Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng năm 2018 của Bệnh viện Quân y 17
Mục tiêu: Phân tích danh mục thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018. Đối tượng và
phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả danh mục 928 khoản mục thuốc. Kết quả: Số khoản
mục thuốc sản xuất trong nước được sử dụng cao hơn thuốc nhập khẩu nhưng giá trị sử dụng
của các thuốc nhập khẩu cao hơn khoảng 1,5 lần. Thuốc uống và thuốc tiêm/tiêm truyền lần
lượt chiếm 66% và 27% tổng số khoản mục, 61% và 37% tổng giá trị sử dụng. Trong phân tích
ABC, thuốc nhóm A, B, C lần lượt chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% tổng số khoản mục thuốc.
Thuốc hóa dược chiếm khoảng 95% số khoản mục và 92% giá trị sử dụng, trong đó chủ yếu là
thuốc đơn thành phần và thuốc generic. Nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn
được sử dụng với tỷ trọng cao nhất về cả số khoản mục (19%) và giá trị sử dụng (24%). Trong nhóm
kháng sinh, nhóm betalactam chiếm 45,4% số khoản mục và 70,7% giá trị sử dụng của nhóm
kháng sinh. Vitamin và khoáng chất có giá trị sử dụng hơn 1,5 tỷ đồng, chiếm gần 1,5% tổng
giá trị tiền thuốc. Kết luận: Việc sử dụng thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018 là
hợp lý. Tuy nhiên, Bệnh viện nên hạn chế kê đơn vitamin và khoáng chất khi không cần thiết
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng năm 2018 của Bệnh viện Quân y 17
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 5 CƠ CẤU DANH MỤC THUỐC SỬ DỤNG NĂM 2018 CỦA BỆNH VIỆN QUÂN Y 17 Nguyễn Thị Xuân Thuỷ 1, Lê Thị Ngọc Yến1, Đinh Xuân Đại 2 TÓM TẮT Mục tiêu: Phân tích danh mục thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả danh mục 928 khoản mục thuốc. Kết quả: Số khoản mục thuốc sản xuất trong nước được sử dụng cao hơn thuốc nhập khẩu nhưng giá trị sử dụng của các thuốc nhập khẩu cao hơn khoảng 1,5 lần. Thuốc uống và thuốc tiêm/tiêm truyền lần lượt chiếm 66% và 27% tổng số khoản mục, 61% và 37% tổng giá trị sử dụng. Trong phân tích ABC, thuốc nhóm A, B, C lần lượt chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% tổng số khoản mục thuốc. Thuốc hóa dược chiếm khoảng 95% số khoản mục và 92% giá trị sử dụng, trong đó chủ yếu là thuốc đơn thành phần và thuốc generic. Nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn được sử dụng với tỷ trọng cao nhất về cả số khoản mục (19%) và giá trị sử dụng (24%). Trong nhóm kháng sinh, nhóm betalactam chiếm 45,4% số khoản mục và 70,7% giá trị sử dụng của nhóm kháng sinh. Vitamin và khoáng chất có giá trị sử dụng hơn 1,5 tỷ đồng, chiếm gần 1,5% tổng giá trị tiền thuốc. Kết luận: Việc sử dụng thuốc của Bệnh viện Quân y 17 trong năm 2018 là hợp lý. Tuy nhiên, Bệnh viện nên hạn chế kê đơn vitamin và khoáng chất khi không cần thiết. * Từ khoá: Danh mục thuốc; Bệnh viện Quân y 17. Study on the Structure of the Drug List of Military Hospital 17 in 2018 Summary Objectives: To analyze the list of drugs used in Military Hospital 17 in 2018. Subjects and method: A descriptive cross-sectional study on 928 drug items. Results: The item number of domestic medicine was higher than that of imported medicine but the value of drug use of the latter was roughly 1.5 times as high as that of the former. Oral and infectable medications/drug infusion constituted about 66%, 27% of the total items and 61%, 37% of the total expenditure, respectively. In ABC analysis, group A, B, C constituted 14.44%, 18.10% and 67.46% of the total drug items. Moreover, chemical medicine made up about 95% of the total items and 92% of the total expenditure, mainly generic medicines and medicines having one active element. Medications used to treat parasites and bacteria were the pharmacological-effect group which occupied the highest percentage of items and expenses: nearly 19% and 24%, respectively. 1Trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng 2Công ty TNHH Thương mại và Xuất nhập khẩu Biophar Việt Nam Người phản hồi: Nguyễn Thị Xuân Thủy ([email protected]) Ngày nhận bài: 15/9/2020 Ngày bài báo được đăng: 23/12/2020 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 6 Regarding antibiotics, beta-lactams constituted 45.4% of antibiotic items and 70.7% of antibiotic expenditure. The expenditure of vitamins and minerals was more than 1.5 billion VND, constituting nearly 5% of the total drug expenditure. Conclusion: The use of drugs at Military Hospital 17 in 2018 was appropriate. However, vitamin/mineral supplements should be restrictly prescribed if unnecessary. * Keywords: Drug list; Military Hospital 17. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh viện là cơ sở y tế có vai trò quan trọng trong công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Trong những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về cung ứng và sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế, trong đó, phân tích danh mục thuốc sử dụng, đặc biệt là kháng sinh đang được nhiều bệnh viện thực hiện. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều vấn đề về sử dụng thuốc như sử dụng nhiều thuốc nhập khẩu, thuốc biệt dược gốc với giá thành cao, lạm dụng vitamin và kháng sinh. Điều này đặt ra một thách thức rất lớn để tìm ra giải pháp thiết thực và hiệu quả, đảm bảo các thuốc được cung ứng có chất lượng tốt, được sử dụng an toàn, hợp lý và hiệu quả. Là bệnh viện hạng I ở Đà Nẵng, Bệnh viện Quân y 17 có nhiệm vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho các quân nhân và thân nhân thuộc Quân khu V. Với những trọng trách đó, công tác khám, chữa bệnh và hoạt động cung ứng thuốc tại bệnh viện càng cần được quan tâm, nghiên cứu đầy đủ hơn để có thể đạt được kết quả cao nhất. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm: Cung cấp thông tin hữu ích và cụ thể về việc sử dụng thuốc nói chung và sử dụng kháng sinh nói riêng, qua đó giúp Bệnh viện đưa ra khuyến cáo và định hướng cho những giai đoạn sắp tới. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Danh mục thuốc sử dụng của Bệnh viện Quân y 17 năm 2018. 2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu, dựa trên số liệu có sẵn của bệnh viện. - Cỡ mẫu: 928 khoản mục thuốc. - Xử lý và phân tích số liệu: Bằng phần mềm Microsoft excel 2020. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo nguồn gốc xuất xứ, đường dùng và phân tích ABC Về nguồn gốc, số khoản mục của nhóm thuốc sản xuất trong nước chiếm tỷ trọng cao hơn nhóm thuốc nhập khẩu. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng, tỷ trọng của nhóm thuốc nhập khẩu cao hơn nhóm thuốc sản xuất trong nước khoảng 1,5 lần. Về đường dùng, thuốc dùng đường uống chiếm gần 66% tổng số khoản mục và 61% tổng giá trị sử dụng. Thuốc tiêm, tiêm truyền chỉ chiếm khoảng 27% tổng số khoản mục thuốc nhưng chiếm đến hơn 37% tổng giá trị sử dụng. Các đường dùng khác chiếm tỷ trọng không đáng kể (bảng 1). Trong phân tích ABC, thuốc nhóm A, B, C lần lượt có số khoản mục thuốc chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% (bảng 