Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam

Giáo dục tài chính, nhân tố được đánh giá là chiếc cầu nối giữa bên cung và bên

cầu của tài chính toàn diện, đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao mức độ am

hiểu tài chính quốc gia, thúc đẩy tài chính toàn diện, đảm bảo sự ổn định của thị

trường tài chính. Tại khu vực châu Á, phần lớn các nước đã xây dựng và triển khai

chương trình giáo dục tài chính quốc gia, trong khi Việt Nam vẫn chưa có. Trong

bài viết này, nhóm tác giả đánh giá thực trạng am hiểu tài chính và giáo dục tài

chính của Việt Nam, nhận diện những thách thức đối với tài chính toàn diện của

 Việt Nam nếu thiếu hụt giáo dục tài chính. Trên cơ sở xem xét những bài học kinh

nghiệm trong việc xây dựng chương trình giáo dục tài chính quốc gia tại Nhật Bản

và Thái Lan, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về chương trình giáo dục tài chính

quốc gia hướng đến mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam trong bối

cảnh số hóa ngành tài chính.

Từ khoá: Am hiểu tài chính, chương trình giáo dục tài chính, tài chính toàn diện,

số hoá tài chính

 

pdf 14 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam

Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam
71
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 221- Tháng 10. 2020
Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh 
số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho 
Việt Nam1
Trần Thanh Thu Đào Hồng Nhung
Ngày nhận: 03/12/2019 
Ngày nhận bản sửa: 08/07/2020 
Ngày duyệt đăng: 25/08/2020
Giáo dục tài chính, nhân tố được đánh giá là chiếc cầu nối giữa bên cung và bên 
cầu của tài chính toàn diện, đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao mức độ am 
hiểu tài chính quốc gia, thúc đẩy tài chính toàn diện, đảm bảo sự ổn định của thị 
trường tài chính. Tại khu vực châu Á, phần lớn các nước đã xây dựng và triển khai 
chương trình giáo dục tài chính quốc gia, trong khi Việt Nam vẫn chưa có. Trong 
bài viết này, nhóm tác giả đánh giá thực trạng am hiểu tài chính và giáo dục tài 
chính của Việt Nam, nhận diện những thách thức đối với tài chính toàn diện của 
A national financial education program in the context of financial digital- A review and 
recommendations for Vietnam
Abstract: Financial education, a factor bridging the supply and demand side of financial inclusion, 
plays a key role in enhancing the level of national financial literacy, promoting financial inclusion, 
and ensuring the stability of financial market. In Asia, while most countries have developed and 
implemented a financial education program at national level, the Vietnamese Government has not 
had an official national program to raise financial knowledge and financial literacy yet. In this study, 
the authors assess financial literacy and financial education in Vietnam, identifying the challenges to 
Financial Inclusion in case of no financial education program. Based on the lessons of other countries 
in building a national education program, the authors make some recommendations for planning 
Vietnamese financial education program towards the objective of promoting Financial Inclusion.
Keywords: Financial Literacy, Financial Education program, Financial Inclusion, Financial Digital, 
Vietnam
Thu Thanh Tran
Email: tranthanhthu308@gmail.com
Nhung Hong Dao
Email: nhungpttc@gmail.com
Organization of all: Faculty of Corporate Finance, Academy of Finance
1 Bài báo là một phần nội dung của Đề tài Nhà nước tại Bộ Khoa học Công nghệ “Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn 
diện tại Việt Nam” mã số KX.01.30/16-20 do PGS. TS. Chúc Anh Tú làm Chủ nhiệm đề tài.
Khoa Tài chính doanh nghiệp, Học viện Tài chính
Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và 
đề xuất cho Việt Nam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202072
Việt Nam nếu thiếu hụt giáo dục tài chính. Trên cơ sở xem xét những bài học kinh 
