001). 
Nhược điểm: 
Tuy nhiên, PBB hiện nay cũng
gây ra nhiều bất lợi cho tổ chức khi
quyết định áp dụng.Cụ thể như PBB
làm tăng khối lượng công việc của
các quan chức chính phủ (Melkers
và Willoughby, 2001) và dễ bị đe
doạ do gian lận và xuyên tạc
(Smith, 1999). Mặc dù PBB yêu
cầu thông tin về hiệu quả dựa trên
chương trình và một hệ thống kế
toán hỗ trợ việc tính toán chi phí
đơn vị, tuy nhiên, hầu hết các chính
phủ không thể đáp ứng được các
yêu cầu này (Hendon, 1999). Do
đó, việc lập dự toán không kết nối
đầy đủ các chương trình với chi phí. 
Ngoài ra, sự nhất trí giữa Quốc
hội và nhà quản lý về các mục tiêu
của tổ chức và các đo lường kết quả
hoạt động liên quan thường rất khó
đạt được vì nhiều cơ quan có nhiều
mục đích và thường mâu thuẫn nhau.
Hơn nữa, có những vấn đề phát
sinh trong việc xác định và thiết lập
các đo lường kết quả hoạt động phù
hợp (Melkers và Willoughby,
2001), ví dụ như việc thiếu dữ liệu
sẵn có để tạo ra thông tin về đầu ra
và kết quả của các chương trình
theo thời gian (Hendon, 1999). Một
vấn đề quan trọng nữa là các đơn vị
thiếu các thủ tục nội bộ để đảm bảo
rằng dữ liệu kết quả hoạt động là
chính xác (Hendon, 1999). 
Cuối cùng, PBB không tính đến
những khó khăn mà người dùng gặp
phải như thời gian để họ nghiên cứu
thông tin, nhu cầu và chuyên môn
của họ trong việc sử dụng và quá
nhiều thông tin là một nhược điểm
đặc biệt phổ biến của PBB.
4. Xu hướng áp dụng PBB tại
một số quốc gia 
Carlin & Guthrie (2001) đã
nghiên cứu các bài học từ kinh
nghiệm của Úc và New Zealand về
việc lập dự toán theo kết quả đầu
ra, thông qua việc nghiên cứu các
bang đã chuyển đổi sang mô hình
dự toán theo kết quả đầu ra, qua đó
nhận thấy rằng có những khó khăn
còn tồn tại trong quá trình áp dụng
như thiếu nghiêm ngặt trong định
nghĩa và đo lường đầu ra, thiếu sự
rõ ràng và tính đo lường trong việc
lựa chọn kết quả, và gần như thiếu
các hệ thống đo lường phản hồi để
cung cấp các thông tin phản hồi
quan trọng như tác động của các
đầu ra đã được mua vào và kết quả
của chính sách. 
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 9/2019 43
Nghiên cứu trao đổi
Hoặc Kong (2005) nghiên cứu
ngắn gọn bối cảnh lịch sử hình
thành PBB ở Mỹ, và xác định một
số thách thức liên quan đến cơ sở lý
thuyết về PBB cũng như các nguyên
tắc hoạt động của PBB, từ đó nghiên
cứu tình hình áp dụng hiện tại và
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
việc thiết kế và triển vọng thực hiện
trong tương lai. Trong nghiên cứu
của Kong (2005), PBB được hiểu
theo nghĩa rộng nhất có thể, được
xem như bất kỳ một cải cách nào kết
hợp các biện pháp đo lường kết quả
hoạt động trong quá trình ngân sách
nói chung, như dự toán theo hoạt
động, dự toán theo kết quả (OBB/
RBB), dự toán theo chương trình
kết hợp với các đo lường kết quả
hoạt động
Tuy nhiên, các tổ chức khu vực
công sử dụng thông tin kết quả hoạt
động và đo lường kết quả hoạt động
như thế nào trong quá trình lập ngân
sách vẫn chưa rõ ràng (Lu, 1998).
Một số nhà nghiên cứu đã chứng
minh rằng, các ủy ban ngân sách
quốc hội hiếm khi sử dụng thông tin
kết quả hoạt động trong việc quyết
định phê duyệt ngân sách của chính
phủ (Melkers và Willoughby,
2001). Hơn nữa, mối liên hệ giữa
dự toán theo kết quả hoạt động và
việc ra quyết định liên quan đến
ngân sách và kết quả vẫn đang là
vấn gây tranh cãi. Vì vậy, mặc dù
PBB dự định thay thế ngân sách
truyền thống trong chính phủ,
nhưng mô hình dự toán truyền
thống vẫn đang được sử dụng kết
hợp với PBB ở một số quốc gia, bao
gồm cả Hoa Kỳ (Schick, 2001). 
