Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam
Giáo dục tài chính, nhân tố được đánh giá là chiếc cầu nối giữa bên cung và bên
cầu của tài chính toàn diện, đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao mức độ am
hiểu tài chính quốc gia, thúc đẩy tài chính toàn diện, đảm bảo sự ổn định của thị
trường tài chính. Tại khu vực châu Á, phần lớn các nước đã xây dựng và triển khai
chương trình giáo dục tài chính quốc gia, trong khi Việt Nam vẫn chưa có. Trong
bài viết này, nhóm tác giả đánh giá thực trạng am hiểu tài chính và giáo dục tài
chính của Việt Nam, nhận diện những thách thức đối với tài chính toàn diện của
Việt Nam nếu thiếu hụt giáo dục tài chính. Trên cơ sở xem xét những bài học kinh
nghiệm trong việc xây dựng chương trình giáo dục tài chính quốc gia tại Nhật Bản
và Thái Lan, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về chương trình giáo dục tài chính
quốc gia hướng đến mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam trong bối
cảnh số hóa ngành tài chính.
Từ khoá: Am hiểu tài chính, chương trình giáo dục tài chính, tài chính toàn diện,
số hoá tài chính
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam

71 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 221- Tháng 10. 2020 Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam1 Trần Thanh Thu Đào Hồng Nhung Ngày nhận: 03/12/2019 Ngày nhận bản sửa: 08/07/2020 Ngày duyệt đăng: 25/08/2020 Giáo dục tài chính, nhân tố được đánh giá là chiếc cầu nối giữa bên cung và bên cầu của tài chính toàn diện, đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao mức độ am hiểu tài chính quốc gia, thúc đẩy tài chính toàn diện, đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính. Tại khu vực châu Á, phần lớn các nước đã xây dựng và triển khai chương trình giáo dục tài chính quốc gia, trong khi Việt Nam vẫn chưa có. Trong bài viết này, nhóm tác giả đánh giá thực trạng am hiểu tài chính và giáo dục tài chính của Việt Nam, nhận diện những thách thức đối với tài chính toàn diện của A national financial education program in the context of financial digital- A review and recommendations for Vietnam Abstract: Financial education, a factor bridging the supply and demand side of financial inclusion, plays a key role in enhancing the level of national financial literacy, promoting financial inclusion, and ensuring the stability of financial market. In Asia, while most countries have developed and implemented a financial education program at national level, the Vietnamese Government has not had an official national program to raise financial knowledge and financial literacy yet. In this study, the authors assess financial literacy and financial education in Vietnam, identifying the challenges to Financial Inclusion in case of no financial education program. Based on the lessons of other countries in building a national education program, the authors make some recommendations for planning Vietnamese financial education program towards the objective of promoting Financial Inclusion. Keywords: Financial Literacy, Financial Education program, Financial Inclusion, Financial Digital, Vietnam Thu Thanh Tran Email: tranthanhthu308@gmail.com Nhung Hong Dao Email: nhungpttc@gmail.com Organization of all: Faculty of Corporate Finance, Academy of Finance 1 Bài báo là một phần nội dung của Đề tài Nhà nước tại Bộ Khoa học Công nghệ “Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam” mã số KX.01.30/16-20 do PGS. TS. Chúc Anh Tú làm Chủ nhiệm đề tài. Khoa Tài chính doanh nghiệp, Học viện Tài chính Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202072 Việt Nam nếu thiếu hụt giáo dục tài chính. Trên cơ sở xem xét những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng chương