nghiệm trong việc xây dựng chương trình giáo dục tài chính quốc gia tại Nhật Bản 
và Thái Lan, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất về chương trình giáo dục tài chính 
quốc gia hướng đến mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam trong bối 
cảnh số hóa ngành tài chính.
Từ khoá: Am hiểu tài chính, chương trình giáo dục tài chính, tài chính toàn diện, 
số hoá tài chính
1. Giới thiệu
Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 
2007- 2008, tài chính toàn diện (Financial 
Inclusion) đã trở thành vấn đề trọng tâm 
trong các chương trình hành động xuyên 
quốc gia nhằm đảm bảo một thị trường tài 
chính ổn định và bền vững. Tháng 10/2013, 
Ngân hàng Thế giới (World Bank-WB) đã 
đưa ra mục tiêu đến năm 2020 mỗi người 
trưởng thành phải có một tài khoản giao 
dịch. Liên Hợp Quốc cũng đưa tài chính 
toàn diện vào một trong số các giải pháp 
để đạt mục tiêu phát triển bền vững đến 
năm 2030. Các quốc gia ASEAN đã thành 
lập Uỷ ban Công tác về tài chính toàn diện 
(WC-FINC) từ năm 2016 với mục tiêu hợp 
tác thúc đẩy tài chính toàn diện trên toàn 
khu vực cũng như tại các quốc gia thành 
viên. Tài chính toàn diện đã trở thành mục 
tiêu tài chính quốc gia của rất nhiều nền 
kinh tế. Tính đến năm 2017, có 34 quốc 
gia đã triển khai chiến lược tài chính toàn 
diện, 29 quốc gia đang xây dựng chiến lược 
(WB, 2017). Không nằm ngoài xu thế đó, 
Chính phủ Việt Nam đã có những mục tiêu 
và chương trình hành động cụ thể nhằm 
nâng cao tài chính toàn diện. Tại Quyết 
định số 149/QĐ-TTg ngày 20/01/2020 
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến 
lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 
2025, định hướng đến năm 2030, tài chính 
toàn diện là “việc mọi người dân và doanh 
nghiệp được tiếp cận và sử dụng các sản 
phẩm, dịch vụ tài chính một cách thuận 
tiện, phù hợp với nhu cầu, với chi phí hợp 
lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm 
và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm 
người nghèo, người thu nhập thấp, người 
yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh 
nghiệp siêu nhỏ”.
Đồng thời, những nỗ lực về việc rút ngắn 
khoảng cách vùng miền trong tiếp cận tài 
chính của Chính phủ được thấy rõ qua các 
chương trình tín dụng cho nông nghiệp 
nông thôn (Nghị định 55/2015/NĐ-CP), 
Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài 
chính vi mô tại Việt Nam (Quyết định số 
2195/QĐ-TTg). Đặc biệt, trong bối cảnh 
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số hoá 
ngành dịch vụ tài chính đã mở ra cánh cửa 
mới cho tài chính toàn diện khi cơ hội tiếp 
cận các dịch vụ tài chính của người dân và 
doanh nghiệp được gia tăng nhờ công nghệ 
số. Chính phủ cũng đã phê duyệt và triển 
khai nhiều chương trình thúc đẩy hoạt động 
này, từ việc thúc đẩy thanh toán phi tiền 
mặt đến tăng cường ứng dụng công nghệ số 
vào khu vực dịch vụ công. 
Tuy nhiên, việc tiếp cận các dịch vụ tài 
chính ngân hàng của Việt Nam còn khá 
nhiều khoảng trống, đặc biệt là khoảng 
trống về kiến thức tài chính. Kết quả điều 
tra của S&P năm 2014 cho thấy tỷ lệ dân 
số trưởng thành có am hiểu về tài chính 
chiếm 25%. Việt Nam đứng thứ 16/17 
nước về am hiểu tài chính theo điều tra của 
Master Card năm 2015. Năm 2016, theo 
TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG
Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73
ADBI và OECD, điểm am hiểu tài chính 
của Việt Nam là 11,6, thấp hơn nhiều nước 
trong khu vực châu Á như Hong Kong 
(14,5), Hàn Quốc (14,3), Thái Lan (12,8), 
Malaysia (12,3). Lý do chính của tình trạng 
này là do Việt Nam chưa có chiến lược 
giáo dục tài chính quốc gia. Trong khi phần 
lớn các nước trong khu vực như Thái Lan, 
Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore 
đã xây dựng và triển khai chiến lược giáo 
dục tài chính quốc gia, hoạt động này tại 
Việt Nam còn khá sơ khai và mang tính 
chất tự phát là chính (Yoshino và cộng sự, 
2015; Morgan và Trịnh, 2017; GIZ, 2018).
Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc 
biệt là công nghệ số vào ngành dịch vụ tài 
chính sẽ mang đến cho người dùng những 
cơ hội tiêu dùng và trải nghiệm mới, sản 
phẩm đa dạng và đáp ứng được đòi hỏi đa 
diện của người tiêu dùng. Song nó cũng 
đặt ra những thách thức không nhỏ đối với 
người dùng trong việc lựa chọn sản phẩm 
dịch vụ phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích 
của mình trong không gian số. Trong bối 
cảnh đó, giáo dục tài chính được xem là 
nhân tố đóng vai trò kép, xoá bỏ những rào 
cản từ phía cầu đối với mục tiêu nâng cao 
tài chính toàn diện và kết nối yếu tố cung 
với yếu tố cầu. 
Trong khuôn khổ của bài viết này, nhóm tác 
giả chỉ ra sự cần thiết của việc tăng cường 
am hiểu tài chính và xây dựng chương trình 
giáo dục tài chính quốc gia tại Việt Nam. 
Trên cơ sở làm rõ kinh nghiệm xây dựng 
và triển khai chương trình giáo dục tài 
chính tại một số nước trong khu vực, nhóm 
tác giả đưa ra một số đề xuất về xây dựng 
chương trình quốc gia về giáo dục tài chính 
tại Việt Nam trong thời gian tới.
2. Thực trạng am hiểu tài chính và giáo 
dục tài chính tại Việt Nam
Am hiểu tài chính là một khái niệm nhiều 
tầng nấc, phản ánh không chỉ kiến thức mà 
còn là kỹ năng, thái độ, và hành vi thực tế. 
Một khái niệm rộng hơn am hiểu tài chính, 
được sử dụng rộng rãi hơn là năng lực hành 
vi tài chính (financial capability). Khái 
niệm này được WB (2013) định nghĩa là 
khả năng nội tại của các cá nhân và hộ gia 
đình trong việc đưa ra các quyết định tối ưu 
về tài chính trong các điều kiện môi trường 
kinh tế- xã hội. Việc đánh giá có thể được 
thực hiện thông qua những câu hỏi khách 
quan (objective questions) hoặc những câu 
hỏi tự đánh giá (self evaluated questions). 
Trong bảng hỏi điều tra của OECD/INFE 
(2016) trên 30 quốc gia, am hiểu tài chính 
được chia thành ba khía cạnh, gồm (i) kiến 
thức tài chính, (ii) hành vi tài chính, và (iii) 
thái độ đối với lập kế hoạch tài chính dài 
hạn. Kiến thức tài chính giúp các cá nhân 
so sánh các sản phẩm tài chính và đưa ra 
quyết định tài chính phù hợp và toàn diện 
về mặt thông tin. Hành vi tài chính phản 
ánh sự lựa chọn của người tiêu dùng giữa 
thực hiện hay không thực hiện các quyết 
định tài chính. Hành vi tài chính có tác 
động đến tình hình tài chính và sự an toàn 
tài chính của cá nhân. Thái độ tài chính cho 
biết khẩu vị thời gian cũng như mức độ sẵn 
lòng lập kế hoạch tiết kiệm dài hạn. Điều 
này có thể thấy thông qua sự đối ngược 
giữa hai quan điểm tiêu dùng “sống và chi 
tiêu cho hiện tại” và “tiết kiệm cho sự an 
toàn trong tương lai”. 
Kết quả nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy 
mức độ am hiểu tài chính của người dân 
ở mức rất thấp so với các quốc gia trong 
khu vực và trên thế giới. Thứ hạng của Việt 
Nam theo Master Card Financial Literacy 
giai đoạn 2013-2015 lần lượt là 12/16, 
11/16, 16/17. Theo Đinh Thị Thanh Vân 
& Nguyễn Thị Huệ (2017), năm 2013, chỉ 
51% người đi vay từng nghe và hiểu về 
Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và 
đề xuất cho Việt Nam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202074
thời hạn vay. Kết quả điều tra tại 7 trường 
phổ thông ở TP Hồ Chí Minh năm 2012 
và 2013 cho thấy chỉ có 17,2% học sinh 
biết cách tiết kiệm và chỉ sử dụng một phần 
tiền, 8,8% tiêu toàn bộ số tiền có được 
(Đinh Thị Vân Anh & Nguyễn Thị Huệ, 
2017). Điều tra của OECD năm 2014 cho 
thấy có 33% người trả lời không thiết lập 
ngân quỹ từ thu nhập và quản lý chi tiêu. 
Nghiên cứu của WB (2014) cho thấy chỉ 
có 4,5% số người trưởng thành (từ 18 tuổi 
trở lên) có trình độ tiểu học có tài khoản 
tại ngân hàng; tín dụng phi chính thức là 
nguồn cung chính cho các cá nhân có thu 
nhập thấp, sống ở khu vực nông thôn, có 
trình độ học vấn thấp. Chỉ có 30% doanh 
nghiệp nhỏ và vừa (SME) có sử dụng tín 
dụng chính thức. Những sản phẩm tín dụng 
tiêu dùng như Home Credit còn mới đối 
