Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng năm 2018 của Bệnh viện Quân y 17

Mục tiêu: Phân tích danh mục thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018. Đối tượng và

phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả danh mục 928 khoản mục thuốc. Kết quả: Số khoản

mục thuốc sản xuất trong nước được sử dụng cao hơn thuốc nhập khẩu nhưng giá trị sử dụng

của các thuốc nhập khẩu cao hơn khoảng 1,5 lần. Thuốc uống và thuốc tiêm/tiêm truyền lần

lượt chiếm 66% và 27% tổng số khoản mục, 61% và 37% tổng giá trị sử dụng. Trong phân tích

ABC, thuốc nhóm A, B, C lần lượt chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% tổng số khoản mục thuốc.

Thuốc hóa dược chiếm khoảng 95% số khoản mục và 92% giá trị sử dụng, trong đó chủ yếu là

thuốc đơn thành phần và thuốc generic. Nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn

được sử dụng với tỷ trọng cao nhất về cả số khoản mục (19%) và giá trị sử dụng (24%). Trong nhóm

kháng sinh, nhóm betalactam chiếm 45,4% số khoản mục và 70,7% giá trị sử dụng của nhóm

kháng sinh. Vitamin và khoáng chất có giá trị sử dụng hơn 1,5 tỷ đồng, chiếm gần 1,5% tổng

giá trị tiền thuốc. Kết luận: Việc sử dụng thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018 là

hợp lý. Tuy nhiên, Bệnh viện nên hạn chế kê đơn vitamin và khoáng chất khi không cần thiết

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng năm 2018 của Bệnh viện Quân y 17", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng năm 2018 của Bệnh viện Quân y 17

Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng năm 2018 của Bệnh viện Quân y 17
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 5 
CƠ CẤU DANH MỤC THUỐC SỬ DỤNG NĂM 2018 
CỦA BỆNH VIỆN QUÂN Y 17 
Nguyễn Thị Xuân Thuỷ 1, Lê Thị Ngọc Yến1, Đinh Xuân Đại 2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Phân tích danh mục thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018. Đối tượng và 
phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả danh mục 928 khoản mục thuốc. Kết quả: Số khoản 
mục thuốc sản xuất trong nước được sử dụng cao hơn thuốc nhập khẩu nhưng giá trị sử dụng 
của các thuốc nhập khẩu cao hơn khoảng 1,5 lần. Thuốc uống và thuốc tiêm/tiêm truyền lần 
lượt chiếm 66% và 27% tổng số khoản mục, 61% và 37% tổng giá trị sử dụng. Trong phân tích 
ABC, thuốc nhóm A, B, C lần lượt chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% tổng số khoản mục thuốc. 
Thuốc hóa dược chiếm khoảng 95% số khoản mục và 92% giá trị sử dụng, trong đó chủ yếu là 
thuốc đơn thành phần và thuốc generic. Nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn 
được sử dụng với tỷ trọng cao nhất về cả số khoản mục (19%) và giá trị sử dụng (24%). Trong nhóm 
kháng sinh, nhóm betalactam chiếm 45,4% số khoản mục và 70,7% giá trị sử dụng của nhóm 
kháng sinh. Vitamin và khoáng chất có giá trị sử dụng hơn 1,5 tỷ đồng, chiếm gần 1,5% tổng 
giá trị tiền thuốc. Kết luận: Việc sử dụng thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018 là 
hợp lý. Tuy nhiên, Bệnh viện nên hạn chế kê đơn vitamin và khoáng chất khi không cần thiết. 
* Từ khoá: Danh mục thuốc; Bệnh viện Quân y 17. 
Study on the Structure of the Drug List of Military Hospital 17 in 2018 
Summary 
Objectives: To analyze the list of drugs used in Military Hospital 17 in 2018. Subjects and 
method: A descriptive cross-sectional study on 928 drug items. Results: The item number of 
domestic medicine was higher than that of imported medicine but the value of drug use of the 
latter was roughly 1.5 times as high as that of the former. Oral and infectable medications/drug 
infusion constituted about 66%, 27% of the total items and 61%, 37% of the total expenditure, 
respectively. In ABC analysis, group A, B, C constituted 14.44%, 18.10% and 67.46% of the 
total drug items. Moreover, chemical medicine made up about 95% of the total items and 92% 
of the total expenditure, mainly generic medicines and medicines having one active element. 
Medications used to treat parasites and bacteria were the pharmacological-effect group which 
occupied the highest percentage of items and expenses: nearly 19% and 24%, respectively. 
1Trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng 
2Công ty TNHH Thương mại và Xuất nhập khẩu Biophar Việt Nam 
Người phản hồi: Nguyễn Thị Xuân Thủy ([email protected]) 
 Ngày nhận bài: 15/9/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 23/12/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 6 
Regarding antibiotics, beta-lactams constituted 45.4% of antibiotic items and 70.7% of 
antibiotic expenditure. The expenditure of vitamins and minerals was more than 1.5 billion VND, 
constituting nearly 5% of the total drug expenditure. Conclusion: The use of drugs at Military 
Hospital 17 in 2018 was appropriate. However, vitamin/mineral supplements should be restrictly 