trình giáo dục tài chính quốc gia tại Nhật Bản và Thái Lan, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về chương trình giáo dục tài chính quốc gia hướng đến mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam trong bối cảnh số hóa ngành tài chính. Từ khoá: Am hiểu tài chính, chương trình giáo dục tài chính, tài chính toàn diện, số hoá tài chính 1. Giới thiệu Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007- 2008, tài chính toàn diện (Financial Inclusion) đã trở thành vấn đề trọng tâm trong các chương trình hành động xuyên quốc gia nhằm đảm bảo một thị trường tài chính ổn định và bền vững. Tháng 10/2013, Ngân hàng Thế giới (World Bank-WB) đã đưa ra mục tiêu đến năm 2020 mỗi người trưởng thành phải có một tài khoản giao dịch. Liên Hợp Quốc cũng đưa tài chính toàn diện vào một trong số các giải pháp để đạt mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030. Các quốc gia ASEAN đã thành lập Uỷ ban Công tác về tài chính toàn diện (WC-FINC) từ năm 2016 với mục tiêu hợp tác thúc đẩy tài chính toàn diện trên toàn khu vực cũng như tại các quốc gia thành viên. Tài chính toàn diện đã trở thành mục tiêu tài chính quốc gia của rất nhiều nền kinh tế. Tính đến năm 2017, có 34 quốc gia đã triển khai chiến lược tài chính toàn diện, 29 quốc gia đang xây dựng chiến lược (WB, 2017). Không nằm ngoài xu thế đó, Chính phủ Việt Nam đã có những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể nhằm nâng cao tài chính toàn diện. Tại Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 20/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, tài chính toàn diện là “việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu, với chi phí hợp lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ”. Đồng thời, những nỗ lực về việc rút ngắn khoảng cách vùng miền trong tiếp cận tài chính của Chính phủ được thấy rõ qua các chương trình tín dụng cho nông nghiệp nông thôn (Nghị định 55/2015/NĐ-CP), Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam (Quyết định số 2195/QĐ-TTg). Đặc biệt, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số hoá ngành dịch vụ tài chính đã mở ra cánh cửa mới cho tài chính toàn diện khi cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp được gia tăng nhờ công nghệ số. Chính phủ cũng đã phê duyệt và triển khai nhiều chương trình thúc đẩy hoạt động này, từ việc thúc đẩy thanh toán phi tiền mặt đến tăng cường ứng dụng công nghệ số vào khu vực dịch vụ công. Tuy nhiên, việc tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng của Việt Nam còn khá nhiều khoảng trống, đặc biệt là khoảng trống về kiến thức tài chính. Kết quả điều tra của S&P năm 2014 cho thấy tỷ lệ dân số trưởng thành có am hiểu về tài chính chiếm 25%. Việt Nam đứng thứ 16/17 nước về am hiểu tài chính theo điều tra của Master Card năm 2015. Năm 2016, theo TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73 ADBI và OECD, điểm am hiểu tài chính của Việt Nam là 11,6, thấp hơn nhiều nước trong khu vực châu Á như Hong Kong (14,5), Hàn Quốc (14,3), Thái Lan (12,8), Malaysia (12,3). Lý do chính của tình trạng này là do Việt Nam chưa có chiến lược giáo dục tài chính quốc gia. Trong khi phần lớn các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore đã xây dựng và triển khai chiến lược giáo dục tài chính quốc gia, hoạt động này tại Việt Nam còn khá sơ khai và mang tính chất tự phát là chính (Yoshino và cộng sự, 2015; Morgan và Trịnh, 2017; GIZ, 2018). Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số vào ngành dịch vụ tài chính sẽ mang đến cho người dùng những cơ hội tiêu dùng và trải nghiệm mới, sản phẩm đa dạng và đáp ứng được đòi hỏi đa diện của người tiêu dùng. Song nó cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với người dùng trong việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong không gian số. Trong bối cảnh đó, giáo dục tài chính được xem là nhân tố đóng vai trò kép, xoá bỏ những rào cản từ phía cầu đối với mục tiêu nâng cao tài chính toàn diện và kết nối yếu tố cung với yếu tố cầu. Trong khuôn khổ của bài viết này, nhóm tác giả chỉ ra sự cần thiết của việc tăng cường am hiểu tài chính và xây dựng chương trình giáo dục tài chính quốc gia tại Việt Nam. Trên cơ sở làm rõ kinh nghiệm xây dựng và triển khai chương trình giáo dục tài chính tại một số nước trong khu vực, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về xây dựng chương trình quốc gia về giáo dục tài chính tại Việt Nam trong thời gian tới. 2. Thực trạng am hiểu tài chính và giáo dục tài chính tại Việt Nam Am hiểu tài chính là một khái niệm nhiều tầng nấc, phản ánh không chỉ kiến thức mà còn là kỹ năng, thái độ, và hành vi thực tế. Một khái niệm rộng hơn am hiểu tài chính, được sử dụng rộng rãi hơn là năng lực hành vi tài chính (financial capability). Khái niệm này được WB (2013) định nghĩa là khả năng nội tại của các cá nhân và hộ gia đình trong việc đưa ra các quyết định tối ưu về tài chính trong các điều kiện môi trường kinh tế- xã hội. Việc đánh giá có thể được thực hiện thông qua những câu hỏi khách quan (objective questions) hoặc những câu hỏi tự đánh giá (self evaluated questions). Trong bảng hỏi điều tra của OECD/INFE (2016) trên 30 quốc gia, am hiểu tài chính được chia thành ba khía cạnh, gồm (i) kiến thức tài chính, (ii) hành vi tài chính, và (iii) thái độ đối với lập kế hoạch tài chính dài hạn. Kiến thức tài chính giúp các cá nhân so sánh các sản phẩm tài chính và đưa ra quyết định tài chính phù hợp và toàn diện về mặt thông tin. Hành vi tài chính phản ánh sự lựa chọn của người tiêu dùng giữa thực hiện hay không thực hiện các quyết định tài chính. Hành vi tài chính có tác động đến tình hình tài chính và sự an toàn tài chính của cá nhân. Thái độ tài chính cho biết khẩu vị thời gian cũng như mức độ sẵn lòng lập kế hoạch tiết kiệm dài hạn. Điều này có thể thấy thông qua sự đối ngược giữa hai quan điểm tiêu dùng “sống và chi tiêu cho hiện tại” và “tiết kiệm cho sự an toàn trong tương lai”. Kết quả nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy mức độ am hiểu tài chính của người dân ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thứ hạng của Việt Nam theo Master Card Financial Literacy giai đoạn 2013-2015 lần lượt là 12/16, 11/16, 16/17. Theo Đinh Thị Thanh Vân & Nguyễn Thị Huệ (2017), năm 2013, chỉ 51% người đi vay từng nghe và hiểu về Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202074 thời hạn vay. Kết quả điều tra tại 7 trường phổ thông ở TP Hồ Chí Minh năm 2012 và 2013 cho thấy chỉ có 17,2% học sinh biết cách tiết kiệm và chỉ sử dụng một phần tiền, 8,8% tiêu toàn bộ số tiền có được (Đinh Thị Vân Anh & Nguyễn Thị Huệ, 2017). Điều tra của OECD năm 2014 cho thấy có 33% người trả lời không thiết lập ngân quỹ từ thu nhập và quản lý chi tiêu. Nghiên cứu của WB (2014) cho thấy chỉ có 4,5% số người trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) có trình độ tiểu học có tài khoản tại ngân hàng; tín dụng phi chính thức là nguồn cung chính cho các cá nhân có thu nhập thấp, sống ở khu vực nông thôn, có trình độ học vấn thấp. Chỉ có 30% doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) có sử dụng tín dụng chính thức. Những sản phẩm tín dụng tiêu dùng như Home Credit còn mới đối với thị trường. Kết quả điều tra năm 2013 của HomeCredit trên 1.000 hộ gia đình có thu nhập trung bình ở khu vực thành thị cho thấy 51% có kiến thức tốt về tín dụng tiêu dùng, 42% có kiến thức hạn chế, và 7% không biết gì về tín dụng tiêu dùng (Le Van Luyen & Nguyen Hong Hiep, 2017). Có thể thấy điểm am