với thị trường. Kết quả điều tra năm 2013 
của HomeCredit trên 1.000 hộ gia đình có 
thu nhập trung bình ở khu vực thành thị 
cho thấy 51% có kiến thức tốt về tín dụng 
tiêu dùng, 42% có kiến thức hạn chế, và 
7% không biết gì về tín dụng tiêu dùng (Le 
Van Luyen & Nguyen Hong Hiep, 2017).
Có thể thấy điểm am hiểu tài chính của Việt 
Nam thấp nhất trong khu vực, chỉ đứng trên 
Cam-pu-chia và thấp hơn rất nhiều so với 
Hong Kong hay Hàn Quốc. Kết quả điều tra 
sinh viên tại các trường đại học TP. Hồ Chí 
Minh năm 2016 (OECD, 2016) cho thấy, có 
đến 47% sinh viên tự đánh giá mình không 
có bất kỳ kiến thức gì về tài chính. Đồng 
thời, đối với những cá nhân có kinh nghiệm 
làm việc trung bình 5 năm, điểm am hiểu tài 
chính (ở mức độ căn bản) chỉ đạt 2,411/5. 
Điều này cho thấy người trưởng thành Việt 
Nam chưa có nhận thức đúng về tầm quan 
trọng của am hiểu tài chính. Ngoại trừ sinh 
viên hoặc những người đi làm trong lĩnh 
vực, ngành nghề có liên quan, khái niệm 
tài chính và kiến thức kinh tế tài chính còn 
tương đối xa lạ với bộ phận dân cư còn lại. 
Nghiên cứu của Morgan & Trinh (2017) 
cho thấy có 59,4% số người được hỏi tại 
khu vực thành thị của Hà Nội và TP. Hồ 
Chí Minh cho rằng mình có mức am hiểu 
tài chính trung bình. Chỉ có 13% tự đánh 
giá mình ở mức khá cao. Kết quả này cũng 
tương đồng với điều tra của Nguyễn (2016) 
khi điểm cho am hiểu tài chính (ở cấp độ 
cao) chỉ đạt 2,711/5 (Bảng 2).
Bên cạnh đó, tính ứng dụng kiến thức tài 
chính vào thực tiễn còn thấp. Mặc dù những 
chương trình giáo dục tài chính đã được 
triển khai, song theo kết quả điều tra của 
RoboCash Group năm 2019, có đến 90% 
Bảng 1. Mức am hiểu tài chính tại một số quốc gia châu Á*
Quốc gia Kiến thức Hành vi Thái độ Tổng
HongKong 5,8 6,0 2,7 14,5
Hàn Quốc 5,4 5,7 3,2 14,3
Thái Lan 3,9 5,8 3,1 12,8
Malaysia 3,6 5,7 3,0 12,3
Cam-pu-chia 3,5 5,2 2,8 11,5
Việt Nam 3,6 5,0 3,0 11,6
*Ghi chú: Kết quả điều tra dựa trên bảng hỏi của OECD (2016). Mẫu nghiên cứu là người trưởng 
thành, trong đó: HongKong 1.000; Hàn Quốc 2.424; Thái Lan 10.000; Malaysia 2.889; 
Cam-pu-chia 1.035 (chủ yếu thủ đô PnomPenh); Việt Nam 1.000 (chủ yếu Hà Nội & TP. HCM)
Nguồn: OECD (2016), Morgan & Trinh (2017)
TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG
Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75
người sử dụng thương mại điện tử phải 
đối mặt với việc thiếu hụt dòng tiền; 24% 
số người được hỏi đánh giá mức hiểu biết 
trung bình; nhưng có đến 93% người Việt 
Nam không hứng thú với việc cải thiện 
tình hình (Dougn, 2019). Điều này đòi hỏi 
những chương trình đào tạo nâng cao am 
hiểu tài chính trong tương lai phải có tính 
thực tiễn và tạo động lực cho người dân.
Một số chương trình giáo dục tài chính tiêu 
biểu trước năm 2015 phải kể đến là (Phạm 
Mạnh Hùng, 2017):
 ○ Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP): 
Chương trình giáo dục tài chính bắt đầu 
năm 2007 và được tài trợ bởi City Group. 
Chương trình hướng đến đối tượng là hộ 
nghèo ở khu vực Hà Nội và lân cận. Năm 
2016, VBSP đào tạo tài chính cho chương 
trình nuôi cá theo vùng tại Nam Á và Đông 
Nam Á.
 ○ HSBC Việt Nam: Năm 2012, HSBC 
Việt Nam giới thiệu chương trình giáo dục 
tài chính gồm thư viện online với 10 nội 
dung (tài chính cá nhân và tài chính doanh 
nghiệp) và chương trình thí điểm ở trường 
tiểu học với tên gọi “Junior Achievement 
More than Money”.
 ○ Home Credit: Chương trình bắt đầu từ 
năm 2013 và hợp tác với những trung tâm 
mua sắm lớn. Đây là chương trình tư vấn 
tài chính với tên gọi “Think it through, sign 
it wisely” dành cho vay tiêu dùng. Đại diện 
của Home Credit cho biết những khách 
hàng nữ từ 25~50 tuổi đủ điều kiện vay. 
Những người tham quan có thể tham gia 
những thử thách về tài chính và giành phần 
thưởng cũng như có thêm những thông tin 
tài chính từ sổ tay tài chính.
 ○ Creative Wealth Vietnam: Đây là 
chương trình được điều hành bởi Creative 
Wealth- Mỹ, dành cho trẻ em nhằm giúp 
