Chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận: Nhìn lại vai trò FDI ở Việt Nam

Tóm tắt

Cùng với những thành quả thu được trong hơn ba thập niên mở cửa và thu hút đầu tư nước

ngoài, có một thách thức ngày càng nổi lên mà khu vực FDI đặt ra cho công tác quản lý thuế ở

Việt Nam đó là vấn nạn chuyển giá. Bên cạnh bản chất phức tạp của chuyển giá, những hạn

chế do năng lực, tổ chức quản lý thuế cùng các yếu kém khác trên phương diện thể chế và chính

sách của Việt Nam đã làm cho công tác chống chuyển giá ở Việt Nam gặp rất nhiều trở ngại.

Bài viết này sẽ phân tích một số khó khăn và thách thức chủ yếu trong công tác chống chuyển

giá ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản giúp ngăn ngừa và hạn chế hành động

chuyển giá2, đồng thời hỗ trợ cho công tác đấu tranh chống chuyển giá của các cơ quan thuế

Việt Nam.

pdf 39 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận: Nhìn lại vai trò FDI ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận: Nhìn lại vai trò FDI ở Việt Nam

Chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận: Nhìn lại vai trò FDI ở Việt Nam
1 
Chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận: 
Nhìn lại vai trò FDI ở Việt Nam1 
Đỗ Thiên Anh Tuấn 
Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright 
Đại học Fulbright Việt Nam 
Tóm tắt 
Cùng với những thành quả thu được trong hơn ba thập niên mở cửa và thu hút đầu tư nước 
ngoài, có một thách thức ngày càng nổi lên mà khu vực FDI đặt ra cho công tác quản lý thuế ở 
Việt Nam đó là vấn nạn chuyển giá. Bên cạnh bản chất phức tạp của chuyển giá, những hạn 
chế do năng lực, tổ chức quản lý thuế cùng các yếu kém khác trên phương diện thể chế và chính 
sách của Việt Nam đã làm cho công tác chống chuyển giá ở Việt Nam gặp rất nhiều trở ngại. 
Bài viết này sẽ phân tích một số khó khăn và thách thức chủ yếu trong công tác chống chuyển 
giá ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản giúp ngăn ngừa và hạn chế hành động 
chuyển giá2, đồng thời hỗ trợ cho công tác đấu tranh chống chuyển giá của các cơ quan thuế 
Việt Nam. 
Từ khóa: tránh thuế, chuyển giá, nơi trú ẩn thuế, FDI, MNCs 
1
 Bài viết này được chuẩn bị theo lời mời của Kiểm toán Nhà nước cho Hội thảo “Chuyển giá – Những vấn đề đặt ra trong 
công tác quản lý hiện nay” dự kiến được tổ chức vào tháng 7 năm 2018 tại Hà Nội. Bài viết đang ở dạng bản thảo để thảo 
luận và hoàn thiện. Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại học Fulbright 
Việt Nam cũng như Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright. Đề nghị không được phép trích dẫn hay chia sẻ nếu như 
không được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả. 
2
 Hành vi chuyển giá không phải chỉ có ở những doanh nghiệp FDI, các tập đoàn MNCs mà ngay chính các doanh nghiệp 
nội địa trong nước cũng có chuyển giá. Tuy nhiên, bài viết này chủ yếu phân tích đối tượng DN FDI. 
2 
1. Giới thiệu bối cảnh 
Chuyển giá hiện nay không còn là câu chuyện riêng hay đơn lẻ của từng quốc gia, nó đã là 
vấn đề mang tính hệ thống và toàn cầu, liên quan đến hầu hết các nước, từ nước đang phát 
triển, mới nổi cho đến các nước đã phát triển, kể cả các nước thuộc khối OECD. Ở Hoa Kỳ, 
chuyển giá được xem là một trong những thách thức quan trọng nhất của cơ quan thuế nội địa 
IRS.3 Không riêng ở Mỹ, hầu như tất cả các cơ quan thuế ở các nước OECD cũng đang phải 
đau đầu chống lại các hoạt động chuyển giá đang ngày càng nghiêm trọng và phổ biến. Do tính 
chất phức tạp và tác động tiêu cực của chuyển giá, từ rất sớm, năm 1979 tổ chức OECD đã ban 
hành bản Hướng dẫn chuyển giá dành cho các công ty đa quốc gia và quản lý thuế. Đến nay 
bản hướng dẫn này đã trải qua rất nhiều lần được cập nhật, điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh 
mới, trong đó phiên bản mới nhất vừa được ban hành vào năm 2017. Tại Hội nghị thượng đỉnh 
G20 ở Los Cabos (Mexico) năm 2012, trong tuyên bố cuối cùng của mình, các lãnh đạo G20 
đã đề cập đến sự cần thiết phải có các chương trình hành động nhằm ngăn chặn sự xói mòn cơ 
sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) và giao cho OECD xây dựng chương trình hành động 
này. Năm 2013, các lãnh đạo G20 đã thông qua Chương trình hành động BEPS tại Hội nghị 
thượng định ở St. Petersburg, Liên bang Nga. Một chương trình hành động chi tiết của BEPS 
bao gồm 15 hành động cụ thể cũng đã được nhất trí thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh G20 ở 
Antalya (Thổ Nhỉ Kỳ) năm 2015. 