hiểu tài chính của Việt Nam thấp nhất trong khu vực, chỉ đứng trên Cam-pu-chia và thấp hơn rất nhiều so với Hong Kong hay Hàn Quốc. Kết quả điều tra sinh viên tại các trường đại học TP. Hồ Chí Minh năm 2016 (OECD, 2016) cho thấy, có đến 47% sinh viên tự đánh giá mình không có bất kỳ kiến thức gì về tài chính. Đồng thời, đối với những cá nhân có kinh nghiệm làm việc trung bình 5 năm, điểm am hiểu tài chính (ở mức độ căn bản) chỉ đạt 2,411/5. Điều này cho thấy người trưởng thành Việt Nam chưa có nhận thức đúng về tầm quan trọng của am hiểu tài chính. Ngoại trừ sinh viên hoặc những người đi làm trong lĩnh vực, ngành nghề có liên quan, khái niệm tài chính và kiến thức kinh tế tài chính còn tương đối xa lạ với bộ phận dân cư còn lại. Nghiên cứu của Morgan & Trinh (2017) cho thấy có 59,4% số người được hỏi tại khu vực thành thị của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cho rằng mình có mức am hiểu tài chính trung bình. Chỉ có 13% tự đánh giá mình ở mức khá cao. Kết quả này cũng tương đồng với điều tra của Nguyễn (2016) khi điểm cho am hiểu tài chính (ở cấp độ cao) chỉ đạt 2,711/5 (Bảng 2). Bên cạnh đó, tính ứng dụng kiến thức tài chính vào thực tiễn còn thấp. Mặc dù những chương trình giáo dục tài chính đã được triển khai, song theo kết quả điều tra của RoboCash Group năm 2019, có đến 90% Bảng 1. Mức am hiểu tài chính tại một số quốc gia châu Á* Quốc gia Kiến thức Hành vi Thái độ Tổng HongKong 5,8 6,0 2,7 14,5 Hàn Quốc 5,4 5,7 3,2 14,3 Thái Lan 3,9 5,8 3,1 12,8 Malaysia 3,6 5,7 3,0 12,3 Cam-pu-chia 3,5 5,2 2,8 11,5 Việt Nam 3,6 5,0 3,0 11,6 *Ghi chú: Kết quả điều tra dựa trên bảng hỏi của OECD (2016). Mẫu nghiên cứu là người trưởng thành, trong đó: HongKong 1.000; Hàn Quốc 2.424; Thái Lan 10.000; Malaysia 2.889; Cam-pu-chia 1.035 (chủ yếu thủ đô PnomPenh); Việt Nam 1.000 (chủ yếu Hà Nội & TP. HCM) Nguồn: OECD (2016), Morgan & Trinh (2017) TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75 người sử dụng thương mại điện tử phải đối mặt với việc thiếu hụt dòng tiền; 24% số người được hỏi đánh giá mức hiểu biết trung bình; nhưng có đến 93% người Việt Nam không hứng thú với việc cải thiện tình hình (Dougn, 2019). Điều này đòi hỏi những chương trình đào tạo nâng cao am hiểu tài chính trong tương lai phải có tính thực tiễn và tạo động lực cho người dân. Một số chương trình giáo dục tài chính tiêu biểu trước năm 2015 phải kể đến là (Phạm Mạnh Hùng, 2017): ○ Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP): Chương trình giáo dục tài chính bắt đầu năm 2007 và được tài trợ bởi City Group. Chương trình hướng đến đối tượng là hộ nghèo ở khu vực Hà Nội và lân cận. Năm 2016, VBSP đào tạo tài chính cho chương trình nuôi cá theo vùng tại Nam Á và Đông Nam Á. ○ HSBC Việt Nam: Năm 2012, HSBC Việt Nam giới thiệu chương trình giáo dục tài chính gồm thư viện online với 10 nội dung (tài chính cá nhân và tài chính doanh nghiệp) và chương trình thí điểm ở trường tiểu học với tên gọi “Junior Achievement More than Money”. ○ Home Credit: Chương trình bắt đầu từ năm 2013 và hợp tác với những trung tâm mua sắm lớn. Đây là chương trình tư vấn tài chính với tên gọi “Think it through, sign it wisely” dành cho vay tiêu dùng. Đại diện của Home Credit cho biết những khách hàng nữ từ 25~50 tuổi đủ điều kiện vay. Những người tham quan có thể tham gia những thử thách về tài chính và giành phần thưởng cũng như có thêm những thông tin tài chính từ sổ tay tài chính. ○ Creative Wealth Vietnam: Đây là chương trình được điều hành bởi Creative Wealth- Mỹ, dành cho trẻ em nhằm giúp trẻ em có được trách nhiệm cao nhất với số tiền có được từ cha mẹ và họ hàng cũng như hiểu cách sử dụng tiền. ○ VISA: Chương trình thực hành quản lý tài chính tài trợ bởi VISA, hợp tác với Citi Foundation, Công