trẻ em có được trách nhiệm cao nhất với 
số tiền có được từ cha mẹ và họ hàng cũng 
như hiểu cách sử dụng tiền.
 ○ VISA: Chương trình thực hành quản lý 
tài chính tài trợ bởi VISA, hợp tác với Citi 
Foundation, Công ty quan hệ công chúng 
Ogilvy, và Trung ương Hội sinh viên Việt 
Nam. Những video này được công khai 
vào năm 2012 và nhận được hàng triệu 
lượt xem (tại https://www.youtube.com/
watch?v=R55kRHo5Ba0&t=39s)
 ○ Sacombank: Nhận diện tầm quan trọng 
của những kỹ năng tài chính dành cho đối 
tượng trẻ em, Sac ... nghiệm xây dựng chương trình 
giáo dục tài chính quốc gia tại một số 
nước châu Á
(i) Chương trình giáo dục tài chính của 
Nhật Bản
Nghiên cứu của Yoshino và cộng sự (2017) 
chỉ ra rằng Nhật Bản là quốc gia châu Á rất 
chú trọng đến giáo dục tài chính cho người 
dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chương trình giáo 
dục tài chính được lồng ghép vào chương 
trình phổ thông bắt đầu từ lớp 1 của cấp tiểu 
học cho đến lớp 12 của cấp trung học. Hội 
đồng trung ương về thông tin dịch vụ tài 
chính (CCSFI), tài trợ bởi Ngân hàng Nhật 
TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG
Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 81
Bản (Bank of Japan), tạo ra một ma trận 
mục tiêu đầy tham vọng cho việc thực hiện 
giáo dục tài chính ở cấp tiểu học và trung 
học. Những nội dung chính gồm có:
 ○ Lập kế hoạch tài chính trọn đời và quản 
lý chi tiêu hộ gia đình, bao gồm quản lý 
tiền và ra quyết định, tiết kiệm và sử dụng 
hiệu quả các sản phẩm tài chính, hiểu tầm 
quan trọng của lập kế hoạch và đạt được 
những kỹ năng về việc đó, hoặc dự phòng 
cho tai nạn, thảm hoạ, hoặc ốm đau.
 ○ Cơ chế của tài chính và nền kinh tế, bao 
gồm hiểu chức năng của tiền và tài chính, 
chu kỳ kinh doanh, nhu cầu chính sách kinh 
tế, và những vấn đề tài chính.
 ○ Quyền và rủi ro đối với người tiêu dùng, 
phòng ngừa những vấn đề tài chính bao 
gồm đạt được những kỹ năng căn bản cho 
việc ra quyết định độc lập và phù hợp để 
sống tốt hơn, ngăn chặn những vấn đề liên 
quan đến giao dịch tài chính và nợ nhiều.
 ○ Giáo dục nghề nghiệp, bao gồm hiểu tầm 
quan trọng của công việc và sự lựa chọn 
nghề nghiệp.
Tuy nhiên, chương trình giáo dục tài chính 
của Nhật Bản có nhiều điểm hạn chế như 
thiếu giáo viên có kinh nghiệm, thiếu thời 
gian, thiếu động lực cho học sinh. Chỉ có 
13% giáo viên tham gia giảng dạy có kiến 
thức về kinh tế và kinh doanh. Đồng thời, 
học sinh phổ thông cho rằng chương trình 
quá khó hiểu và không có tính thực tiễn cao.
(ii) Chương trình giáo dục tài chính của 
Thái Lan
Điểm nổi bật trong chương trình giáo 
dục tài chính của Thái Lan là sự đổi mới 
trong kênh đào tạo và đẩy mạnh sự hợp 
tác công tư trong chiến lược giáo dục tài 
chính quốc gia (Nguyễn và Hoàng, 2016). 
Khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân 
vào chiến lược giáo dục tài chính quốc gia 
không chỉ giúp san sẻ gánh nặng xã hội với 
Chính phủ mà còn tăng tính thực tiễn cho 
nội dung đào tạo.
Các tổ chức tham gia vào chiến lược giáo 
dục tài chính quốc gia của Thái Lan rất đa 
dạng, gồm:
 ○ Các tổ chức tài chính chuyên nghiệp: 
Tại khu vực nông thôn là Ngân hàng 
Nông nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp 
(BAAC); tại khu vực thành thị là Ngân 
hàng Tiết kiệm Chính phủ (GSB). Đây là 
hai tổ chức chuyên nghiệp thuộc Chính phủ 
lớn nhất tại Thái Lan. BAAC tích hợp giáo 
dục tài chính với phân phối các sản phẩm 
ngân hàng thông qua chương trình như 
“Người nông dân thông thái”. GSB đã triển 
khai các chương trình giáo dục tài chính 
dựa trên tiết kiệm, hướng đến trẻ em, thành 
lập các ngân hàng học sinh được điều hành 
bởi chính học sinh.
 ○ Ngân hàng thương mại: Các ngân hàng 
thực hiện trách nhiệm xã hội của mình 
thông qua việc cử các nhân viên đến đào 
tạo cho các trường học hoặc cung cấp dịch 
vụ lập kế hoạch tài chính cá nhân miễn phí 
cho khách hàng.
 ○ Các cơ quan quản lý nhà nước, gồm Sở 
Giao dịch chứng khoán và Uỷ ban Chứng 