Ở các nước ngoài khối OECD, đặc biệt là các nước đang phát triển và chuyển đổi, chuyển 
giá cũng là một vấn nạn đặt ra nhiều thách thức không kém đối với các cơ quan thuế. Do môi 
trường thuế ở những nước này nói chung còn kém minh bạch, tệ nạn tham nhũng và hối lộ khá 
phổ biến, đặc biệt trong ngành thuế. Bên cạnh đó, chất lượng thể chế và chính sách ở các nước 
đang phát triển còn nhiều bất cập, năng lực của đội ngũ quản lý thuế còn nhiều hạn chế. Đặc 
biệt, thuế suất thuế thu nhập cao được cho là một trong những lý do quan trọng khiến cho các 
doanh nghiệp nước ngoài, bao gồm các MNCs, tìm cách để chuyển giá. Mặc dù nhiều nước đã 
cắt giảm thuế suất thuế thu nhập để tăng tính cạnh tranh và hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, 
đồng thời giảm động cơ chuyển giá, tuy nhiên không có một cơ chế ưu đãi thuế nào đủ hấp dẫn 
hơn các nơi trú ẩn thuế ở hải ngoại. Điều đáng ngại là cuộc đua cắt giảm thuế có nguy cơ làm 
xói mòn nghiêm trọng cơ sở thuế của các nước, ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu ngân sách, 
nhu chi tiêu của chính phủ, thực hiện các chính sách phúc lợi và kiểm soát nợ công của nhiều 
nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung, đặc biệt là 
các MNCs trong việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng kim ngạch xuất 
khẩu, cải thiện cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, kể cả việc thực hiện các trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp (CSR) tại nước sở tại, song hành vi gian lận thuế, tránh thuế, chuyển giá của 
các DN FDI gặp phải sự phê phán của rất nhiều nước. 
Trong cuộc chiến chống chuyển giá, mâu thuẫn nảy sinh không chỉ giữa cơ quan thuế với 
doanh nghiệp, tập đoàn MNCs, mà đằng sau đó còn là giữa chính phủ các nước với nhau. Để 
bảo vệ lợi ích cho các tập đoàn của mình, đôi khi cơ quan thuế ở một số nước không muốn hợp 
tác để chia sẻ thông tin và phối hợp điều tra. Điều này vô hình trung là đã dung túng cho hành 
vi chuyển giá của doanh nghiệp. Điều đáng nói là đang có một sự mất cân bằng quyền lực giữa 
cơ quan thuế các nước. Sự mất cân bằng quyền lực được tạo ra khi cơ quan thuế ở một nước 
có nhiều thông tin hơn hoặc tốt hơn, nhiều nguồn lực và nhân lực chuyên nghiệp hơn, kể cả 
quyền lực chính trị nhiều hơn nước khác. Do sự mất cân bằng quyền lực này mà các tập đoàn 
MNCs thường có động cơ dịch chuyển lợi nhuận và nghĩa vụ thuế sang các nước phát triển 
nhằm tránh các rủi ro tranh chấp pháp lý với cơ quan thuế được đánh giá có chuyên môn tốt và 
3
 C Mortished, ‘GSK settles largest tax dispute in history for $3.1bn’ The Times, September 12, 2006, 
www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/health/article635994.ece. 
3 
rất tích cực trong việc chống lại các hành vi chuyển giá ở nước đó.4 Tuy nhiên, điều này không 
có nghĩa là các nước đang phát triển có thể tránh được các hành vi chuyển giá của các MNCs, 
đặc biệt trong bối cảnh các nơi trú ẩn thuế ở hải ngoại ngày càng phổ biến. 
Ở các nước đang phát triển, các thách thức cũng không kém phần nghiêm trọng. Các nước 
này vừa muốn thu hút đầu tư nước ngoài thật nhiều, vừa muốn có nguồn thu thuế để tài trợ cho 
các nhu cầu đầu tư phát triển và các mất cân đối ngân sách triền miên. Tuy nhiên, do hệ thống 
thuế có nhiều bất cập và năng lực quản lý thuế hạn chế đã khiến cho nguồn thu thuế của các 
nước đang phát triển luôn bị thất thoát do các hành vi gian lận thuế, tránh thuế, chuyển giá làm 
xói mòn cơ sở thuế. Mặc dù có một số thách thức khác nhau nhưng có một điểm chung giữa 
hai nhóm nước phát triển và đang phát triển đó là cả hai cùng đều tập trung sự quan tâm của 
mình vào các nơi trú ẩn thuế ở hải ngoại. Nơi trú ẩn thuế (ở Việt Nam thường gọi là thiên 
đường thuế – tax heavens) được định nghĩa là một quốc gia hay một nơi có thuế suất thấp, do 
đó người dân chọn sống hoặc đăng ký thành lập công ty ở đó nhằm tránh phải nộp thuế cao ở 
đất nước của họ.5 Ngày nay, các nơi trú ẩn thuế ở hải ngoại rất phổ biến và đang là mối bận 
tâm của rất nhiều nước, từ các nước thuộc khối OECD cho đến các nước đang phát triển. Các 
nơi trú ẩn thuế này hầu như không hợp tác thuế hoặc chia sẻ thông tin cho quốc gia khác khiến 
cho công tác điều tra chống chuyển giá luôn bị bế tắc. 