ty quan hệ công chúng Ogilvy, và Trung ương Hội sinh viên Việt Nam. Những video này được công khai vào năm 2012 và nhận được hàng triệu lượt xem (tại https://www.youtube.com/ watch?v=R55kRHo5Ba0&t=39s) ○ Sacombank: Nhận diện tầm quan trọng của những kỹ năng tài chính dành cho đối tượng trẻ em, Sac ... nghiệm xây dựng chương trình giáo dục tài chính quốc gia tại một số nước châu Á (i) Chương trình giáo dục tài chính của Nhật Bản Nghiên cứu của Yoshino và cộng sự (2017) chỉ ra rằng Nhật Bản là quốc gia châu Á rất chú trọng đến giáo dục tài chính cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chương trình giáo dục tài chính được lồng ghép vào chương trình phổ thông bắt đầu từ lớp 1 của cấp tiểu học cho đến lớp 12 của cấp trung học. Hội đồng trung ương về thông tin dịch vụ tài chính (CCSFI), tài trợ bởi Ngân hàng Nhật TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 81 Bản (Bank of Japan), tạo ra một ma trận mục tiêu đầy tham vọng cho việc thực hiện giáo dục tài chính ở cấp tiểu học và trung học. Những nội dung chính gồm có: ○ Lập kế hoạch tài chính trọn đời và quản lý chi tiêu hộ gia đình, bao gồm quản lý tiền và ra quyết định, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các sản phẩm tài chính, hiểu tầm quan trọng của lập kế hoạch và đạt được những kỹ năng về việc đó, hoặc dự phòng cho tai nạn, thảm hoạ, hoặc ốm đau. ○ Cơ chế của tài chính và nền kinh tế, bao gồm hiểu chức năng của tiền và tài chính, chu kỳ kinh doanh, nhu cầu chính sách kinh tế, và những vấn đề tài chính. ○ Quyền và rủi ro đối với người tiêu dùng, phòng ngừa những vấn đề tài chính bao gồm đạt được những kỹ năng căn bản cho việc ra quyết định độc lập và phù hợp để sống tốt hơn, ngăn chặn những vấn đề liên quan đến giao dịch tài chính và nợ nhiều. ○ Giáo dục nghề nghiệp, bao gồm hiểu tầm quan trọng của công việc và sự lựa chọn nghề nghiệp. Tuy nhiên, chương trình giáo dục tài chính của Nhật Bản có nhiều điểm hạn chế như thiếu giáo viên có kinh nghiệm, thiếu thời gian, thiếu động lực cho học sinh. Chỉ có 13% giáo viên tham gia giảng dạy có kiến thức về kinh tế và kinh doanh. Đồng thời, học sinh phổ thông cho rằng chương trình quá khó hiểu và không có tính thực tiễn cao. (ii) Chương trình giáo dục tài chính của Thái Lan Điểm nổi bật trong chương trình giáo dục tài chính của Thái Lan là sự đổi mới trong kênh đào tạo và đẩy mạnh sự hợp tác công tư trong chiến lược giáo dục tài chính quốc gia (Nguyễn và Hoàng, 2016). Khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân vào chiến lược giáo dục tài chính quốc gia không chỉ giúp san sẻ gánh nặng xã hội với Chính phủ mà còn tăng tính thực tiễn cho nội dung đào tạo. Các tổ chức tham gia vào chiến lược giáo dục tài chính quốc gia của Thái Lan rất đa dạng, gồm: ○ Các tổ chức tài chính chuyên nghiệp: Tại khu vực nông thôn là Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp (BAAC); tại khu vực thành thị là Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ (GSB). Đây là hai tổ chức chuyên nghiệp thuộc Chính phủ lớn nhất tại Thái Lan. BAAC tích hợp giáo dục tài chính với phân phối các sản phẩm ngân hàng thông qua chương trình như “Người nông dân thông thái”. GSB đã triển khai các chương trình giáo dục tài chính dựa trên tiết kiệm, hướng đến trẻ em, thành lập các ngân hàng học sinh được điều hành bởi chính học sinh. ○ Ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thông qua việc cử các nhân viên đến đào tạo cho các trường học hoặc cung cấp dịch vụ lập kế hoạch tài chính cá nhân miễn phí cho khách hàng. ○ Các cơ quan quản lý nhà nước, gồm Sở Giao dịch chứng khoán và Uỷ ban Chứng khoán Thái Lan, thiết kế chương trình xây dựng thói quen tiết kiệm dài hạn cho học sinh tiểu học và trung học nhằm giúp các em trở thành nhà