Chuỗi giá trị toàn cầu-Cơ hội và thách thức cho sự phát triển

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực

thông tin và chuyên chở hàng hóa quốc tế, đã góp phần tạo

nên một đặc tính mới của thương mại quốc tế, chuỗi giá trị

toàn cầu (GVCs), trong đó có sự tham gia mạnh mẽ của nhóm

nước đang phát triển, nhóm nước có nền kinh tế mới nổi, và

các nước phát triển vào phân công lao động quốc tế. Bài viết

này sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề: (i) Tổng quan về bản

chất, quy mô của chuỗi giá trị toàn cầu; (ii) phân tích các cơ

hội mang tính đột phá cho các nước kém phát triển và các

nước có nền kinh tế mới nổi tham gia vào nền kinh tế thế giới

với sự hiện diện của các quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu,

mặc dù ở các mức độ khác nhau; (iii) cuối cùng, bài viết cũng

xem xét một số trở ngại đối với các nước cũng như phản ứng

chính sách được thiết lập trong mối quan hệ với chuỗi giá trị

toàn cầu.

pdf 8 trang phuongnguyen 5240
Bạn đang xem tài liệu "Chuỗi giá trị toàn cầu-Cơ hội và thách thức cho sự phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuỗi giá trị toàn cầu-Cơ hội và thách thức cho sự phát triển