prescribed if unnecessary. 
* Keywords: Drug list; Military Hospital 17. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh viện là cơ sở y tế có vai trò quan 
trọng trong công tác khám, chữa bệnh và 
chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Trong 
những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu 
trong và ngoài nước về cung ứng và sử 
dụng thuốc trong các cơ sở y tế, trong đó, 
phân tích danh mục thuốc sử dụng, đặc 
biệt là kháng sinh đang được nhiều bệnh 
viện thực hiện. Tuy nhiên, còn tồn tại 
nhiều vấn đề về sử dụng thuốc như sử 
dụng nhiều thuốc nhập khẩu, thuốc biệt 
dược gốc với giá thành cao, lạm dụng 
vitamin và kháng sinh. Điều này đặt ra 
một thách thức rất lớn để tìm ra giải pháp 
thiết thực và hiệu quả, đảm bảo các thuốc 
được cung ứng có chất lượng tốt, được 
sử dụng an toàn, hợp lý và hiệu quả. 
Là bệnh viện hạng I ở Đà Nẵng, Bệnh 
viện Quân y 17 có nhiệm vụ khám, chữa 
bệnh bảo hiểm y tế cho các quân nhân và 
thân nhân thuộc Quân khu V. Với những 
trọng trách đó, công tác khám, chữa bệnh 
và hoạt động cung ứng thuốc tại bệnh 
viện càng cần được quan tâm, nghiên 
cứu đầy đủ hơn để có thể đạt được kết 
quả cao nhất. Chúng tôi thực hiện đề tài 
này nhằm: Cung cấp thông tin hữu ích và 
cụ thể về việc sử dụng thuốc nói chung 
và sử dụng kháng sinh nói riêng, qua đó 
giúp Bệnh viện đưa ra khuyến cáo và 
định hướng cho những giai đoạn sắp tới. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
Danh mục thuốc sử dụng của Bệnh viện 
Quân y 17 năm 2018. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô 
tả hồi cứu, dựa trên số liệu có sẵn của 
bệnh viện. 
- Cỡ mẫu: 928 khoản mục thuốc. 
- Xử lý và phân tích số liệu: Bằng phần 
mềm Microsoft excel 2020. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng 
theo nguồn gốc xuất xứ, đường dùng 
và phân tích ABC 
Về nguồn gốc, số khoản mục của 
nhóm thuốc sản xuất trong nước chiếm 
tỷ trọng cao hơn nhóm thuốc nhập khẩu. 
Tuy nhiên, về giá trị sử dụng, tỷ trọng của 
nhóm thuốc nhập khẩu cao hơn nhóm thuốc 
sản xuất trong nước khoảng 1,5 lần. 
Về đường dùng, thuốc dùng đường uống 
chiếm gần 66% tổng số khoản mục và 
61% tổng giá trị sử dụng. Thuốc tiêm, 
tiêm truyền chỉ chiếm khoảng 27% tổng 
số khoản mục thuốc nhưng chiếm đến 
hơn 37% tổng giá trị sử dụng. Các đường 
dùng khác chiếm tỷ trọng không đáng kể 
(bảng 1). Trong phân tích ABC, thuốc nhóm 
A, B, C lần lượt có số khoản mục thuốc 
chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% (bảng 2). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 7 
Bảng 1: Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo nguồn gốc xuất xứ và đường dùng. 
Số khoản mục Giá trị sử dụng 
Nhóm thuốc 
n (khoản) % n (triệu đồng) % 
Sản xuất trong nước 498 53,66 13.760,03 38,10 Nguồn gốc, 
xuất xứ Nhập khẩu 430 46,34 22.356,37 61,90 
Đường uống 612 65,95 21.979,88 60,86 
Đường tiêm, tiêm truyền 252 27,15 13.426,39 37,17 Đường dùng 
Đường khác 64 6,90 710,13 1,97 
Tổng 928 100,00 36.116,40 100,00 
Bảng 2: Cơ cấu danh mục thuốc theo phân tích ABC. 
Số khoản mục Giá trị sử dụng 
Nhóm thuốc 
n (khoản) % n (triệu đồng) % 
A 134 14,44 28.865,35 79,92 
B 168 18,10 5.435,15 15,05 
C 626 67,46 1.815,90 5,03 
Tổng 928 100,00 36.116,40 100,00 
2. Cơ cấu danh mục thuốc hóa dược được sử dụng 