đầu tư chứng khoán tiềm năng. Chương trình nhà đầu tư tiềm năng đã thu hút 7 triệu học sinh tham gia. Đồng thời, các cơ quan này còn cho phát sóng các tập phim về đầu tư hoặc phát triển những Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202082 ứng dụng công nghệ để giáo dục kiến thức đầu tư, cung cấp những công cụ như máy tính cá nhân để học sinh có thể tính toán được tỷ suất sinh lời đơn giản của các khoản đầu tư. ○ Trung tâm bảo vệ người tiêu dùng tài chính và các tổ chức xã hội và tổ chức phi chính phủ: Các tổ chức như Viện nghiên cứu châu Á Kennan, Quỹ nghiên cứu Thái Lan, Quỹ Khom Loy và quỹ Step Ahead đều cung cấp các khoá học tài chính cho những người có thu nhập thấp và khó khăn. Nguồn tài trợ từ chính phủ Thái Lan và các tổ chức khác. Ngoài hình thức đào tạo căn bản tại lớp học, có những tổ chức cung cấp khoá đào tạo ngay cạnh bãi rác như Quỹ Khom Loy, quỹ Kennan tại các khu ổ chuột để đảm bảo giáo dục tài chính đến được những nhóm yếu thế nhất trong xã hội. Vai trò của chính quyền địa phương được thúc đẩy thông qua việc khuyến khích chính quyền thành lập các nhóm nghiên cứu vì cộng đồng. Việc đo lường được thực hiện thông qua bài kiểm tra trước và sau khoá đào tạo và thông qua kết quả của dự án thực tế. Những học viên ưu tú sẽ trở thành giáo viên và tiếp tục đào tạo tài chính cho cộng đồng của mình. Như vậy, một chương trình giáo dục tài chính quốc gia phải làm rõ được bốn vấn đề (i) Đối tượng của giáo dục tài chính là ai? (ii) Những nội dung gì cần cung cấp? (iii) Cách thức cung cấp giáo dục tài chính là gì? (iv) Đánh giá chương trình giáo dục tài chính như thế nào? Chương trình giáo dục tài chính quốc gia đòi hỏi sự xuyên suốt trong cuộc đời của mỗi cá nhân, sự hợp tác của nhà nước với tư nhân, sự chung tay góp sức của nhiều tổ chức, cá nhân nhằm tạo ra một cộng đồng am hiểu tài chính, có thái độ đúng đắn với các quyết định tài chính cá nhân, hướng đến an toàn tài chính. 5. Một số đề xuất về chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành tài chính ở Việt Nam Qua đánh giá thực trạng am hiểu tài chính và giáo dục tài chính tại Việt Nam, trên cơ sở tham khảo bài học kinh nghiệm của một số quốc gia, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về chương trình giáo dục tài chính quốc gia như sau: ○ Ban hành khung khổ pháp lý cho giáo dục tài chính quốc gia. Giáo dục tài chính phải được luật hoá thành các văn bản cụ thể, phải trở thành chủ trương chính thống của Chính phủ để các chương trình triển khai sau đó đảm bảo tính đồng bộ và hệ thống. ○ Quy định cơ quan chủ quản và các cơ quan phối hợp thực hiện. Có thể phân cơ quan chủ quản và cơ quan phối hợp theo từng đối tượng của chương trình giáo dục. Đối với đối tượng là học sinh phổ thông và sinh viên đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên là cơ quan chủ quản. Bộ Tài chính, UBCKNN, NHNN, Bảo Việt,... là cơ quan phối hợp. Đối với đối tượng là doanh nghiệp, nên giao cho Bộ Tài chính bởi đây là cơ quan quản lý các chứng chỉ nghề nghiệp có liên quan. Đối với đối tượng thuộc vùng nông thôn, miền núi, nên giao cho Chính quyền địa phương kết hợp cùng các tổ chức như Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Quỹ tín dụng nhân dân... ○ Nội dung chương trình phải được xây dựng phù hợp với từng đối tượng. Thông thường, nên phân loại dựa vào các tiêu chí về nhân khẩu học như tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống, thu nhập, trình độ học vấn, mục tiêu tài chính. ○ Chuẩn bị nguồn lực cho chương trình giáo dục tài chính quốc gia. Vốn là điều kiện tiên TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 83 quyết và nên được huy động từ sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước cũng như các tổ chức xã hội (trong và ngoài nước), từ các quỹ gọi vốn cộng đồng, đóng góp của mạng lưới các trí thức, các doanh nghiệp. Nguồn lực con người có thể đến từ nguồn lực chính thức (đội ngũ giảng viên, doanh nhân, nhân viên các tổ chức tài chính) hoặc phi chính thức (người dân) để tăng tính lan toả và xây dựng một cộng đồng hiểu biết tài chính. ○ Ứng dụng công nghệ thông tin vào hình thức cung cấp phổ cập kiến thức, đặc biệt là các ứng dụng trên điện thoại, trò chơi điện tử, gameshow, các khoá đào tạo online, hoặc các clips ngắn. Hiện đại hoá cách thức cung cấp kiến thức sẽ tạo sự hứng thú và dễ dàng khi tiếp cận cho cộng đồng. Đồng thời giúp cho việc chia sẻ kiến thức trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. ○ Xây dựng bộ khung đánh giá am hiểu tài chính cho cá nhân. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về am hiểu tài chính cá nhân cũng như doanh nghiệp ■ Tài liệu tham khảo 1. Chúc Anh Tú (2020), ‘Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam’, Đề tài Nhà nước tại Bộ Khoa học Công nghệ mã số KX.01.30/16-20. 2. Dougn Dean (2019), ’90 percent of online customers in Vietnam face urgent shortage of money’, Vietnaminsider. vn, https://vietnaminsider.vn/90-percent-of-online-customers-in-vietnam-face-urgent-shortages- of-money/. 3. Đào Hồng Nhung, Trần Thanh Thu, & Nguyễn Minh Tuấn (2020), ‘Tác động của Fintech đối với tài chính toàn diện: Bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia và một số khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 276 tháng 6/2020, 41-48. 4. Đinh Thị Thanh Vân & Nguyễn Thị Huệ (2017), ‘Hiểu biết tài chính cá nhân của sinh viên Việt Nam’, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Thức đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam Vol 1, Viện chiến lược ngân hàng & Vụ hợp tác quốc tế Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 5. GIZ (2018), ‘Financial Literacy and financial inclusion in Vietnam: A way back and forth’, Study Report. 6. International Monetary Fund; World Bank (2018), ‘The Bali Fintech Agenda: Chapeau Paper (English)’, Washington, D.C. : World Bank Group. 7. Le Van Luyen & Nguyen Hong Hiep (2017), ‘Promoting Financial Inclusion Through Financial Education in Vietnam’, International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV. 8. Le Thanh Tam (2017), ‘Fintech for Promoting Financial Inclusion in Vietnam: Fact Findings and policy. implication’. International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV. 9. Morgan, P.J., & Trinh, Q.L. (2017), ‘Determinants and impacts of Financial Literacy in Cambodia and Vietnam’, ADBI Working paper No. 754 10. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Diễn đàn công nghệ tài chính Việt Nam (FVF) 2019, Hà Nội tháng 11/2019. 11. Nguyễn Đăng Tuệ & Hoàng Anh Tú (2016, ‘Mạng lưới cung cấp chương trình giáo dục tài chính tại Thái Lan và kinh nghiệm cho Việt Nam’,Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, Số 18, 2-2016, 6-14. 12. Nguyen Hoai Nam & Hoang Phuong Dung (2017), ‘Explaining Financial Inclusion on Demand-Side Perspective: The central role of financial knowledge’. International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV. 13. OECD/INFE (2014). Progress Report on Financial Education. Paris: OECD. 14. OECD/INFE (2016), International Survey of Adult Financial Literacy Competencies. Paris: OECD. 15. Ozili P.K (2018). Impact of digital finance on financial inclusion and stability. Borsa Istanbul Review 18-4 (2018) 329-340. 16. Phạm Mạnh Hùng (2017), ‘Financial Literacy in Vietnam: Situation and recommendation’, International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV. 17. Ryu, Hyun-Sun (2018), ‘Understanding Benefit and Risk Framework of Fintech Adoption: Comparison of Early Adopters and Late Adopters’, Proceedings of the 51st Hawaii International Conference on System Sciences, 3864–3873. 