Chuỗi giá trị toàn cầu-Cơ hội và thách thức cho sự phát triển
55thaùng 8.2015 - soá 159
Chuỗi giá trị toàn cầu - Cơ hội và 
thách thức cho sự phát triển
ThS. Đinh Thị Thanh Long
Học viện Ngân hàng
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực 
thông tin và chuyên chở hàng hóa quốc tế, đã góp phần tạo 
nên một đặc tính mới của thương mại quốc tế, chuỗi giá trị 
toàn cầu (GVCs), trong đó có sự tham gia mạnh mẽ của nhóm 
nước đang phát triển, nhóm nước có nền kinh tế mới nổi, và 
các nước phát triển vào phân công lao động quốc tế. Bài viết 
này sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề: (i) Tổng quan về bản 
chất, quy mô của chuỗi giá trị toàn cầu; (ii) phân tích các cơ 
hội mang tính đột phá cho các nước kém phát triển và các 
nước có nền kinh tế mới nổi tham gia vào nền kinh tế thế giới 
với sự hiện diện của các quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu, 
mặc dù ở các mức độ khác nhau; (iii) cuối cùng, bài viết cũng 
xem xét một số trở ngại đối với các nước cũng như phản ứng 
chính sách được thiết lập trong mối quan hệ với chuỗi giá trị 
toàn cầu.
Từ khóa: Chuỗi giá trị toàn cầu, rủi ro, 
cơ hội, phản ứng chính sách.
1. Các quan điểm về chuỗi giá trị toàn 
cầu 
huỗi giá trị được coi là đặc tính của 
thương mại quốc tế ngày nay. Hiểu 
một cách đơn giản, chuỗi giá trị là 
chuỗi hoạt động mà một công ty hoạt 
động trong một ngành cụ thể, hoạt động 
nhằm mục đích cung cấp hàng hóa hoặc 
dịch vụ. Chuỗi giá trị của ngành (hay còn 
gọi là chuỗi cung ứng) được thực hiện 
theo hệ thống mạng lưới các công ty, gồm 
các quá trình liên quan tới hoạt động sản 
xuất hàng hóa và dịch vụ. 
Hiện có nhiều quan điểm về chuỗi giá 
trị toàn cầu. Những nghiên cứu đầu tiên 
từ năm 2000 đặt nền móng cho khái niệm 
chuỗi giá trị toàn cầu thường chú trọng 
tới “giá trị gia tăng trong thương mại”, 
thuật ngữ được ra đời cùng với hiện tượng 
chuyên môn hóa theo chiều dọc. “Giá trị 
gia tăng trong thương mại được hiểu là giá 
trị hàng hóa trung gian nhập khẩu có trong 
giá trị hàng hóa xuất khẩu của quốc gia” 
(Hummels et al, 2001), hay hàm lượng 
nhập khẩu có trong xuất khẩu. Những 
nghiên cứu thực nghiệm của Daudin et al. 
(2006- 2009), Escaith (2008), và Koopman 
et al. (2010) kiểm định quan điểm trên đều 
 Chính sách & thị trường tài chính - tiền tệ 
56 soá 159 - thaùng 8.2015
tuân thủ theo mô hình bảng I- O (Input- Output 
framework). Song mô hình bảng I- O chỉ đo 
lường theo giá trị gia tăng trong thương mại, thể 
hiện một phần của chuỗi giá trị toàn cầu, bởi nó 
bỏ qua các bước sản xuất tối đa hóa hàm lượng 
ngoại nhập. 
Johnson and Noguera (2012) tiếp cận theo 
hướng “giá trị gia tăng xuất khẩu, là giá trị gia 
tăng được sản xuất trong nước và được đối tác 
bạn hàng chấp nhận”. Johnson sử dụng chỉ số 
giá trị gia tăng trên tổng kim ngạch xuất khẩu 
(còn gọi là VAX), nhấn mạnh vai trò sản xuất 
liên ngành đóng góp vào giá trị xuất khẩu. 
Nhóm quan điểm thứ hai bổ sung thêm lý thuyết 
về chuỗi giá trị toàn cầu. Koopman et al. (2010) 
vẫn tuân thủ lý thuyết nền tảng về chuỗi giá trị 
toàn cầu phải bao gồm hàm lượng nhập khẩu 
có trong xuất khẩu (giá trị quá khứ- backward 
participation), nhưng bổ sung thêm phần giá trị 
gia tăng nội địa (domestic value added), chính 
là phần đầu vào trung gian được sử dụng ở quốc 
gia thứ ba để xuất khẩu tiếp (giá trị tương lai- 
forward participation). 
Quan điểm của Koopman hoàn toàn thống 
nhất với định nghĩa về chuỗi giá trị toàn cầu của 
OECD (2013): “Chuỗi giá trị toàn cầu là toàn bộ 
quá trình sản xuất hàng hóa, từ nguyên liệu thô 