Bảng 3: Cơ cấu danh mục thuốc hóa dược được sử dụng theo nhóm biệt dược 
gốc/generic và nhóm thuốc đơn/đa thành phần. 
Số khoản mục Giá trị sử dụng 
Nhóm thuốc 
n (khoản) % n (triệu đồng) % 
Đơn thành phần 732 83,09 26.193,43 78,68 
Đa thành phần 149 16,91 7.099,32 21,32 
Biệt dược gốc 115 13,05 7.909,76 23,76 
Thuốc generic 766 86,95 25.382,99 76,24 
Tổng 881 100,00 33.292,75 100,00 
Trong năm 2018, Bệnh viện Quân y 17 chủ yếu sử dụng thuốc hóa dược với gần 
95% tổng số khoản mục thuốc và hơn 92% tổng giá trị sử dụng. Trong nhóm này, hơn 
4/5 số khoản mục thuốc là thuốc đơn thành phần. Giá trị sử dụng của các thuốc đơn 
thành phần chiếm gần 79% giá trị của các thuốc hóa dược. Thuốc generic chiếm 
86,95% tổng số khoản mục và 76,24% tổng giá trị sử dụng của nhóm thuốc hóa dược. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 8 
3. Cơ cấu danh mục thuốc hóa dược theo một số nhóm tác dụng dược lý 
phân theo Thông tư 40/2014 TT-BYT 
Bảng 4: 8 nhóm dược lý có giá trị sử dụng cao nhất năm 2018. 
Số khoản mục Giá trị sử dụng 
Nhóm tác dụng dược lý 
n (khoản) % n (triệu đồng) B 
Thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn 165 18,73 7.943,86 23,86 
Kháng sinh 130 100,00 7.533,95 100,00 
Betalactam 59 45,38 5.301,59 70,37 
Quinolon 26 20,00 1.360,33 18,06 
Kháng sinh khác 45 34,62 872,03 11,57 
Thuốc tim mạch 144 16,35 7.077,83 21,26 
Thuốc đường tiêu hóa 120 13,62 4.250,29 12,77 
Hormon và các thuốc tác động vào hệ nội tiết 57 9,28 3.774,87 11,34 
NSAIDs, thuốc điều trị gout và các bệnh xương khớp 69 7,83 2.212,93 6,65 
Thuốc tác dụng đối với máu 39 4,43 1.579,22 4,74 
Dung dịch điều chỉnh nước, điện giải, cân bằng acid 
- base 46 5,22 1.561,77 4,69 
Khoáng chất và vitamin 59 6,70 1.520,98 4,57 
Tổng 881 100,00 33.292,75 100,00 
Trong năm 2018, thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn là nhóm thuốc 
chiếm tỷ trọng số khoản mục thuốc và tỷ trọng giá trị sử dụng cao nhất nhóm thuốc 
hóa dược. Trong nhóm kháng sinh, betalactam là phân nhóm chiếm tỷ trọng cao nhất 
về giá trị sử dụng (> 70%) mặc dù chỉ chiếm khoảng 45% tổng số khoản mục kháng 
sinh được sử dụng. Xếp ở vị trí thứ 2 là nhóm thuốc tim mạch với tỷ trọng giá trị sử 
dụng xấp xỉ nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn (21,26% và 23,86%). 
Tiếp theo là nhóm thuốc đường tiêu hóa và nhóm các hormon và các thuốc tác động 
vào hệ nội tiết. Vitamin và khoáng chất cũng là một nhóm thuốc đáng chú ý vì số 
khoản mục cũng như giá trị sử dụng khá cao. 
BÀN LUẬN 
Số khoản mục thuốc nhập khẩu được 
Bệnh viện Quân y 17 sử dụng trong năm 
2018 thấp hơn nhóm thuốc sản xuất trong 
nước nhưng giá trị sử dụng cao hơn 1,5 
lần. Thuốc nhập khẩu được sử dụng với 
giá trị lớn cũng gặp ở nhiều cơ sở y tế 
khác, đặc biệt là ở các bệnh viện tuyến 
tỉnh/trung ương, bệnh viện hạng I, hạng 
đặc biệt và các bệnh viện chuyên khoa vì 
mức độ phức tạp và nặng của bệnh. Tại 
Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, 
thuốc nhập khẩu chiếm đến 71,6% tổng 
số khoản mục thuốc và 85,7% tổng giá trị 
sử dụng của các thuốc trong năm 2013, 
cao hơn kết quả từ Bệnh viện Quân y 17 [1]. 
Một số lý do khiến các thuốc nhập khẩu 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 9 
vẫn đang được sử dụng với số lượng 