khoán Thái Lan, thiết kế chương trình xây 
dựng thói quen tiết kiệm dài hạn cho học 
sinh tiểu học và trung học nhằm giúp các 
em trở thành nhà đầu tư chứng khoán tiềm 
năng. Chương trình nhà đầu tư tiềm năng 
đã thu hút 7 triệu học sinh tham gia. Đồng 
thời, các cơ quan này còn cho phát sóng các 
tập phim về đầu tư hoặc phát triển những 
Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và 
đề xuất cho Việt Nam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202082
ứng dụng công nghệ để giáo dục kiến thức 
đầu tư, cung cấp những công cụ như máy 
tính cá nhân để học sinh có thể tính toán 
được tỷ suất sinh lời đơn giản của các 
khoản đầu tư.
 ○ Trung tâm bảo vệ người tiêu dùng tài 
chính và các tổ chức xã hội và tổ chức phi 
chính phủ: Các tổ chức như Viện nghiên 
cứu châu Á Kennan, Quỹ nghiên cứu Thái 
Lan, Quỹ Khom Loy và quỹ Step Ahead 
đều cung cấp các khoá học tài chính cho 
những người có thu nhập thấp và khó khăn. 
Nguồn tài trợ từ chính phủ Thái Lan và các 
tổ chức khác. Ngoài hình thức đào tạo căn 
bản tại lớp học, có những tổ chức cung cấp 
khoá đào tạo ngay cạnh bãi rác như Quỹ 
Khom Loy, quỹ Kennan tại các khu ổ chuột 
để đảm bảo giáo dục tài chính đến được 
những nhóm yếu thế nhất trong xã hội. Vai 
trò của chính quyền địa phương được thúc 
đẩy thông qua việc khuyến khích chính 
quyền thành lập các nhóm nghiên cứu vì 
cộng đồng. Việc đo lường được thực hiện 
thông qua bài kiểm tra trước và sau khoá 
đào tạo và thông qua kết quả của dự án thực 
tế. Những học viên ưu tú sẽ trở thành giáo 
viên và tiếp tục đào tạo tài chính cho cộng 
đồng của mình.
Như vậy, một chương trình giáo dục tài 
chính quốc gia phải làm rõ được bốn vấn đề 
(i) Đối tượng của giáo dục tài chính là ai? 
(ii) Những nội dung gì cần cung cấp? (iii) 
Cách thức cung cấp giáo dục tài chính là 
gì? (iv) Đánh giá chương trình giáo dục tài 
chính như thế nào? Chương trình giáo dục 
tài chính quốc gia đòi hỏi sự xuyên suốt 
trong cuộc đời của mỗi cá nhân, sự hợp tác 
của nhà nước với tư nhân, sự chung tay góp 
sức của nhiều tổ chức, cá nhân nhằm tạo ra 
một cộng đồng am hiểu tài chính, có thái 
độ đúng đắn với các quyết định tài chính cá 
nhân, hướng đến an toàn tài chính.
5. Một số đề xuất về chương trình giáo 
dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số 
hoá ngành tài chính ở Việt Nam
Qua đánh giá thực trạng am hiểu tài chính 
và giáo dục tài chính tại Việt Nam, trên cơ 
sở tham khảo bài học kinh nghiệm của một 
số quốc gia, nhóm tác giả đưa ra một số 
đề xuất về chương trình giáo dục tài chính 
quốc gia như sau:
 ○ Ban hành khung khổ pháp lý cho giáo dục 
tài chính quốc gia. Giáo dục tài chính phải 
được luật hoá thành các văn bản cụ thể, phải 
trở thành chủ trương chính thống của Chính 
phủ để các chương trình triển khai sau đó 
đảm bảo tính đồng bộ và hệ thống.
 ○ Quy định cơ quan chủ quản và các cơ quan 
phối hợp thực hiện. Có thể phân cơ quan 
chủ quản và cơ quan phối hợp theo từng đối 
tượng của chương trình giáo dục. Đối với 
đối tượng là học sinh phổ thông và sinh viên 
đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên là cơ 
quan chủ quản. Bộ Tài chính, UBCKNN, 
NHNN, Bảo Việt,... là cơ quan phối hợp. 
Đối với đối tượng là doanh nghiệp, nên giao 
cho Bộ Tài chính bởi đây là cơ quan quản lý 
các chứng chỉ nghề nghiệp có liên quan. Đối 
với đối tượng thuộc vùng nông thôn, miền 
núi, nên giao cho Chính quyền địa phương 
kết hợp cùng các tổ chức như Đoàn thanh 
niên, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Quỹ tín 
dụng nhân dân...
 ○ Nội dung chương trình phải được xây 
dựng phù hợp với từng đối tượng. Thông 
thường, nên phân loại dựa vào các tiêu chí 
về nhân khẩu học như tuổi, giới tính, nghề 
nghiệp, địa bàn sinh sống, thu nhập, trình 
độ học vấn, mục tiêu tài chính.
 ○ Chuẩn bị nguồn lực cho chương trình giáo 
dục tài chính quốc gia. Vốn là điều kiện tiên 
TRẦN THANH THU - ĐÀO HỒNG NHUNG
Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 83