cho tới thành phẩm, được thực hiện ở bất cứ nơi 
nào mà kỹ năng và nguyên liệu cần thiết để sản 
xuất đều có sẵn tại mức 
giá cả cạnh tranh cũng 
như đảm bảo chất lượng 
thành phẩm”. Định 
nghĩa của OECD còn 
chú trọng tới thương 
mại dịch vụ, được coi là 
nhân tố cốt yếu để đảm 
bảo chức năng hiệu quả 
trong chuỗi giá trị toàn 
cầu. Thương mại dịch 
vụ không những liên 
quan giữa các quốc gia, 
mà còn giúp các công 
ty gia tăng giá trị sản 
phẩm. Sáng kiến chung 
giữa OECD- WTO 
(TiVA) tập trung nghiên cứu giá trị gia tăng 
thương mại và dịch vụ của từng quốc gia được 
tiêu dùng khắp thế giới. TiVA còn được sử dụng 
như là thông tin đầu vào cho các nhà hoạch định 
chính sách xem xét chính sách thương mại của 
chính quốc gia mình.
Cũng có khái niệm nữa liên quan tới chuỗi giá 
trị toàn cầu trong mối liên hệ giữa công ty, ngành 
sản xuất, quốc gia, là kết quả của quá trình phân 
tán sản xuất (Coe and Hass, 2007). Chuỗi giá trị 
toàn cầu được hiểu là trình tự của hoạt động sản 
xuất, tạo ra sản phẩm cuối cùng cho người sử 
dụng cuối cùng, trong đó hoạt động sản xuất gắn 
chặt với mối quan hệ giữa các công ty. Khái niệm 
tập trung vào mối quan hệ giữa nhà cung ứng 
trong nước- nước ngoài, công ty mẹ- chi nhánh 
nước ngoài, hoạt động thuê ngoài (outsourcing).
Cuối cùng, chuỗi cung ứng thương mại hay 
chuỗi giá trị toàn cầu thương mại (GVCs trade) 
là dòng hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, đào tạo và 
chuyển giao (know- how) được chu chuyển 
giữa các quốc gia, trong đó, lao động gắn liền 
với chuỗi giá trị toàn cầu (Baldwin and Lopez- 
Gonzalez, 2013).
Trong nội dung bài viết này, tác giả sẽ tiếp cận 
chuỗi giá trị toàn cầu theo khái niệm của OECD 
(2013a), UNCTAD (2013a), OECD- WTO, với 
chuỗi giá trị toàn cầu được hiểu là chuỗi cung ứng 
thương mại. Sơ đồ 1 về sản xuất dầu thô và khí 
Sơ đồ 1. Chuỗi giá trị toàn cầu mặt hàng dầu thô và khí đốt
Nguồn: www.google.com
57thaùng 8.2015 - soá 159
đốt là minh chứng 
đơn giản cho chuỗi 
giá trị toàn cầu. Sơ 
đồ 1 được bắt đầu 
từ quá trình khai 
thác dầu thô và 
khí đốt (Upstream 
oil and gas), được 
vận chuyển tới địa 
điểm trung gian 
(Mid stream), ở đó 
dầu thô và khí đốt 
được chế biến. Sau 
đó, sản phẩm chế 
biến trung gian 
được đưa tới các 
nhà máy sản xuất, 
lọc dầu, chiết xuất 
sản phẩm hóa dầu 
rồi phân phối bán 
buôn hoặc bán 
lẻ. Giai đoạn đầu 
chưa có sự gia tăng về giá trị hàng hóa, sản phẩm 
khai thác mới chỉ ở dạng nguyên liệu thô. Giá 
trị hàng hóa được gia tăng bắt đầu từ giai đoạn 
trung gian, với sự tham gia của cả quá trình sản 
xuất, chế biến, dịch vụ (như vận chuyển, phân 
phối, lưu kho, marketing). Cũng cần lưu ý là 
ba giai đoạn trên không nhất thiết phải diễn ra 
ở một nước, nó có thể diễn ra trên quy mô toàn 
cầu, dựa vào lợi thế của từng vùng, miền liên 
quan tới chi phí sản xuất và địa điểm sản xuất. 
2. Chuỗi giá trị toàn cầu- cơ hội cho sự phát 
triển
Chuỗi giá trị toàn cầu đã có tác động mạnh mẽ 
tới phân công lao động quốc tế, giúp thay đổi 
cấu trúc kinh tế ở cả nhóm nước đang phát triển 
và nhóm nước có nền kinh tế mới nổi cả về tốc 
độ và quy mô hợp tác kinh tế. Quá trình phân 
tán sản xuất diễn ra trên hai phương diện: (i) 
Phân tán sản xuất theo vị trí địa lý, cụ thể là theo 
quy mô từng vùng, miền trên thế giới; (ii) việc 
phân tán gắn với hình thành các trung tâm công 
nghiệp (agglomerate). 
Đối với nhóm nước đang phát triển, đang ở 
giai đoạn đầu thực hiện công nghiệp hóa, chuỗi 
giá trị toàn cầu giúp tận dụng được lợi thế thương 
mại, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, làm 