lớn và kinh phí cao ở nhiều cơ sở y tế, 
đó là: Thu nhập bình quân mỗi năm của 
người dân ngày càng tăng nên nhu cầu 
sử dụng các loại thuốc tốt và đắt tiền 
nhiều hơn, trong khi đó, các công ty dược 
trong nước chưa sản xuất được nhiều 
loại thuốc chuyên khoa có giá trị lớn nên 
thị trường thuốc trong nước còn phụ thuộc 
khá nhiều vào các nước khác. 
Do đặc điểm dễ sử dụng nên thuốc 
dùng đường uống được sử dụng rất rộng 
rãi, không chỉ ở các cơ sở y tế mà còn ở 
cả trong cộng đồng. Thuốc tiêm, tiêm truyền 
cần có cán bộ y tế tiêm và các vật tư y tế 
tiêu hao đi kèm (bông, kim tiêm) có giá 
thành cao hơn nên không được sử dụng 
nhiều bằng nhóm thuốc đường uống. 
Nhìn chung, 2 nhóm thuốc nói trên chiếm 
tỷ trọng cao trong danh mục thuốc sử 
dụng cả về số khoản mục lẫn giá trị sử 
dụng ở nhiều bệnh viện. Tại Bệnh viện 
Quân y 17, thuốc dùng đường uống chiếm 
gần 66% tổng số khoản mục và 61% tổng 
giá trị sử dụng trong khi thuốc tiêm, tiêm 
truyền chiếm khoảng 27% tổng số khoản 
mục và hơn 37% tổng giá trị sử dụng. 
Trong phân tích ABC, thông thường 
thuốc nhóm A chiếm 10 - 25%, nhóm B: 
10 - 20% và nhóm C: 60 - 80% tổng số 
khoản mục thuốc. Trong năm 2018, tại 
Bệnh viện Quân y 17, số khoản mục 
thuốc nhóm A chiếm 14,44%, nhóm B: 
18,10% và nhóm C: 67,46%. Như vậy, 
việc sử dụng thuốc của bệnh viện khi 
phân tích ABC là hợp lý, thể hiện việc 
mua sắm thuốc của bệnh viện không dàn 
trải quá mức cho nhiều khoản mục thuốc 
mà chỉ tập trung vào một số thuốc nhất 
định. Thêm vào đó, nhóm thuốc đơn 
thành phần và nhóm thuốc generic chiếm 
tỷ trọng cao trong danh mục thuốc sử 
dụng cũng là một thành công cần phát 
huy trong thời gian tới. 
Tương tự như nhiều bệnh viện khác, 
các nhóm thuốc xếp theo tác dụng dược 
lý chiếm tỷ trọng cao về số khoản mục và 
giá trị sử dụng tại Bệnh viện Quân y 17 là 
nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống 
nhiễm khuẩn, thuốc tim mạch và thuốc 
đường tiêu hoá, phù hợp với mô hình 
bệnh tật của bệnh viện khi bệnh nhân đến 
khám, chữa bệnh phần lớn là các bệnh 
của hệ tuần hoàn, tiêu hoá, nhiễm trùng. 
Trong năm 2018, nhóm thuốc điều trị ký 
sinh trùng, chống nhiễm khuẩn chiếm 
18,73% tổng số khoản mục thuốc và 
23,86% tổng kinh phí mua sắm thuốc của 
Bệnh viện Quân y 17. Nghiên cứu năm 
2016 tại Bệnh viện Quân y 103 cho kết 
quả tương tự khi nhóm thuốc điều trị ký 
sinh trùng, chống nhiễm khuẩn chiếm 
18,33% tổng số khoản mục và 25,28% 
tổng giá trị sử dụng của nhóm đối tượng 
bảo hiểm y tế [2]. Bên cạnh đó, vitamin và 
khoáng chất là một nhóm cần được quan 
tâm vì nguy cơ dễ bị lạm dụng do trong 
năm 2018, giá trị sử dụng của nhóm này 
lên đến hơn 1,5 tỷ đồng, chiếm gần 5% 
tổng kinh phí mua sắm thuốc của Bệnh 
viện Quân y 17. 
Trong năm 2018, 130 khoản mục kháng 
sinh đã được Bệnh viện Quân y 17 sử 
dụng với kinh phí lên đến hơn 7,5 tỷ đồng 
(gần 21% tổng kinh phí mua sắm thuốc). 
Betalactam chiếm hơn 45% số khoản mục 
và hơn 70% giá trị sử dụng của nhóm 
kháng sinh. Các nghiên cứu khác cũng 
cho kết quả tương tự: Tại Bệnh viện Phụ 
sản Hà Nội, betalactam chiếm 55,4% tổng 
số khoản mục và 86% tổng giá trị sử 
dụng nhóm kháng sinh [3]. Tại Việt Nam, 
khoảng 88 - 97% các cửa hàng thuốc kê 
đơn kháng sinh mà không có đơn thuốc 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 10 