Thông qua các bài nghiên cứu
trên về tình hình áp dụng PBB của
một số quốc gia cho thấy, việc thực
hiện PBB là nhu cầu tất yếu của
quá trình cải cách của các quốc
gia.Tuy nhiên, theo kinh nghiệm
của các nước trên thế giới, việc áp
dụng mô hình này không đơn giản,
đã có một số quốc gia trên thế giới
áp dụng không thành công. Đây là
một thách thức lơn đặt ra cho các
nhà làm chính sách ở khu vục công
để có thể nhanh chóng đưa mô hình
dự toán này vào vận hành một cách
hiệu quả.
5. Tình hình áp dụng PBB tại
Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, Nhà
nước đã có nhiều nỗ lực để nâng
cao hiệu quả quản lý ngân sách
bằng việc xây dựng khuôn khổ
pháp lý về quản lý ngân sách và
liên tục được củng cố sửa đổi bổ
sung để cải thiện tính minh bạch
trong chi ngân sách và hoàn thiện
cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính
nhà nước. 
Giai đoạn năm 1998
Lập dự toán được Nhà nước quy
định lần đầu tiên trong Hiến pháp
năm 1992. Sau đó, vào năm 1996,
Việt Nam ban hành văn bản pháp
luật đầu tiên quy định rõ ràng về
quản lý ngân sách nhà nước, trong
đó xác định vai trò và thẩm quyền
của từng cấp trong quy trình ngân
sách, và Luật Ngân sách nhà nước
1996 đã thiết lập được một khuôn
khổ pháp lý cho các quan hệ tài
chính giữa chính quyền trung ương
và các cấp chính quyền địa phương.
Nhưng đến năm 1998, Luật
Ngân sách nhà nước đã được sửa
đổi, bổ sung để phù hợp với việc
triển khai các luật thuế mới (Thuế
Giá trị gia tăng, Thuế Thu nhập
doanh nghiệp, Thuế Tiêu thụ đặc
biệt); đồng thời, ban hành Thông tư
103/1998/TT- BTC ngày 18/7/1998
hướng dẫn việc phân cấp, lập, chấp
hành và quyết toán ngân sách nhà
nước; và Quyết định số
139/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003
của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành định mức phân bổ dự toán
chi ngân sách nhà nước. 
Giai đoạn 2002
Sau hơn 4 năm đi vào thực hiện,
Luật Ngân sách Nhà nước 1998 đã
phát huy tác dụng tích cực trong
việc đổi mới công tác quản lý và
điều hành ngân sách, góp phần
quan trọng trong việc ổn định và
phát triển tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, qua thực tế triển khai, Luật
cũng dần bộc lộ một số bất cập
như: vấn đề quy định quyền và
trách nhiệm của các cấp, các ngành
trong quyết định ngân sách; công
tác kiểm soát, chất lượng hiệu quả
của chi tiêu ngân sách nhà nước,
đặc biệt là vấn đề phân cấp ngân
sách còn thiếu chặt chẽ. 