thay đổi chiến lược phát triển kinh tế và thu hẹp 
khoảng cách phát triển giữa các nước. 
John và Kierzkowski (1990) đặt lý thuyết về 
phân chia lẻ công đoạn sản xuất trong một quá 
trình sản xuất ở các nước khác nhau để giảm chi 
phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Việc chia 
nhỏ công đoạn sản xuất được dựa trên cơ sở lợi 
thế thương mại của từng vùng, miền, quốc gia 
liên quan tới các yếu tố sản xuất (lao động, vốn, 
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) và giai 
đoạn phát triển của từng quốc gia. Lợi thế nổi 
bật của các nước đang phát triển là nguồn nhân 
lực giá rẻ với lực lượng lao động thuộc nhóm 
dân số vàng. Điều này cho phép các quốc gia 
thực hiện công nghiệp hóa ở giai đoạn đầu1 theo 
hướng tham gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế 
từ những sản phẩm có hàm lượng lao động lớn 
1 Một số nước Đông Á thực sự tận dụng được cơ hội tham 
gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế để thực hiện công 
nghiệp hóa như: Singapore, Malaysia, Thailand, Philipine 
những năm 1980- 1990; Indonesia, Vietnam, India từ giữa 
những năm 1990 và 2000; Lao, Campuchia, Myanmar từ 
giữa những năm 2000. 
Đồ thị 1. Giá trị xuất khẩu máy móc thiết bị ở một số nước Đông Á
58 soá 159 - thaùng 8.2015
như dệt may, chế biến thực phẩm, công nghiệp 
nhẹ, sản xuất linh kiện máy móc Bên cạnh đó, 
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế và 
mạng lưới sản xuất cũng giúp các nước thay đổi 
cơ cấu kinh tế, thể hiện tỷ trọng máy móc được 
sử dụng trong sản xuất tăng lên. Thay đổi cơ cấu 
kinh tế còn được hiểu là bước nhảy vọt, từ việc 
tham gia vào quá trình sản xuất giản đơn giữa 
các quốc gia, chuyển sang quá trình sản xuất 
phức tạp hơn, kết hợp các giao dịch giữa trong 
và ngoài ngành giữa các nước. 
Với các nước khu vực Đông Á, trình độ phát 
triển kinh tế tương đối khác nhau sẽ là một lợi 
thế. Nó cho phép bất kỳ nước nào cũng có khả 
năng đảm nhận một công đoạn trong mạng lưới 
sản xuất và có khả năng kết hợp mở rộng sang 
các ngành khác. Thực tế chứng minh rằng, mạng 
lưới sản xuất ở các nước Đông Á đã đạt tới giai 
đoạn phát triển cao hơn so với các khu vực khác 
trên thế giới như các nước Mỹ La tinh, Đông Âu, 
bởi các nước Đông Á đồng thời tham gia phân 
công lao động quốc tế và hình thành các trung 
tâm công nghiệp (agglomerate) (WTO 2013, 
p.362). 
Đối với nhóm nước phát triển trung bình có 
nền kinh tế mới nổi: Chuỗi giá trị toàn cầu đòi 
hỏi phát triển các giao dịch trong và ngoài ngành, 
là bước tích lũy ban đầu cho sự ra đời của các 
trung tâm công nghiệp ở các nước có trình độ 
phát triển cao hơn. Những lợi thế hiển nhiên mà 
trung tâm công nghiệp mang lại cho các nước là: 
Thứ nhất, khi các trung tâm công nghiệp được 
hình thành, cấu trúc công nghiệp của các nước 
trở nên tương đối ổn định trong một chừng mực 
nào đó. Các ngành, nghề sản xuất sẽ tuân thủ 
theo quy luật tự nhiên và thị trường, hướng tới 
các vùng, miền có lợi thế về sản xuất như vùng 
có nguồn nhân công giá rẻ. Khi ngành, nghề 
sản xuất ban đầu được hình thành (gọi là lõi 
của trung tâm công nghiệp), bản thân nó cũng 
sẽ trở thành một lợi thế, kéo theo các ngành 
công nghiệp khác bổ trợ. Từ đó, quốc gia có thể 
thay đổi cấu trúc công nghiệp theo hướng bền 
vững và tăng khả năng cạnh tranh. Thứ hai, các 
doanh nghiệp địa phương có cơ hội tham gia vào 
mạng lưới sản xuất dưới sự điều hành của các 
công ty đa quốc gia. Mặc dù các doanh nghiệp 
địa phương phải đối mặt với những vấn đề cạnh 
tranh phi giá như chất lượng sản phẩm không 