quyết và nên được huy động từ sự hỗ trợ của 
ngân sách nhà nước cũng như các tổ chức 
xã hội (trong và ngoài nước), từ các quỹ gọi 
vốn cộng đồng, đóng góp của mạng lưới các 
trí thức, các doanh nghiệp. Nguồn lực con 
người có thể đến từ nguồn lực chính thức 
(đội ngũ giảng viên, doanh nhân, nhân viên 
các tổ chức tài chính) hoặc phi chính thức 
(người dân) để tăng tính lan toả và xây dựng 
một cộng đồng hiểu biết tài chính.
 ○ Ứng dụng công nghệ thông tin vào hình 
thức cung cấp phổ cập kiến thức, đặc biệt là 
các ứng dụng trên điện thoại, trò chơi điện 
tử, gameshow, các khoá đào tạo online, 
hoặc các clips ngắn. Hiện đại hoá cách thức 
cung cấp kiến thức sẽ tạo sự hứng thú và dễ 
dàng khi tiếp cận cho cộng đồng. Đồng thời 
giúp cho việc chia sẻ kiến thức trở nên dễ 
dàng và nhanh chóng hơn.
 ○ Xây dựng bộ khung đánh giá am hiểu tài 
chính cho cá nhân. Xây dựng cơ sở dữ liệu 
quốc gia về am hiểu tài chính cá nhân cũng 
như doanh nghiệp ■
Tài liệu tham khảo
1. Chúc Anh Tú (2020), ‘Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam’, Đề tài Nhà nước tại Bộ Khoa học 
Công nghệ mã số KX.01.30/16-20.
2. Dougn Dean (2019), ’90 percent of online customers in Vietnam face urgent shortage of money’, Vietnaminsider.
vn, https://vietnaminsider.vn/90-percent-of-online-customers-in-vietnam-face-urgent-shortages- of-money/.
3. Đào Hồng Nhung, Trần Thanh Thu, & Nguyễn Minh Tuấn (2020), ‘Tác động của Fintech đối với tài chính 
toàn diện: Bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia và một số khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát 
triển, số 276 tháng 6/2020, 41-48.
4. Đinh Thị Thanh Vân & Nguyễn Thị Huệ (2017), ‘Hiểu biết tài chính cá nhân của sinh viên Việt Nam’, Kỷ yếu 
hội thảo quốc tế Thức đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam Vol 1, Viện chiến lược ngân hàng & Vụ hợp tác quốc tế Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam.
5. GIZ (2018), ‘Financial Literacy and financial inclusion in Vietnam: A way back and forth’, Study Report.
6. International Monetary Fund; World Bank (2018), ‘The Bali Fintech Agenda: Chapeau Paper (English)’, 
Washington, D.C. : World Bank Group.
7. Le Van Luyen & Nguyen Hong Hiep (2017), ‘Promoting Financial Inclusion Through Financial Education in 
Vietnam’, International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV.
8. Le Thanh Tam (2017), ‘Fintech for Promoting Financial Inclusion in Vietnam: Fact Findings and policy.
implication’. International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV.
9. Morgan, P.J., & Trinh, Q.L. (2017), ‘Determinants and impacts of Financial Literacy in Cambodia and Vietnam’, 
ADBI Working paper No. 754
10. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Diễn đàn công nghệ tài chính Việt Nam (FVF) 2019, Hà Nội tháng 11/2019.
11. Nguyễn Đăng Tuệ & Hoàng Anh Tú (2016, ‘Mạng lưới cung cấp chương trình giáo dục tài chính tại Thái Lan và 
kinh nghiệm cho Việt Nam’,Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, Số 18, 2-2016, 6-14.
12. Nguyen Hoai Nam & Hoang Phuong Dung (2017), ‘Explaining Financial Inclusion on Demand-Side Perspective: 
The central role of financial knowledge’. International Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in 
Vietnam, Vol 2, SBV.
13. OECD/INFE (2014). Progress Report on Financial Education. Paris: OECD.
14. OECD/INFE (2016), International Survey of Adult Financial Literacy Competencies. Paris: OECD.
15. Ozili P.K (2018). Impact of digital finance on financial inclusion and stability. Borsa Istanbul Review 18-4 (2018) 329-340.
16. Phạm Mạnh Hùng (2017), ‘Financial Literacy in Vietnam: Situation and recommendation’, International 
Conference Proceedings, Promoting Financial Inclusion in Vietnam, Vol 2, SBV.
17. Ryu, Hyun-Sun (2018), ‘Understanding Benefit and Risk Framework of Fintech Adoption: Comparison of Early 
Adopters and Late Adopters’, Proceedings of the 51st Hawaii International Conference on System Sciences, 3864–3873.