Vì vậy, vào năm 2002, Quốc hội
đã thông qua Luật Ngân sách Nhà
nước sửa đổi, với nhiều nội dung
sửa đổi cơ bản (58/82 điều của Luật
Ngân sách Nhà nước 1998), tạo ra
cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh
về việc phân công trách nhiệm rõ
ràng hơn giữa các cơ quan nhà
nước cho công tác quản lý và điều
hành ngân sách nhà nước; tăng
cường phân cấp quản lý ngân sách,
phát huy tính năng động, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cấp chính
quyền; đồng thời, bảo đảm tính tập
trung thống nhất của hệ thống ngân
sách nhà nước. (Trần Thị Thanh
Hương, 2007)
Bên cạnh đó, đối với các đơn vị
hành chính sự nghiệp, Nhà nước
cũng đã trao quyền tự chủ cho các
đơn vị theo Nghị định
10/2002/NĐ-CP và thí điểm khoán
biên chế và kinh phí quản lý hành
chính theo Quyết định
192/2001/QĐ-TTg. Điều này đã
góp phần làm thay đổi phương thức
quản lý từ yếu tố “đầu vào” chuyển
sang quản lý theo kết quả “đầu ra”
và đã đạt được một số kết quả nhất
định. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tích cực, vẫn còn một số khó
khăn, vướng mắc về tư tưởng nhận
thức; về cơ chế, chính sách; về tổ
chức thực hiện. (Trần Thị Thanh
Hương, 2007). Do đó, Nghị định
130/2005/NĐ-CP và Nghị định
43/2006/NĐ-CP ra đời, thay thế
Quyết định 192/2001/QĐ-TTg và
Nghị định 10/2002/ NĐ-CP đã
mang tính pháp lý cao hơn và có
tính bắt buộc đối với hầu hết các cơ
quan, đơn vị. Đây là bước tiến đáng
kể, thể hiện sự nhất quán trong việc
giao quyền tự chủ cho các cơ quan,
đơn vị giúp các đơn vị nâng cao kết
quả hoạt động, khối lượng, chất
lượng công việc thực hiện; thời
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 9/201944
Nghiên cứu trao đổi
gian giải quyết công việc; tình hình
chấp hành chính sách, chế độ và
quy định về tài chính; nâng cao hơn
chất lượng và số lượng dịch vụ
công cung cấp cho toàn xã hội.
Ngoài ra, Nhà nước còn ban
hành một số văn bản pháp lý khác
như Thông tư số 61/2003/TT-BTC
ngày 23/06/2003 hướng dẫn xây
dựng dự toán ngân sách nhà nước
năm 2004. Thông tư hướng dẫn số
44/2005/TT-BTC ngày 3/6/2005 về
hướng dẫn xây dựng dự toán ngân
sách nhà nước năm 2006 và giai
đoạn 2006-2010; Thông tư số
100/2005/TT-BTC ngày 17/11/2005
về hướng dẫn một số điểm về tổ
chức thực hiện dự toán ngân sách
nhà nước năm 2006; Quyết định số
151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006
về việc ban hành định mức phân bổ
dự toán chi thường xuyên ngân sách
nhà nước năm 2007.
Giai đoạn năm 2013 cho đến
nay
Nghị định 130/2005/NĐ-CP
được tiếp tục sửa đổi, bổ sung bằng
Nghị định 117/2013/NĐCP và
Nghị định 16/2015/NĐCP thay thế
cho Nghị định 43/2006/NĐ-CP.
Việc triển khai Nghị định 130 và
Nghị định 16 đã thể hiện rõ quan
điểm, đường lối của Đảng và Nhà
nước ta là tăng cường phân cấp cho
các đơn vị trên nhiều lĩnh vực;
nâng cao tính năng động, sáng tạo,
xây dựng quy trình quản lý hiệu
quả để nâng cao chất lượng dịch vụ
công; trao quyền tự chủ cho các cơ
quan, đơn vị gắn với chế độ tự chịu
trách nhiệm của người ra quyết
định, góp phần đưa đơn vị sự
nghiệp công vào “sống” trong môi
trường cạnh tranh với các tổ chức
cung cấp dịch vụ công khác. Ngoài
ra, việc xây dựng quy trình dịch vụ
hợp lý không những giúp đơn vị
tiết kiệm chi phí và nâng cao kết
quả hoạt động mà còn giúp đảm
bảo thu nhập cho người lao động
ngày càng tốt hơn. (Trần Thị Thanh
Hương, 2007)
Đặc biệt hơn nữa, trong giai
đoạn này, Luật Ngân sách nhà nước
đã được Quốc hội thông qua vào
ngày 25/6/2015 và có hiệu lực từ
năm ngân sách 2017, thay thế Luật
Ngân sách nhà nước 2002. Luật này
được xây dựng trên cơ sở tiếp tục
kế thừa những điểm mạnh của Luật
Ngân sách Nhà nước 2002 về việc
đảm bảo tính thống nhất của ngân
sách nhà nước và vai trò chủ đạo
của ngân sách trung ương; đồng
thời tăng cường phân cấp quản lý
ngân sách, phát huy tính chủ đạo
của ngân sách các cấp chính quyền
địa phương trong quản lý và sử
dụng ngân sách nhà nước. Đặc biệt,
có bổ sung những quy định về quản
lý ngân sách theo kết quả đầu ra, để
quản lý hiệu quả việc sử dụng ngân
sách. Trong đó, Luật quy định giao
Chính phủ quyết định việc thực
hiện quản lý ngân sách theo kết quả
thực hiện nhiệm vụ (khoản 15, Điều
25); đồng thời tại khoản 1, Điều 61
quy định rõ: “Thủ trưởng đơn vị sử
dụng ngân sách chịu trách nhiệm về
việc quản lý, sử dụng ngân sách
theo dự toán được giao, đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ, bảo
đảm hiệu quả, tiết kiệm và đúng
chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi ngân sách”. 