đồng nhất, giao hàng không đúng hạn, yếu tố tin 
tưởng trong kinh doanh chưa được thiết lập và 
việc có được tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu 
hay không hoàn toàn phụ thuộc vào chiến lược 
phát triển của công ty đa quốc gia, nhưng khi các 
công ty nội địa đạt được ngưỡng cạnh tranh nhất 
định thì các công ty đa quốc gia chính là cánh 
cửa mở ra cho công ty nội địa bước vào mạng 
lưới sản xuất toàn cầu. Thứ ba, khi trung tâm 
Đồ thị 2. Chi phí cho nghiên cứu và phát triển ở một số quốc gia 
Đơn vị: %/GDP
Nguồn: World Bank
59thaùng 8.2015 - soá 159
công nghiệp được hình thành, mối quan hệ giữa 
công ty trong nước và các công ty đa quốc gia 
càng chặt chẽ hơn thông qua kênh chuyển giao 
và tiếp cận công nghệ. Một khi công ty nội địa 
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, việc chuyển 
giao kiến thức về công nghệ, kỹ năng quản lý, 
cách thức tiếp cận thị trường, nghiên cứu và phát 
triển sẽ là điều tất yếu. 
Quy mô của trung tâm công nghiệp và các điều 
kiện hỗ trợ cũng là nhân tố tác động mạnh tới sự 
tham gia của chuỗi giá trị toàn cầu. Vấn đề đặt ra 
không đơn giản chỉ là giao thông, cơ sở hạ tầng 
và tiện ích, mà thay vào đó là sự phát triển của 
các thành phố vệ tinh (metropolitan) hỗ trợ cho 
các trung tâm công nghiệp. Ví dụ xung quanh 
Bangkok, có 40 khu công nghiệp xây dựng trong 
đường kính 100 km, với các dịch vụ hỗ trợ trong 
khoảng 2- 2,5 giờ lái xe. Hệ thống được vận 
động kèm theo hệ thống đường cao tốc, cảng 
container với quy mô lớn trong khu vực. Jakarta 
và Manila có đủ điều kiện về dân cư song lại 
không đáp ứng được yêu cầu về cơ sở hạ tầng 
cho việc hình thành trung tâm công nghiệp. Giá 
đất tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là trở 
ngại lớn nhất cho hai thành phố này chuyển đổi 
lên đô thị hóa (WTO 2013, p. 374).
3. Chuỗi giá trị toàn cầu- những vấn đề đặt 
ra trong hoạch định chính sách
Thứ nhất, chuỗi giá trị toàn cầu yêu cầu các 
nước thực hiện cải tổ, chủ động tham gia phân 
công lao động quốc tế. Như phân tích ở trên, 
chuỗi giá trị toàn cầu giúp các nước đẩy nhanh 
quá trình công nghiệp hóa và hình thành các trung 
tâm công nghiệp. Nhưng cũng phải nhấn mạnh 
là, không phải nước nào cũng tự động được phép 
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Một số điều 
kiện cũng được đặt ra với các nước nhận đầu tư 
như cơ sở hạ tầng, dịch vụ, quy hoạch vùng miền 
phát triển sản xuất, chuỗi cung ứng (logistics) 
và thay đổi cả về kiến trúc thượng tầng để đảm 
bảo mạng lưới sản xuất được thông suốt. Chính 
các nước nhận đầu tư tham gia chuỗi giá trị toàn 
cầu cũng phải nhận thấy cơ hội và thách thức 
cho sự phát triển, đặc biệt là vấn đề cạnh tranh 
để có chỗ đứng trong chuỗi giá trị. Một loạt các 
chính sách cần được thiết lập theo hướng tối ưu 
lợi thế và giảm thiểu chi phí (Bảng 1).
Thực tế đã chứng minh rằng, sự tham gia của 
các quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu đã gắn 
liền với việc cắt giảm các biện pháp bảo hộ. 
Chính phủ các nước tích cực tham gia đàm phán 
và cắt giảm thuế quan mạnh mẽ trong những 
năm gần đây, đặc biệt là nước đang phát triển. 
Thuế quan giảm đối với hàng hóa trung gian sẽ 
trở thành nhân tố hấp dẫn đầu tư từ các công ty 
đa quốc gia, giúp phân bổ lại nguồn lực và tìm 
kiếm vị trí của mỗi quốc gia trong chuỗi giá trị. 
Hiện nay, Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược 
xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang được coi 
là bước tiến mới mở ra môi trường kinh doanh 
quốc tế thuận lợi cho mạng lưới sản xuất, đặc 
biệt là thông qua mức cắt giảm thuế quan, hỗ trợ 