2). T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 7 Bảng 1: Cơ cấu danh mục thuốc sử dụng theo nguồn gốc xuất xứ và đường dùng. Số khoản mục Giá trị sử dụng Nhóm thuốc n (khoản) % n (triệu đồng) % Sản xuất trong nước 498 53,66 13.760,03 38,10 Nguồn gốc, xuất xứ Nhập khẩu 430 46,34 22.356,37 61,90 Đường uống 612 65,95 21.979,88 60,86 Đường tiêm, tiêm truyền 252 27,15 13.426,39 37,17 Đường dùng Đường khác 64 6,90 710,13 1,97 Tổng 928 100,00 36.116,40 100,00 Bảng 2: Cơ cấu danh mục thuốc theo phân tích ABC. Số khoản mục Giá trị sử dụng Nhóm thuốc n (khoản) % n (triệu đồng) % A 134 14,44 28.865,35 79,92 B 168 18,10 5.435,15 15,05 C 626 67,46 1.815,90 5,03 Tổng 928 100,00 36.116,40 100,00 2. Cơ cấu danh mục thuốc hóa dược được sử dụng Bảng 3: Cơ cấu danh mục thuốc hóa dược được sử dụng theo nhóm biệt dược gốc/generic và nhóm thuốc đơn/đa thành phần. Số khoản mục Giá trị sử dụng Nhóm thuốc n (khoản) % n (triệu đồng) % Đơn thành phần 732 83,09 26.193,43 78,68 Đa thành phần 149 16,91 7.099,32 21,32 Biệt dược gốc 115 13,05 7.909,76 23,76 Thuốc generic 766 86,95 25.382,99 76,24 Tổng 881 100,00 33.292,75 100,00 Trong năm 2018, Bệnh viện Quân y 17 chủ yếu sử dụng thuốc hóa dược với gần 95% tổng số khoản mục thuốc và hơn 92% tổng giá trị sử dụng. Trong nhóm này, hơn 4/5 số khoản mục thuốc là thuốc đơn thành phần. Giá trị sử dụng của các thuốc đơn thành phần chiếm gần 79% giá trị của các thuốc hóa dược. Thuốc generic chiếm 86,95% tổng số khoản mục và 76,24% tổng giá trị sử dụng của nhóm thuốc hóa dược. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 8 3. Cơ cấu danh mục thuốc hóa dược theo một số nhóm tác dụng dược lý phân theo Thông tư 40/2014 TT-BYT Bảng 4: 8 nhóm dược lý có giá trị sử dụng cao nhất năm 2018. Số khoản mục Giá trị sử dụng Nhóm tác dụng dược lý n (khoản) % n (triệu đồng) B Thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn 165 18,73 7.943,86 23,86 Kháng sinh 130 100,00 7.533,95 100,00 Betalactam 59 45,38 5.301,59 70,37 Quinolon 26 20,00 1.360,33 18,06 Kháng sinh khác 45 34,62 872,03 11,57 Thuốc tim mạch 144 16,35 7.077,83 21,26 Thuốc đường tiêu hóa 120 13,62 4.250,29 12,77 Hormon và các thuốc tác động vào hệ nội tiết 57 9,28 3.774,87 11,34 NSAIDs, thuốc điều trị gout và các bệnh xương khớp 69 7,83 2.212,93 6,65 Thuốc tác dụng đối với máu 39 4,43 1.579,22 4,74 Dung dịch điều chỉnh nước, điện giải, cân bằng acid - base 46 5,22 1.561,77 4,69 Khoáng chất và vitamin 59 6,70 1.520,98 4,57 Tổng 881 100,00 33.292,75 100,00 Trong năm 2018, thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn là nhóm thuốc chiếm tỷ trọng số khoản mục thuốc và tỷ trọng giá trị sử dụng cao nhất nhóm thuốc hóa dược. Trong nhóm kháng sinh, betalactam là phân nhóm chiếm tỷ trọng cao nhất về giá trị sử dụng (> 70%) mặc dù chỉ chiếm khoảng 45% tổng số khoản mục kháng sinh được sử dụng. Xếp ở vị trí thứ 2 là nhóm thuốc tim mạch với tỷ trọng giá trị sử dụng xấp xỉ nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn (21,26% và 23,86%). Tiếp theo là nhóm thuốc đường tiêu hóa và nhóm các hormon và các thuốc tác động vào hệ nội tiết. Vitamin và khoáng chất cũng là một nhóm thuốc đáng chú ý vì số khoản mục cũng như giá trị sử dụng khá cao. BÀN LUẬN Số khoản mục thuốc nhập khẩu được Bệnh viện Quân y 17 sử dụng trong năm 2018 thấp hơn nhóm thuốc sản xuất trong nước nhưng giá trị sử dụng cao hơn 1,5 lần. Thuốc nhập khẩu được sử dụng với giá trị lớn cũng gặp ở nhiều cơ sở y tế khác, đặc biệt là ở các bệnh viện tuyến tỉnh/trung ương, bệnh viện hạng