Bảng 1. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (CIT) ở một số nước châu Á 
Nguồn: Tổng hợp của tác giả 
Hiện chưa có ước tính nào đầy đủ về những thiệt hại kinh tế của hoạt động chuyển giá gây 
ra trên phạm vi toàn cầu cũng như ở từng quốc gia. Một nghiên cứu công bố năm 2012 của 
Mạng lưới Công lý Thuế (Tax Justice Network) cho thấy tổng tài sản mà giới siêu giàu trên thế 
giới che giấu ở các nơi trú ẩn thuế tinh đến cuối năm 2010 ít nhất là từ 21.000 tỉ USD đến 
32.000 tỉ USD. Với giả định mà Mạng lưới Công lý Thuế sử dụng, đó là suất sinh lợi của tài 
sản 3% và thuế lợi tức 30% thì với số tài sản bị che đậy này có thể mang lại khoản thuế thu 
nhập từ 190-280 tỉ USD cho các quốc gia.6 Tương tự, nghiên cứu của Gabriel Zucman (2014) 
sử dụng nhiều phương pháp ước tính khác nhau cũng cho thấy số thuế bị tổn thất năm 2013 là 
khoảng 190 tỉ USD. Ngoài các ước tính này còn nhiều ước tính khác ở phạm vi toàn cầu hoặc 
từng quốc gia, trong đó có những ước tính cho thấy các tổn thất thuế do các hành vi tránh thuế 
4
 Cơ quan thuế ở các nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Nhật Bản, Anh, Pháp và một số nước Mỹ Latinh được xem là rất tích 
cực trong hoạt động chống chuyển giá. Thông tin này được thu thập từ các cuộc phỏng vấn không chính thức với các quan 
chức thuế cao cấp từ các MNCs lớn và các chuyên gia chuyển giá từ các công ty kế toán thuộc nhóm Big Four. 
www.oecdobserver.org/news/fullstory.php/aid/3132/Corporate_responsibility_and_paying_tax.html. 
5
 Theo từ điển Collins “Tax haven definition and meaning”. 
6
 Tax Justice Network (22 July 2012) "Revealed: Global super-rich has at least $21 trillion hidden in secret tax havens". 
4 
gây ra thực tế không nghiêm trọng như người ta nghĩ (Deloitte 2009)7. Tuy nhiên dù được ước 
tính ở góc độ nào thì mức độ tin cậy của những báo cáo như vậy vẫn rất thấp. Lý do là vì các 
hành vi trốn thuế, tránh thuế, chuyển giá rất phức tạp, các số liệu luôn bị che đậy và biến tướng 
không dễ truy xuất, trong khi các ước tính chỉ trên cơ sở những con số khái quát cùng với các 
giả định thường rất thiếu cơ sở. 
Bảng 2. Thuế suất thuế TNDN ở các nước OECD 
Nguồn: Tổng hợp của tác giả 
Ở Việt Nam, vấn nạn chuyển giá trong khu vực FDI đang thu hút sự quan tâm lớn của 
Chính phủ, cơ quan thuế cũng như của dư luận. Tổng hợp các báo cáo của Tổng cục thuế từ 
năm 2011 đến 2017 cho thấy trong giai đoạn này cơ quan thuế đã tiến hành thanh tra tại hơn 
13.500 lượt DN FDI. Kết quả thanh tra cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp vi phạm các quy định về 
thuế nói chung và chuyển giá nói riêng là rất lớn. Kết quả thanh tra, kiểm tra đã giúp cơ quan 
thuế ra các quyết định xử lý với số tiền giảm lỗ lên đến gần 32.400 tỉ đồng; riêng số thuế truy 
thu, truy hoàn, xử phạt lên đến gần 10.000 tỉ đồng. Theo nhiều nhận định, đây chỉ là bề nổi của 
hiện tượng tránh thuế và chuyển giá ở Việt Nam. Hiện có rất nhiều nghi vấn chuyển giá đã 
được dư luận nói đến hoặc chưa được đề cập nhưng việc đấu tranh với các doanh nghiệp có 
nghi vấn này gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Bài viết này sẽ phân tích các đặc điểm của 
chuyển giá, phân tích các thách chuyển giá ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang 
phát triển, thảo luận một số khó khăn trong công tác chống chuyển giá ở Việt Nam, từ đó đưa 
ra một số giải pháp chính sách nhằm giảm thiểu hành vi chuyển giá và hỗ trợ cho công tác đấu 
tranh chống chuyển giá của cơ quan thuế Việt Nam. 