Bảng 1. Các chính sách cần được thiết lập nhằm giảm thiểu chi phí phát sinh khi tham gia 
chuỗi giá trị toàn cầu
Loại hình Giảm thiểu chi phí thành lập
Giảm thiểu chi phí dịch vụ có liên 
quan Giảm thiểu chi phí sản xuất
Phân tán 
theo vị trí 
địa lý
Các biện pháp hỗ 
trợ, xúc tiến đầu tư
- Các biện pháp cải tổ thể chế: cắt 
giảm thuế quan, hỗ trợ xuất khẩu
- Các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật 
trong lĩnh vực logistics: phát triển 
cơ sở hạ tầng về công nghệ, thông 
tin
- Thực hiện tự do hóa các dịch 
vụ hỗ trợ sản xuất.
- Thực hiện tự do hóa đầu tư.
- Cải thiện dịch vụ liên quan tới 
cơ sở hạ tầng như cung cấp 
điện và cho các khu chế xuất.
Phân tán 
gắn với hình 
thành trung 
tâm công 
nghiệp
Các biện pháp hỗ trợ 
kết nối kinh doanh 
giữa doanh nghiệp 
trong nước với các 
công ty đa quốc gia
- Giảm chi phí giao dịch đối với hoạt 
động kinh tế.
- Thực hiện cải cách các định chế 
kinh tế, hệ thống luật pháp theo 
hướng nhất thể hóa với các quy 
định quốc tế.
- Cho phép hình thành các 
trung tâm thông qua sự tham 
gia của các doanh nghiệp vừa 
và nhỏ. 
- Thúc đẩy nghiên cứu và phát 
triển.
Nguồn: Fukunari Kimura, 2013
60 soá 159 - thaùng 8.2015
dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ. Việc phát 
triển cơ sở hạ tầng, cải thiện doanh nghiệp vừa 
và nhỏ là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu của 
các nước tham gia TPP. 
Thứ hai, sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu 
khiến các quốc gia dễ bị tổn thương thông qua 
kênh dẫn truyền các cú sốc vĩ mô. Khi tham gia 
chuỗi giá trị toàn cầu, các quốc gia hoạt động 
trong một khối liên kết kinh tế, dịch vụ chặt chẽ. 
Do vậy, chỉ cần bất ổn vĩ mô xảy ra ở nơi nào đó 
trên thế giới, ngay lập tức sẽ ảnh hưởng tới cả hệ 
thống. Khủng hoảng tài chính bắt đầu năm 2008, 
khủng hoảng nợ công châu Âu 2009, sóng thần 
xảy ra ở Nhật, quan hệ Nga- Mỹ- Châu Âu căng 
thẳng do vấn đề Ucraina đều dẫn tới khủng 
hoảng cung hàng hóa và ảnh hưởng trực tiếp tới 
hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu. Không 
giống với khủng hoảng tài chính2, cơ chế dẫn 
truyền bất ổn vĩ mô tới khu vực sản xuất diễn ra 
nhẹ nhàng hơn do không chịu rủi ro lây nhiễm, 
do đó, khu vực kinh tế có thể tự mình giảm thiểu 
rủi ro và vẫn có khả năng vận hành tốt. Nhưng 
trên thực tế, không phải là các nước không có 
chính sách bảo hộ thương mại, chính sách chống 
suy thoái chu kỳ trong thời kỳ khủng hoảng. 
Vô tình các chính sách này tạo ra sự phân biệt 
đối xử với doanh nghiệp trong nước. Ví dụ, một 
doanh nghiệp nội địa nếu tham gia GVCs nhập 
khẩu hàng hóa trung gian sẽ được hưởng ưu đãi 
thuế quan. Trong khi cũng một doanh nghiệp 
nội địa thực hiện hoạt động sản xuất hàng hóa 
lắp ghép giai đoạn cuối quá trình thuê ngoài 
(offshore), không tham gia GVCs, nhập khẩu trở 
lại trong nước, thì sẽ phải chịu thuế nhập khẩu. 
Rõ ràng là, thuế quan áp dụng cho hoạt động 
thuê ngoài vận hành như một cơ chế chống bán 
phá giá, gây khó khăn cho doanh nghiệp không 
tham gia GVCs. 
Thứ ba, khó khăn khi đo lường chuỗi giá trị 
toàn cầu và thâm hụt thương mại. Cho đến nay, 
trở ngại lớn nhất khi tính chuỗi giá trị toàn cầu 
là phương pháp tiếp cận. Các nước trên thế giới 
đều công bố dữ liệu thương mại quốc tế bằng 
2 Cơ chế dẫn truyền khủng hoảng tài chính sẽ diễn ra trong 
khu vực tài chính, khuyếch đại và lây nhiễm sang tất cả 
các định chế tài chính yếu kém ở các quốc gia.
tính gộp giá trị hàng hóa và dịch vụ (giá trị cuối 
cùng) của quốc gia đó với phần còn lại của thế 