Nhìn chung, cơ chế quản lý của
các đơn vị đã được sửa đổi dần, tiếp
cận với phương thức quản lý ngân
sách theo kết quả hoạt động. Do đó,
việc thiết lập hoàn chỉnh một quy
trình quản lý ngân sách theo kết
quả hoạt động như một số quốc gia
trên thế giới trong thời gian tới là
rất cần thiết.
6. Kết luận
Thay đổi sang cơ chế tự chủ tài
chính cho cơ quan hành chính và
đơn vị sự nghiệp có thu là một cải
cách, làm thay đổi cơ bản nhận
thức, phương thức, nội dung thủ tục
quản lý tài chính đối với cơ quan,
đơn vị; chuyển từ cơ chế bao cấp
sang cơ chế phân cấp, xác định
trách nhiệm đầy đủ của chủ thể sử
dụng ngân sách nhà nước. Bước
thay đổi này đã đem lại một số kết
quả trên thực tế. Đây được xem là
bước khởi đầu và còn nhiều vấn đề
cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện cho
phù hợp với thực tế, nhằm góp phần
thực hiện công cuộc đổi mới nền
hành chính quốc gia nói chung và
cải cách tài chính công nói riêng. 
Tài liệu tham khảo
Carlin, T. & Guthrie, J., 2001. Lessons
from Australian and New Zealand experi-
ences with accrual output-based budgeting.
In: Learning from international public man-
agement eeform. JAI Elsevier Science Ltd.,
Oxford: 89-100.
Hendon, C., 1999. Perfonnance budg-
eting in Florida - Half way there. Journal of
Public Budgeting, Accounting and Financial
Management, 11(4): 670-679.
Kong, D., 2005. Performance-based
budgeting: The U.S. experience. Public Organ-
ization Review: A Global Journal, 5: 91-107.
Lu, H., 1998. Performance budgeting
resuscitated: Why is it still inviable?. Journal
of Public Budgeting, Accounting and Finan-
cial Management, 10(2): 151-172.
Mardiasmo. 2002. Akuntansi Sektor
Publik, Yogyakarta. Andi.
Melkers, J. E. & Willoughby, K. G.,
2001. Budgeters’ views of state perform-
ance budgeting systems: Distinction across
branches. Public Administration Review,
61(1): 54-64.
Robinson, M. & Brumby, J., 2005. Does
performance budgeting work? An analytical
review of the empirical literature, Washing-
ton, DC: Working Paper No. 5-210. Interna-
tional Monetary Fund
Schick, A., 2001. The changing role of
the central budget office. OECD Journal on
Budgeting, Volume 1: 9-26.
Shah, A. & Shen, C., 2007. A primer on
performance budgeting. Budgeting and
Budgetary Institution: 137-178.
Smith, J. F., 1999. The benefits and
threats of PBB: An assessment of modem
reform. Public Budgeting and Finance,
19(3): 3-15.
Sử Đình Thành, 2005. Vận dụng
phương thức lập ngân sách theo kết quả
đầu ra trong quản lý chi tiêu công của Việt
Nam. Nhà xuất bản Tài Chính.
Trần Thị Thanh Hương, 2007. Luận cứ
khoa học của phương thức lập ngân sách
theo kết quả đầu ra trong quản lý chi tiêu
công của Việt Nam. Luận văn thạc sĩ,
trường Đại học Kinh Tế TP. HCM.
Trần Ngọc Hùng, 2016. Các nhân tố tác
động đến việc vận dụng kế toán quản trị
trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt
Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học
Kinh Tế TP. HCM.
Syukri, H., 2005. Performance based
budgeting: A model for the Indonesian Dod,
Monterey, California.
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 9/2019 45
Nghiên cứu trao đổi

File đính kèm:

  • pdfco_so_ly_luan_lap_du_toan_ngan_sach_dua_tren_ket_qua_hoat_do.pdf