2. Khái niệm chuyển giá 
2.1. Hiểu về nguyên tắc “Arm’s Length Priciple” (ALP) 
Nguyên tắc “Arm’s Length Principle” (ALP), tạm dịch là nguyên tắc độc lập, là điều kiện 
mà ở đó các bên tham gia giao dịch được cho là cần phải có sự độc lập và bình đẳng, không có 
sự chi phối hay ảnh hưởng lên nhau để đảm bảo rằng các giao dịch giữa các bên đó được tiến 
hành một cách thực chất theo các chuẩn mực của thị trường cạnh tranh. Nói cách khác, theo 
nguyên tắc ALP, giá chuyển nhượng của một loại hàng hóa, dịch vụ giữa hai doanh nghiệp có 
liên quan phải tương đương với giá chuyển nhượng của loại hàng hóa, dịch vụ đó khi được 
thực hiện giữa hai doanh nghiệp độc lập trên một thị trường có tính cạnh tranh. Nguyên tắc 
7
 Xem báo cáo “Tax haven report lays emphasis on vital role of Crown Dependencies” của Deloitte (2009) trên The Times 
tại https://www.thetimes.co.uk/article/tax-haven-report-lays-emphasis-on-vital-role-of-crown-dependencies-bw8jb8ltwkx. 
5 
ALP được xem là cơ sở quan trọng để xác định mức giá chuyển giao phù hợp được chấp nhận 
trong các giao dịch có liên kết. Nói khác đi, theo nguyên tắc ALP, một mức giá giao dịch được 
xem là phù hợp nếu mức giá đó nằm trong một giới hạn giá hay khoảng giá được xác định bởi 
các giao dịch độc lập tương tự. Nghĩa là mức giá của một giao dịch liên kết được chấp nhận 
khi nó tương đương với mức giá mà một người mua độc lập trả cho một người bán độc lập cho 
một mặt hàng giống hệt nhau theo các điều khoản về điều kiện giống hệt nhau mà không có sự 
cưỡng ép hay áp đặt nào. 
Do tầm quan trọng của mình, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã thông qua 
nguyên tắc ALP trong Công ước thuế mẫu (Model Tax Convention) nhằm cung cấp khuôn khổ 
pháp lý cho chính phủ các nước làm cơ sở xác định giá chuyển nhượng giữa các công ty con 
thuộc tập đoàn đa quốc gia. Theo định nghĩa tại Chương 1, đoạn 1 của Điều 9 Công ước thuế 
mẫu của OECD: “[Khi] các ràng buộc được tạo ra hoặc được thiết lập giữa hai doanh nghiệp 
[có liên kết] trong các quan hệ tài chính hoặc thương mại có sự sai khác với các quan hệ khi 
được thiết lập giữa các doanh nghiệp độc lập, thì bất kỳ khoản lợi nhuận nào phát sinh, mà lẽ 
ra phải được tích lũy vào một trong những doanh nghiệp đó nhưng do các ràng buộc này mà 
đã không được tích lũy, thì có thể được tính vào lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh 
thuế tương ứng. Ngày nay, nguyên tắc ALP đã trở thành một tiêu chuẩn quốc tế được tất cả các 
nước OECD và cả nhiều nước không thuộc khối OECD áp dụng nhằm kiểm soát các giao dịch 
liên quan. Mục đích của nguyên tắc ALP là phân bổ hợp lý các cơ sở thuế của MNCs giữa các 
quốc gia mà họ hoạt động nhưng đảm bảo tránh đánh thuế hai lần.8 
2.2. Khái niệm chuyển giá (transfer pricing) 
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với các hàng hoá, dịch vụ cũng 
như tài sản được giao dịch giữa các thành viên trong một tập đoàn hoặc giữa các công ty có 
mối liên kết với nhau không theo các tiêu chuẩn giá thị trường nhằm tối thiểu hoá số thuế thu 
nhập phải nộp của tập đoàn hay nhóm công ty liên kết đó. Nói khác khác, chuyển giá là việc 
định giá các giao dịch giữa các bên liên quan theo nguyên tắc độc lập ALP, ví dụ như các công 
ty mẹ và công ty con trong một nhóm các công ty được kiểm soát thuộc cùng một tập đoàn 
hoặc giữa các công ty có mối liên kết nào đó về mặt sở hữu hoặc quản lý. Các giao dịch có thể 
bao gồm giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ, tài sản hữu hình, tài sản vô hình, cung cấp vốn 
và tài chính, phân bổ hay chia sẻ chi phí, v.v 
Các MNCs thường có trụ sở kinh doanh cũng như có nhiều công ty con hoặc công ty liên 
kết ở nhiều quốc gia trên thế giới. Các hoạt động sản xuất, phân phối và bán hàng của các 
MNCs thường liên quan đến nhiều công ty ở nhiều quốc gia thuộc tập đoàn thực hiện. Vấn đề 
thách thức là làm sao để phân bổ chi phí sản xuất cũng như doanh thu và lợi nhuận của tập 
đoàn cho các công ty thành viên và công ty liên kết. Về mặt hạch toán và thực hiện nghĩa vụ 
thuế, đòi hỏi cần phải phân tách các khoản mục doanh thu, chi phí và lợi nhuận giữa các quốc 
gia và giữa các pháp nhân khác nhau. 