I, hạng đặc biệt và các bệnh viện chuyên khoa vì mức độ phức tạp và nặng của bệnh. Tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, thuốc nhập khẩu chiếm đến 71,6% tổng số khoản mục thuốc và 85,7% tổng giá trị sử dụng của các thuốc trong năm 2013, cao hơn kết quả từ Bệnh viện Quân y 17 [1]. Một số lý do khiến các thuốc nhập khẩu T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 9 vẫn đang được sử dụng với số lượng lớn và kinh phí cao ở nhiều cơ sở y tế, đó là: Thu nhập bình quân mỗi năm của người dân ngày càng tăng nên nhu cầu sử dụng các loại thuốc tốt và đắt tiền nhiều hơn, trong khi đó, các công ty dược trong nước chưa sản xuất được nhiều loại thuốc chuyên khoa có giá trị lớn nên thị trường thuốc trong nước còn phụ thuộc khá nhiều vào các nước khác. Do đặc điểm dễ sử dụng nên thuốc dùng đường uống được sử dụng rất rộng rãi, không chỉ ở các cơ sở y tế mà còn ở cả trong cộng đồng. Thuốc tiêm, tiêm truyền cần có cán bộ y tế tiêm và các vật tư y tế tiêu hao đi kèm (bông, kim tiêm) có giá thành cao hơn nên không được sử dụng nhiều bằng nhóm thuốc đường uống. Nhìn chung, 2 nhóm thuốc nói trên chiếm tỷ trọng cao trong danh mục thuốc sử dụng cả về số khoản mục lẫn giá trị sử dụng ở nhiều bệnh viện. Tại Bệnh viện Quân y 17, thuốc dùng đường uống chiếm gần 66% tổng số khoản mục và 61% tổng giá trị sử dụng trong khi thuốc tiêm, tiêm truyền chiếm khoảng 27% tổng số khoản mục và hơn 37% tổng giá trị sử dụng. Trong phân tích ABC, thông thường thuốc nhóm A chiếm 10 - 25%, nhóm B: 10 - 20% và nhóm C: 60 - 80% tổng số khoản mục thuốc. Trong năm 2018, tại Bệnh viện Quân y 17, số khoản mục thuốc nhóm A chiếm 14,44%, nhóm B: 18,10% và nhóm C: 67,46%. Như vậy, việc sử dụng thuốc của bệnh viện khi phân tích ABC là hợp lý, thể hiện việc mua sắm thuốc của bệnh viện không dàn trải quá mức cho nhiều khoản mục thuốc mà chỉ tập trung vào một số thuốc nhất định. Thêm vào đó, nhóm thuốc đơn thành phần và nhóm thuốc generic chiếm tỷ trọng cao trong danh mục thuốc sử dụng cũng là một thành công cần phát huy trong thời gian tới. Tương tự như nhiều bệnh viện khác, các nhóm thuốc xếp theo tác dụng dược lý chiếm tỷ trọng cao về số khoản mục và giá trị sử dụng tại Bệnh viện Quân y 17 là nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn, thuốc tim mạch và thuốc đường tiêu hoá, phù hợp với mô hình bệnh tật của bệnh viện khi bệnh nhân đến khám, chữa bệnh phần lớn là các bệnh của hệ tuần hoàn, tiêu hoá, nhiễm trùng. Trong năm 2018, nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn chiếm 18,73% tổng số khoản mục thuốc và 23,86% tổng kinh phí mua sắm thuốc của Bệnh viện Quân y 17. Nghiên cứu năm 2016 tại Bệnh viện Quân y 103 cho kết quả tương tự khi nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn chiếm 18,33% tổng số khoản mục và 25,28% tổng giá trị sử dụng của nhóm đối tượng bảo hiểm y tế [2]. Bên cạnh đó, vitamin và khoáng chất là một nhóm cần được quan tâm vì nguy cơ dễ bị lạm dụng do trong năm 2018, giá trị sử dụng của nhóm này lên đến hơn 1,5 tỷ đồng, chiếm gần 5% tổng kinh phí mua sắm thuốc của Bệnh viện Quân y 17. Trong năm 2018, 130 khoản mục kháng sinh đã được Bệnh viện Quân y 17 sử dụng với kinh phí lên đến hơn 7,5 tỷ đồng (gần 21% tổng kinh phí mua sắm thuốc). Betalactam chiếm hơn 45% số khoản mục và hơn 70% giá trị sử dụng của nhóm kháng sinh. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự: Tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, betalactam chiếm 55,4% tổng số khoản mục và 86% tổng giá trị sử dụng nhóm kháng sinh [3]. Tại Việt Nam, khoảng 88 - 97% các cửa hàng thuốc kê đơn kháng sinh mà không có đơn thuốc T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 10 của bác sĩ dù điều này bị cấm theo luật pháp Việt Nam. 1/3 số bệnh nhân nội trú sử dụng kháng sinh không hợp lý trong quá trình nhập viện [4]. Việc lạm dụng kháng sinh trong kê đơn và điều trị ở các cơ sở y tế khiến tình trạng kháng kháng sinh trở thành vấn đề báo động trên toàn cầu trong những năm gần đây [5, 6]. Ngày càng có nhiều loại bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, lao, lậu trở nên khó điều trị hơn [7]. Hàng loạt các chủng vi khuẩn kháng, đa kháng kháng sinh đã xuất hiện như Enterobacteriaceae kháng carbapenem, Enterococci kháng vancomycin [8]. Thậm chí trong thời gian gần đây, xuất hiện một số chủng vi khuẩn khi làm kháng sinh đồ, các kháng sinh dự trữ như colistin cũng không còn tác dụng. Trước thực trạng đáng báo động này, Bệnh viện Quân y 17 cũng như tất cả cơ sở y tế khác cần có biện pháp thiết thực và hữu hiệu trong công tác sử dụng kháng sinh, đặc biệt là kháng sinh dự trữ, tránh tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng thuốc. KẾT LUẬN Trong năm 2018, Bệnh viện Quân y 17 sử dụng nhiều khoản mục thuốc sản xuất trong nước hơn thuốc nhập khẩu nhưng thuốc nhập khẩu lại có giá trị sử dụng cao hơn (gấp hơn 1,5 lần). Thuốc uống chiếm khoảng 66% tổng số khoản mục thuốc và 61% tổng giá trị sử dụng trong khi thuốc tiêm, tiêm truyền lần lượt chiếm 27% và 37%. Trong phân tích ABC, thuốc nhóm A, B, C lần lượt chiếm 14,44%, 18,10% và 67,46% tổng số khoản mục thuốc. Bệnh viện chủ yếu sử dụng các thuốc hoá dược đơn thành phần và các thuốc generic. Nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn là nhóm thuốc có số khoản mục lẫn giá trị sử dụng cao nhất, trong đó chủ yếu là các betalactam và quinolon. Vitamin và khoáng chất là nhóm thuốc cần được kiểm soát trong sử dụng vì giá trị sử dụng khá lớn với hơn 1,5 tỷ đồng trong năm 2018. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lương Quang Anh, Chu Anh Tuấn, Nguyễn Như Lâm và CS. Đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng danh mục thuốc của Viện Bỏng Quốc gia năm 2013. Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng 2015; 4:44-51. 2. Đào Thị Khánh, Trần Thế Tăng, Phan Thị Hoà. Đánh giá việc sử dụng một số nhóm thuốc có chi phí lớn tại Bệnh viện Quân y 103 giai đoạn 2013 - 2016. Tạp chí Y Dược học Quân sự 2019; 7:3-8. 3. Hà Văn Thuý, Nguyễn Anh Phương, Lê Thu Thuỷ. Phân tích cơ cấu thuốc sử dụng tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội năm 2014. Tạp chí Dược học 2017; 495(S7):30-35. 4. WHO (2020). Kháng kháng sinh tại Việt Nam. Truy cập (ngày 16/07/2010) tại: https://www.who.int/vietnam/vi/health-topics/ antimicrobial-resistance. 5. Meek RW, Vyas H, Piddock LJ. Nonmedical uses of antibiotics: Time to restrict their use?. PLoS Biology 2015; 13(10):e1002266. 6. Ocan M, Obuku EA, Bwanga F, et al. Household antimicrobial self-medication: A systematic review and meta-analysis of the burden, risk factors and outcomes in developing countries. BMC Public Health 2015; 15(1):742. 7. Zaman SB, Hussain MA, Nye R, et al. A review on antibiotic resistance: Alarm bells are ringing. Cureus 2017; 9(6):e1403. 8. Ventola CL. The antibiotic resistance crisis: part 1: causes and threats. P&T: a Peer-reviewed Journal for Formulary Management 2015; 40(4):277-283.
File đính kèm:
co_cau_danh_muc_thuoc_su_dung_nam_2018_cua_benh_vien_quan_y.pdf