của bác sĩ dù điều này bị cấm theo luật 
pháp Việt Nam. 1/3 số bệnh nhân nội trú 
sử dụng kháng sinh không hợp lý trong 
quá trình nhập viện [4]. Việc lạm dụng 
kháng sinh trong kê đơn và điều trị ở các 
cơ sở y tế khiến tình trạng kháng kháng 
sinh trở thành vấn đề báo động trên toàn 
cầu trong những năm gần đây [5, 6]. 
Ngày càng có nhiều loại bệnh nhiễm trùng 
như viêm phổi, lao, lậu trở nên khó điều 
trị hơn [7]. Hàng loạt các chủng vi khuẩn 
kháng, đa kháng kháng sinh đã xuất hiện 
như Enterobacteriaceae kháng carbapenem, 
Enterococci kháng vancomycin [8]. Thậm 
chí trong thời gian gần đây, xuất hiện một 
số chủng vi khuẩn khi làm kháng sinh đồ, 
các kháng sinh dự trữ như colistin cũng 
không còn tác dụng. Trước thực trạng 
đáng báo động này, Bệnh viện Quân y 17 
cũng như tất cả cơ sở y tế khác cần có 
biện pháp thiết thực và hữu hiệu trong 
công tác sử dụng kháng sinh, đặc biệt là 
kháng sinh dự trữ, tránh tạo điều kiện cho 
vi khuẩn kháng thuốc. 
KẾT LUẬN 
Trong năm 2018, Bệnh viện Quân y 17 
sử dụng nhiều khoản mục thuốc sản xuất 
trong nước hơn thuốc nhập khẩu nhưng 
thuốc nhập khẩu lại có giá trị sử dụng cao 
hơn (gấp hơn 1,5 lần). Thuốc uống chiếm 
khoảng 66% tổng số khoản mục thuốc và 
61% tổng giá trị sử dụng trong khi thuốc 
tiêm, tiêm truyền lần lượt chiếm 27% 
và 37%. Trong phân tích ABC, thuốc 
nhóm A, B, C lần lượt chiếm 14,44%, 
18,10% và 67,46% tổng số khoản mục 
thuốc. Bệnh viện chủ yếu sử dụng các 
thuốc hoá dược đơn thành phần và các 
thuốc generic. Nhóm thuốc điều trị ký sinh 
trùng, chống nhiễm khuẩn là nhóm thuốc 
có số khoản mục lẫn giá trị sử dụng cao 
nhất, trong đó chủ yếu là các betalactam 
và quinolon. Vitamin và khoáng chất là 
nhóm thuốc cần được kiểm soát trong sử 
dụng vì giá trị sử dụng khá lớn với hơn 
1,5 tỷ đồng trong năm 2018. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lương Quang Anh, Chu Anh Tuấn, 
Nguyễn Như Lâm và CS. Đánh giá thực trạng 
hoạt động xây dựng danh mục thuốc của Viện 
Bỏng Quốc gia năm 2013. Tạp chí Y học 
Thảm hoạ và Bỏng 2015; 4:44-51. 
2. Đào Thị Khánh, Trần Thế Tăng, Phan 
Thị Hoà. Đánh giá việc sử dụng một số nhóm 
thuốc có chi phí lớn tại Bệnh viện Quân y 103 
giai đoạn 2013 - 2016. Tạp chí Y Dược học 
Quân sự 2019; 7:3-8. 
3. Hà Văn Thuý, Nguyễn Anh Phương, 
Lê Thu Thuỷ. Phân tích cơ cấu thuốc sử dụng 
tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội năm 2014. 
Tạp chí Dược học 2017; 495(S7):30-35. 
4. WHO (2020). Kháng kháng sinh tại 
Việt Nam. Truy cập (ngày 16/07/2010) tại: 
https://www.who.int/vietnam/vi/health-topics/ 
antimicrobial-resistance. 
5. Meek RW, Vyas H, Piddock LJ. 
Nonmedical uses of antibiotics: Time to restrict 
their use?. PLoS Biology 2015; 13(10):e1002266. 
6. Ocan M, Obuku EA, Bwanga F, et al. 
Household antimicrobial self-medication: 
A systematic review and meta-analysis of 
the burden, risk factors and outcomes in 
developing countries. BMC Public Health 2015; 
15(1):742. 
7. Zaman SB, Hussain MA, Nye R, et al. 
A review on antibiotic resistance: Alarm bells 
are ringing. Cureus 2017; 9(6):e1403. 
8. Ventola CL. The antibiotic resistance 
crisis: part 1: causes and threats. P&T: 
a Peer-reviewed Journal for Formulary 
Management 2015; 40(4):277-283. 

File đính kèm:

  • pdfco_cau_danh_muc_thuoc_su_dung_nam_2018_cua_benh_vien_quan_y.pdf