Thông thường các gia ... u này là phổ biến và 
lâu dài thì sẽ làm cho nền kinh tế bị tụt lại phía sau so với các nền kinh tế khác. Thay vào đó, 
cần phải thống nhất quan điểm rằng sự ra đời của các mô thức kinh doanh mới là một xu hướng 
tất yếu và trong hầu hết trường hợp là tích cực. Nhà nước cần phải ủng hộ xu hướng đó, đồng 
thời phải thúc đẩy quá trình tự nâng cấp mình. Đối với cơ quan thuế cũng như vậy. Năng lực 
thiết kế và thực thi các chính sách quản lý thuế cũng cần phải không ngừng được cập nhật và 
tự nâng cấp để có thể đáp ứng được yêu cầu trong mọi tình huống và bối cảnh mới. 
10.6. Hoàn thiện chuẩn mực kế toán Việt Nam 
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được xây dựng và hoàn thiện dựa trên và 
hướng đến các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và hệ thống báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). 
Tuy nhiên, do được vận dụng có chọn lọc để phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của 
nền kinh tế nên vẫn còn nhiều khiếm khuyết và chưa thống nhất với chuẩn mực kế toán của 
quốc tế. Những khiếm khuyết hay sự thiếu hòa hợp này gây ra nhiều điểm mù, khó hiểu, bất 
tiện trong quá trình tổ chức hạch toán kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Do có 
những khác biệt về quan điểm và nguyên tắc kế toán nên đương nhiên các báo cáo về lợi nhuận 
cũng khó tránh khỏi sự sai khác. Điều này có thể gây ra một số tranh cãi không cần thiết giữa 
cơ quan thuế với doanh nghiệp, làm tăng chi phí tuân thủ thuế và cả chi phí quản lý thuế. Do 
ngày càng nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở Việt Nam, trong đó có rất nhiều công ty đa 
quốc gia và công ty xuyên quốc gia nên việc hòa hợp các chuẩn mực kế toán trong nước với 
quốc tế là một yêu cầu quan trọng phù hợp với xu thế hội nhập đang hết sức sâu rộng hiện nay 
ở Việt Nam. 
10.7. Khuyến khích minh bạch, trách nhiệm công vụ và chế tài hữu hiệu 
Minh bạch trong công tác quản lý thuế nói chung, đặc biệt là công tác hành thu thuế sẽ giúp 
giảm được các hành vi gian lận thuế do sự thông đồng thuế gây ra. Các nhân viên quản lý thuế 
có một quyền năng nhất định đối với người nộp thuế và do vậy dễ bị lạm dụng để trục lợi cá 
nhân. Ở Việt Nam không thiếu các trường hợp đã được phát hiện và xử lý như việc nhân viên 
thuế thông đồng với doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế 
và bỏ túi phần còn lại. Điều này làm suy giảm niềm tin vào sự liêm chính và công bằng của hệ 
thống thuế, khuyến khích các hành vi gian lận thuế. 
10.8. Giảm chi phí tuân thủ thuế và chế tài hữu hiệu 
Chi phí tuân thủ thuế quá cao cũng là một yếu tố làm giảm động cơ tuân thủ thuế của doanh 
nghiệp. Trong rất nhiều trường hợp, để tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ thuế doanh nghiệp phải bỏ ra 
36 
khá nhiều chi phí chính thức lẫn không chính thức, bao gồm cả chi phí thời gian. Chính vì vậy, 
nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn đánh đổi, tức chấp nhận không tuân thủ thuế để tiết kiệm các 
khoản chi phí này. Hành vi này còn được “khuyến khích” bởi mức chế tài cho các hành vi 
không tuân thủ thuế còn thấp. Xác xuất bị phát hiện là thấp, nếu bị phát hiện thì xác suất bị 
phạt cũng thấp, rồi nếu bị phạt thì mức phạt cũng thấp nên giá trị tổn thất do hành vi vi phạm 
thuế của doanh nghiệp lại càng rất thấp. Chính vì vậy, động cơ thông thường là không tuân thủ 
thuế và chấp nhận bị phạt nếu bị phát hiện. Đối với hành vi chuyển giá cũng như vậy. Để giảm 
động cơ chuyển giá, một mặt cần phải giảm chi phí tuân thủ thuế cho doanh nghiệp, ví dụ như 
giảm các thủ tục, quy định rườm rà và phức tạp; giảm thời gian kê khai và nộp thuế cho doanh 
nghiệp. Đồng thời, chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế cũng cần được tăng 
cường. Chế tài phải đủ mức răn đe và trừng phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm, đồng 
thời có ý nghĩa ngăn ngừa các hành vi dự kiến vi phạm. 