18. Standard and Poor Global Finlit Survey (2015). 19. Trần Thanh Thu, Đào Hồng Nhung & Nguyễn Thị Bảo Hiền (2019), ‘Fintech và tài chính toàn diện: Thúc đẩy hay kiến tạo’, Hội thảo khoa học quốc gia về Thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Những vấn đề lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của các nước, Học viện Tài chính, Hà Nội. 20. Trần Thị Vân Anh (2017), ‘Đào tạo tài chính nâng cao khả năng tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202084 doanh nghiệp khởi nghiệp’, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Thúc đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam, Tập 1, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 21. Vietnam Fintech Report 2018, Military Bank Security (MBS). 22. World Bank (2013), Global survey on consumer protection and financial literacy. 23. World Bank’s Global Findex Data 2014; World Bank’s Global Findex Data 2017. 24. Yen Thi Hai Nguyen (2017), ‘Evaluate Financial Literacy of Vietnamese Students in Higher Education and Its Determinants- The need of Financial Education’, Conference Papers – VEAM 2017. 25. Yoshino, Nayuki, Morgan, Peter, & Wignaraja, Ganeshan (2015), ‘Financial Education in Asia: Assessment and Recommendations’, ADBI Working Paper Series No. 534. 26. Yoshino, Nayuki, Morgan, Peter, & Trinh, Q.L. (2017), ‘Financial Literacy in Japan: Determimants and Impacts’, ADBI Working Paper 796. 27. 28. https://www.youtube.com/watch?v=R55kRHo5Ba0&t=39s; 29. https://vinschool.edu.vn/news_event/vinschool-dua-giao-duc-tu-duy-tai-chinh-va-khoi-nghiep-vao-chuong-trinh- chinh-khoa-2/; 30. https://www.fintechnews.org (FEM) và hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) và các kiểm định để lựa chọn ra phương pháp phù hợp nhất, kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng đáng kể của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2018. Nghiên cứu đã chỉ ra quy mô, danh tiếng của công ty kiểm toán và việc thay đổi kiểm toán viên trong các cuộc kiểm toán có ảnh hưởng lớn tới biến động giá của cổ phiếu trên TTCK tại Việt Nam được đo lường bởi chỉ số giá thị trường trên mỗi cổ phiếu (MPS). Ngoài ra, việc luân chuyển các công ty kiểm toán cũng có tác động đến giá thị trường mỗi cổ phiếu. Vì vậy, việc thay đổi kiểm toán viên thường xuyên sẽ góp phần làm giảm sự thân thiết của kiểm toán viên đối với khách hàng kiểm toán, từ đó tăng thái độ hoài nghi nghề nghiệp và tính khách quan độc lập trong số liệu của báo cáo kiểm toán, dẫn đến thông tin tài chính có chất lượng hơn cho các nhà đầu tư. Mặt khác, các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn các công ty kiểm toán có quy mô và uy tín lớn trên thị trường để thực hiện dịch vụ kiểm toán. Các công ty kiểm toán cần có những chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán của doanh nghiệp mình bằng cách nâng cao trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên. Các cơ quan quản lý chức năng cũng cần đưa ra những biện pháp giám sát chặt chẽ để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam và áp dụng các chế tài xử phạt có tính răn đe để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trên thị trường chứng khoán. Hạn chế của nghiên cứu là chưa bao quát các nhân tố, trong đó có mức độ chuyên sâu về từng lĩnh vực ngành nghề của kiểm toán viên như một thước đo quan trọng cho chất lượng kiểm toán tới giá cổ phiếu trong các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Hạn chế này sẽ là gợi ý cho các hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai ■ tiếp theo trang 70
File đính kèm:
chuong_trinh_giao_duc_tai_chinh_quoc_gia_trong_boi_canh_so_h.pdf