18. Standard and Poor Global Finlit Survey (2015).
19. Trần Thanh Thu, Đào Hồng Nhung & Nguyễn Thị Bảo Hiền (2019), ‘Fintech và tài chính toàn diện: Thúc đẩy hay 
kiến tạo’, Hội thảo khoa học quốc gia về Thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Những vấn đề lý luận, 
kinh nghiệm thực tiễn của các nước, Học viện Tài chính, Hà Nội.
20. Trần Thị Vân Anh (2017), ‘Đào tạo tài chính nâng cao khả năng tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và 
Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và 
đề xuất cho Việt Nam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202084
doanh nghiệp khởi nghiệp’, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Thúc đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam, Tập 1, Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam.
21. Vietnam Fintech Report 2018, Military Bank Security (MBS).
22. World Bank (2013), Global survey on consumer protection and financial literacy.
23. World Bank’s Global Findex Data 2014; World Bank’s Global Findex Data 2017.
24. Yen Thi Hai Nguyen (2017), ‘Evaluate Financial Literacy of Vietnamese Students in Higher Education and Its 
Determinants- The need of Financial Education’, Conference Papers – VEAM 2017.
25. Yoshino, Nayuki, Morgan, Peter, & Wignaraja, Ganeshan (2015), ‘Financial Education in Asia: Assessment and 
Recommendations’, ADBI Working Paper Series No. 534.
26. Yoshino, Nayuki, Morgan, Peter, & Trinh, Q.L. (2017), ‘Financial Literacy in Japan: Determimants and Impacts’, 
ADBI Working Paper 796.
27.  
28. https://www.youtube.com/watch?v=R55kRHo5Ba0&t=39s; 
29. https://vinschool.edu.vn/news_event/vinschool-dua-giao-duc-tu-duy-tai-chinh-va-khoi-nghiep-vao-chuong-trinh-
chinh-khoa-2/; 
30. https://www.fintechnews.org
(FEM) và hồi quy tác động ngẫu nhiên 
(REM) và các kiểm định để lựa chọn ra 
phương pháp phù hợp nhất, kết quả nghiên 
cứu cho thấy ảnh hưởng đáng kể của chất 
lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các 
công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam từ 
năm 2014 đến năm 2018. Nghiên cứu đã 
chỉ ra quy mô, danh tiếng của công ty kiểm 
toán và việc thay đổi kiểm toán viên trong 
các cuộc kiểm toán có ảnh hưởng lớn tới 
biến động giá của cổ phiếu trên TTCK tại 
Việt Nam được đo lường bởi chỉ số giá thị 
trường trên mỗi cổ phiếu (MPS). Ngoài ra, 
việc luân chuyển các công ty kiểm toán 
cũng có tác động đến giá thị trường mỗi 
cổ phiếu. Vì vậy, việc thay đổi kiểm toán 
viên thường xuyên sẽ góp phần làm giảm 
sự thân thiết của kiểm toán viên đối với 
khách hàng kiểm toán, từ đó tăng thái độ 
hoài nghi nghề nghiệp và tính khách quan 
độc lập trong số liệu của báo cáo kiểm 
toán, dẫn đến thông tin tài chính có chất 
lượng hơn cho các nhà đầu tư. Mặt khác, 
các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam 
cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa 
chọn các công ty kiểm toán có quy mô và 
uy tín lớn trên thị trường để thực hiện dịch 
vụ kiểm toán. Các công ty kiểm toán cần 
có những chính sách nâng cao chất lượng 
dịch vụ kiểm toán của doanh nghiệp mình 
bằng cách nâng cao trình độ chuyên môn 
của các kiểm toán viên. Các cơ quan quản 
lý chức năng cũng cần đưa ra những biện 
pháp giám sát chặt chẽ để nâng cao chất 
lượng dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam và 
áp dụng các chế tài xử phạt có tính răn đe 
để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trên 
thị trường chứng khoán. 
Hạn chế của nghiên cứu là chưa bao quát 
các nhân tố, trong đó có mức độ chuyên sâu 
về từng lĩnh vực ngành nghề của kiểm toán 
viên như một thước đo quan trọng cho chất 
lượng kiểm toán tới giá cổ phiếu trong các 
doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Hạn 
chế này sẽ là gợi ý cho các hướng nghiên 
cứu tiếp theo trong tương lai ■
tiếp theo trang 70

File đính kèm:

  • pdfchuong_trinh_giao_duc_tai_chinh_quoc_gia_trong_boi_canh_so_h.pdf