10.9. Sử dụng quy tắc bến cảng an toàn (safe harbours) 
Tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia áp dụng quy tắc “bến cảng an toàn”, Việt 
Nam cũng có thể xây dựng một số tiêu chí để khuyến khích các hành vi tuân thủ thuế tốt của 
doanh nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp đáp ứng một số tiêu chí hay điều kiện có thể được 
lựa chọn một phương pháp nộp thuế nhất định đơn giản như kê khai một mức lợi nhuận nằm 
trong một khoảng cho phép, hoặc một tỷ lệ lợi nhuận trên vốn hay doanh thu. Điều này vừa 
giúp giảm chi phí tuân thủ thuế của doanh nghiệp vừa giảm chi phí quản lý thuế của cơ quan 
thuế. Theo nguyên tắc, các doanh nghiệp có quyền lựa chọn sử dụng quy tắc này nhưng cơ 
quan thuế cũng bảo lưu quyền từ chối các trường hợp doanh nghiệp không đủ điều kiện sử 
dụng quy tắc hoặc cũng có thể yêu cầu một số doanh nghiệp áp dụng quy tắc này. 
Hình 16. 15 hành động BEPS của OECD 
10.10. Mở rộng và khuyến khích áp dụng APA 
Mặc dù bản thân nguyên tắc APA vẫn có nhiều hạn chế nhất định nhưng đây vẫn là một 
trong số ít những phương thức được áp dụng phổ biến ở rất nhiều nước nhằm hạn chế hành vi 
chuyển giá của các DN FDI, đặc biệt là các tập đoàn MNCs. Ở Việt Nam, từ năm 2013, Bộ Tài 
chính đã ban hành Thông tư 201/2013/TT-BTC hướng dẫn áp dụng APA trong quản lý thuế. 
Từ thực tiễn áp dụng thời gian qua đã nảy sinh một số hạn chế như được thảo luận ở một số 
diễn đàn. Dù được ban hành từ cách đây 5 năm nhưng do là nguyên tắc tự nguyện nên số doanh 
nghiệp áp dụng APA với cơ quan thuế hiện vẫn còn rất ít so với số lượng hàng chục nghìn DN 
FDI đang hoạt động ở Việt Nam. Có một số lý do khiến cho doanh nghiệp chưa mạnh dạn tham 
gia APA đó là thủ tục và quy trình đàm phán APA phức tạp và kéo dài, gây tốn kém thời gian 
và chi phí nhưng hiệu quả không rõ ràng; doanh nghiệp cân nhắc giữa lợi ích và chi phí của 
Action 1:
Giải quyết các thách thức của nền 
kinh tế số
Action 2:
Thỏa thuận trung hòa nghĩa vụ thuế
Action 3:
Tăng cường giám sát công ty đầu tư 
ra nước ngoài
(CFC rules)
Action 4: 
Giới hạn khấu trừ lãi vay, xói mòn 
cơ sở thuế và các công cụ tài chính
Action 5: 
Ứng xử với các quy tắc thuế tiêu 
cực một cách hữu hiệu hơn, khuyến 
khích tính minh bạch và thực chất
Action 6: 
Ngăn chặn việc lạm dụng hiệp định
Action 7: 
Ngăn chặn giả tạo hồ sơ thường trú
Action 8: 
Phát triển các quy tắc nhằm ngăn 
chặn BEPS thông qua việc dịch 
chuyển giá trị tài sản vô hình giữa 
các thành viên tập đoàn
Action 9: 
Phát triển các quy tắc nhằm ngăn 
chặn BEPS thông qua việc dịch 
chuyển rủi ro hoặc phân bổ lại vốn 
thặng dư giữa các thành viên tập 
đoàn
Action 10:
Phát triển các quy tắc nhằm ngăn 
chặn BEPS thông qua việc thiết lập 
các giao dịch không hoặc rất hiếm 
khi xảy ra với bên thứ ba
Action 11: 
Thiết lập các phương pháp luận để 
thu thập và phân tích dữ liệu về 
BEPS và các hành động giải quyết
Action 12: 
Yêu cầu công bố thông tin một cách 
đầy đủ 
Action 13: 
Tái xem xét các tài liệu, hồ sơ 
chuyển giá, thiết lập các giải trình 
Action 14: 
Thiết lập cơ chế giải quyết khiếu nại 
một cách hiệu quả
Action 15: 
Thiết lập các cơ chế và công cụ đa 
phương
37 
APA và họ thấy chưa có lợi để tham gia; vấn đề bảo mật thông tin cũng là điều khiến doanh 
nghiệp hết sức e ngại, v.v Ngay cả bản thân cơ quan thuế cũng gặp phải một số khó khăn, ví 
dụ như năng lực và kinh nghiệm đàm phán của cán bộ thuế còn yếu, thiếu khuôn khổ hợp tác 
với cơ quan thuế các nước, vấn đề tham nhũng và đạo đức của cán bộ thuế Để mở rộng và 
khuyến khích áp dụng APA, từ phía các cơ quan thuế cần nỗ lực khắc phục các hạn chế từ phía 
nội tại của mình. Đối với các DN FDI cần có chính sách khuyến khích tham gia APA bằng các 
lợi ích cụ thể, giảm chi phí tuân thủ. 
10.11. Tổ chức tốt hệ thống cơ sở dữ liệu thuế, tài chính, kinh tế 
Cơ quan thuế cần tăng cường đầu tư mạnh cho việc nâng cấp và hoàn thiện hệ thống cơ sở 
dữ liệu về người nộp thuế nói chung, các dữ liệu phục vụ cho công tác điều tra chống chuyển 
giá nói riêng. Điều quan trọng là cần phải đảm bảo hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng và 
vận hành trên một nền tảng công nghệ hiện đại với một tầm nhìn dài hạn vài chục năm tới. Cơ 
sở dữ liệu cần đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất trong toàn hệ thống, có khả năng tương 
thích và tích hợp với cơ sở dữ liệu của các cơ quan khác như Tổng cục Hải quan, Tổng cục 
Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công thương, v.v Mặc dù khả năng tích hợp được cơ 
sở dữ liệu với các cơ quan khác sẽ gặp khó khăn do hệ thống cơ sở dữ liệu ở các cơ quan nhà 
nước thường không thống nhất. Tuy nhiên trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh thực hiện 
đề án chính phủ điện tử thì sự tích hợp dữ liệu sớm muộn cũng sẽ phải được thực thi. Ngoài ra, 
cần chủ động hợp tác với các công ty chuyên cung cấp cơ sở dữ liệu lớn trên thế giới như Dun 
& Bradstreet; các công ty xếp hạng tín nhiệm như S&P, Moody’s, Fitch; các công ty kiểm toán 
lớn của thế giới như Deloitte, PwC, EY, KPMG, Arthur Andersen, v.v 
10.12. Thiết lập thêm các bộ phận chuyên trách về chống chuyển giá ở các địa phương/vùng 
Ngoài bốn bộ phận chuyên trách chống chuyển giá đã được thiết lập ở bốn cục thuế thuộc 
bốn địa phương (Hà Nội, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương), Bộ Tài chính cũng cần cân nhắc 
thành lập thêm các bộ phận chuyên trách tương tự như vậy ở các địa phương khác cũng có số 
lượng và quy mô DN FDI lớn và phức tạp như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Long An tùy 
theo nhu cầu và thách thức thực tế của từng địa phương. Xây dựng quy chế và quy trình làm 
việc cụ thể, tăng cường thẩm quyền và trách nhiệm của bộ phận chuyên trách phù hợp với tính 
chất phức tạp và nhạy cảm của công việc. Điều cũng không kém phần quan trọng là các bộ 
phận này ở các địa phương khác nhau có thể cùng phối hợp, hợp tác trong một số hoạt động 
đấu tranh chống chuyển giá, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. 
10.13. Nâng cao năng lực cho cán bộ thuế, trao thêm thẩm quyền và trách nhiệm giải trình 
Cần có chiến lược nâng cao năng lực cho cán bộ thuế nói chung, cả cán bộ thuế chuyên 
trách chống chuyển giá lẫn không chuyên trách. Thực hiện đào tạo, đào tạo lại kiến thức chuyển 
giá cho cán bộ thuế một cách định kỳ, thường xuyên cập nhật các hành vi và xu hướng chuyển 
giá trên thế giới và cả ở Việt Nam. Hợp tác với các trường đại học uy tín, các công ty kiểm 
toán lớn có kinh nghiệm để đào tạo và bổ sung kiến thức cho cán bộ thuế. Chọn lựa những cán 
bộ có tiềm năng đi đào tạo ở nước ngoài, tham gia các khóa học ngắn hạn về quản lý thuế và 
chuyển giá ở các nước trên thế giới, đặc biệt ở Hoa Kỳ và châu Âu. Khuyến khích và tạo điều 
kiện cho các bộ thuế tham gia các diễn đàn, hội thảo trong nước và quốc tế có liên quan đến 
chuyển giá để có thêm hiểu biết và kinh nghiệm cần thiết. Ngoài năng lực chuyên môn về 
chuyển giá, các cán bộ thuế cũng cần được trang bị các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, 
đàm phán, thương lượng, kỹ năng giải quyết vấn đề, giải quyết tranh chấp; cập nhật, bồi dưỡng 
các kiến thức về kinh tế vĩ mô, kinh tế ngành, trình độ ngoại ngữ 
Cơ quan thuế cũng cần được trao thêm thẩm quyền điều tra hành vi gian lận thuế ngoài 
thẩm quyền thanh tra, kiểm tra thuế hiện nay. Đi kèm với thẩm quyền được tăng cường thì 
38 
trách nhiệm giải trình của cơ quan thuế cũng cần được nâng lên tương xứng để tránh lạm quyền, 
đảm bảo việc thực thi đúng trách nhiệm công vụ, minh bạch và tránh vụ lợi. 
10.14. Hợp tác chống chuyển giá 
Chính phủ, Bộ Tài chính cũng như cơ quan thuế Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với Chính 
phủ, Bộ Tài chính và cơ quan thuế các nước trong công tác chống chuyển giá trên nguyên tắc 
bảo vệ lợi ích quốc gia và hài hòa lợi ích của các bên có quyền và lợi ích liên quan. Các khuôn 
khổ hợp tác cần được thiết lập một cách bài bản, từ tầm nhìn, chiến lược cho đến các chương 
trình và kế hoạch hành động hợp tác cụ thể. Ngoài việc hợp tác với cơ quan thuế các nước theo 
các hiệp định hợp tác chống chuyển giá chính thức, cơ quan thuế Việt Nam cũng cần chủ động 
hợp tác với các chuyên gia thuế quốc tế có kinh nghiệm và uy tín trong một số tình huống phức 
tạp; đặc biệt có thể hợp tác với các công ty kiểm toán lớn như KPMP, EY, PwC, Deloitte 
nhằm nhận được sự hỗ trợ về mặt chuyên môn, nhân lực, kỹ thuật, thông tin từ các đối tác 
có kinh nghiệm này. 
10.15. Nguồn lực cho chống chuyển giá 
Chống chuyển giá làm tiêu tốn nguồn lực đáng kể cho các cơ quan thuế, do vậy cần phải 
có nguồn lực bổ sung để tài trợ cho công tác này. Nguồn lực để tài trợ cho công tác chống 
chuyển giá đương nhiên phải do ngân sách nhà nước tài trợ thông qua kinh phí hoạt động của 
cơ quan thuế. Nguồn lực này thường không đủ để trang trải các chi phí và trong nhiều trường 
hợp nó là lý do làm cho công tác chống chuyển giá bị ách tắc, không hiệu quả. Để khuyến 
khích hiệu quả, Chính phủ nên cân nhắc trích một phần nguồn truy thu thuế được phát hiện từ 
chính các hành vi chuyển giá để bổ sung nguồn kinh phí cho công tác chống chuyển giá. Nguồn 
tiền này dùng để mua cơ sở dữ liệu, trả phí thuê tư vấn, chuyên gia thuế, chuyên gia luật và bổ 
sung thu nhập cho đội ngũ chuyên trách. 
39 
Tài liệu tham khảo 
Andrew Lymer and John Hasseldine (2002), ‘The International Taxation System’, Kluwer 
Academic Publishers. 
Arun Saripalli and Gaurav Haldia (2016), Location Savings – Basic concept and guidance, 
February 2016. 
David McNair, Rebecca Dottey and Alex Cobham (2010), Transfer Pricing, and the Taxing 
Rights of Developing Countries. Tax Justice Network Africa Research Conference 
in Nairobi in April 2010. 
Đỗ Thiên Anh Tuấn (2015), Chuyển giá trong các DN FDI ở Việt Nam. Tình huống nghiên 
cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright. 
Emmanuel Budu Addo (2012), Effects of transfer pricing beyond tax revenue loss: a threat 
to economic development. ActionAid Ghana. 
Franco Modigliani and Merton H. Miller (1958), The Cost of Capital, Corporation Finance 
and the Theory of Investment, The American Economic Review, Vol. 48, No. 3 
(June 1958), pp. 261-297. 
Gabriel Zucman (2014). “Taxing across Borders: Tracking Personal Wealth and Corporate 
Profits”. Journal of Economic Perspectives. 28 (4): 121–48. 
OECD (2013), Action Plan on Base Erosion and Profit Shifting. 
OECD (2017), OECD Transfer Pricing Guidelines for Multinational Enterprises and Tax 
Administration. July 2017. 
PwC (2012), International Transfer Pricing 2013/14. 
Tax Justice Network (2012) "Revealed: Global Super-rich has at least $21 trillion hidden 
in secret tax havens". 22 July 2012. 
UN (2017), Practical Manual on Transfer Pricing for Developing Countries 2017. 
UNCTAD (1999), Transfer Pricing. UNCTAD Series on issues in international investment 
agreements. UN New York and Geneva 1999. 
VCCI (2017), Báo cáo 1114/PTM-VP báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP 
của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. 
WB Group (2016), Transfer Pricing and Developing Economies: A Handbook for Policy 
Makers and Practitioners. Authors: Joel Coopper, Randall Fox, Jan Loeprick, and 
Komal Mohindra. 
WCO (2015), Guide to Customs Valuation and Transfer Pricing. World Customs 
Organization. June 2015. 
World Tranfer Pricing (2017) – The Comprehensive guide to the world’s leading transfer 
pricing firms. 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_gia_xoi_mon_co_so_thue_va_dich_chuyen_loi_nhuan_nhin.pdf