giới. Song phương pháp đo lường chuỗi giá trị 
toàn cầu dựa trên cơ sở giá trị gia tăng, hoàn 
toàn chưa có hướng dẫn cụ thể dữ liệu công bố. 
Các nước không thể sử dụng dữ liệu thống kê 
được công bố để tính chuỗi giá trị gia tăng, cho 
dù dữ liệu công bố có thể có thông tin liên quan 
tới hàm lượng nội địa hoặc nhập khẩu trong tổng 
kim ngạch xuất khẩu, nhưng dữ liệu đó hoàn 
toàn không đo lường trực tiếp giá trị hàng hóa 
nhập khẩu theo chuỗi giá trị gia tăng, hoặc đo 
lường giá trị gia tăng có được từ nhập khẩu. Hầu 
hết các nghiên cứu thực nghiệm đo lường giá trị 
gia tăng dựa trên bảng I- O, được công bố sẵn từ 
cơ quan thống kê. WIOD (World Input- Output 
Database) cung cấp số liệu cho 70 nước trong 
giai đoạn 1995- 2011. OECD và WTO công bố 
số liệu cho 56 quốc gia tới năm 2009. 
Liên quan tới cách tính thâm hụt thương mại, 
từ sơ đồ 2: Giả sử Mỹ cung cấp đầu vào sản xuất 
Iphone cho Trung Quốc với giá trị 229 USD. 
Trung Quốc và các nước tham gia chuỗi giá trị 
sản xuất Iphone theo giá trị đóng góp: Đài Loan 
207 USD, Đức 161 USD, Hàn Quốc 800 USD, 
Rumani 413 USD, Trung Quốc lắp ráp gia tăng 
giá trị 65 USD. Sau đó, Trung Quốc xuất khẩu 
thành phẩm trị giá 1.875 USD về Mỹ. Vấn đề 
đặt ra là các nước sẽ tính toán thâm hụt thương 
mại như thế nào theo sự đóng góp của mỗi quốc 
gia trong GVCs? Ta sẽ thấy sự khác biệt nếu tính 
thâm hụt thương mại theo phương pháp truyền 
thống và thâm hụt thương mại căn cứ theo sự 
đóng góp của mỗi quốc gia vào GVCs (Bảng 
2). Rõ ràng tổng thâm hụt thương mại của Mỹ 
với các nước đối tác không đổi, nhưng xác định 
thâm hụt thương mại của Mỹ với từng nước theo 
quan điểm nào, quan điểm truyền thống hay 
quan điểm đóng góp của từng nước trong GVCs, 
từ đó sẽ có việc hoạch định chính sách thương 
mại tương ứng. 
Thứ tư, vấn đề điều hành tỷ giá hỗ trợ thương 
mại quốc tế. Theo quan điểm truyền thống, với 
cách tính thâm hụt thương mại như Bảng 2, để 
cải thiện thâm hụt thương mại, Mỹ và Trung 
Quốc cần điều chỉnh tỷ giá song phương giữa 
61thaùng 8.2015 - soá 159
hai nước. Nhưng nếu tính thâm hụt thương mại 
dưới góc nhìn của chuỗi giá trị toàn cầu thì tỷ 
giá sẽ được tính toán theo công thức nào, và điều 
chỉnh theo chiều hướng nào? Quan điểm về nội 
tệ giảm giá có làm xấu đi sức cạnh tranh thương 
mại quốc tế của nước đối tác không? Quay trở lại 
ví dụ ở Sơ đồ 2, giả định Trung Quốc là nước sản 
xuất IPhone, và Trung Quốc phải cạnh tranh với 
các nhà cung cấp smart phones khác. Trên thực 
tế, Trung Quốc là địa điểm cuối cùng lắp ráp 
linh kiện cho IPhone, tức là giá trị gia tăng của 
IPhone ở Trung Quốc đơn thuần là công đoạn 
lắp ghép, còn các thiết bị khác trong chuỗi giá trị 
được sản xuất từ nhiều quốc gia khác nhau. Chỉ 
cần một quốc gia trong chuỗi giá trị giảm giá nội 
tệ, sẽ khiến cho giá đầu vào sản xuất ở quốc gia 
tiếp theo sẽ giảm đi, và cuối cùng sẽ làm giảm 
giá IPhone ở Trung Quốc. Cơ chế truyền tải này 
hoàn toàn khác biệt về lý thuyết truyền thống là 
nội tệ giảm giá ở nước đối tác hàm ý giảm sức 
cạnh tranh của Trung Quốc. Lý luận mới cũng 
đòi hỏi phải xây dựng tỷ giá thực sao cho giá trị 
gia tăng của Trung Quốc sẽ phản ứng với sự thay 
Sơ đồ 2. Đóng góp của các quốc gia trong GVCs sản 
xuất Iphone
Bảng 2. Cách tính thâm hụt thương mại (TB) theo 
GVCs
Đơn vị: USD
TB của Mỹ với 
các nước CHN TWN DEU KOR ROW World
Theo quan điểm 
truyền thống -1.646 0 0 0 0 - 1.646
Theo quan điểm 
GVCs -65 -207 -161 -800 -413 -1.646
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu từ Sơ đồ 2
đổi giá đầu vào từ các nước tham gia 
chuỗi giá trị. 
Thứ năm, một khía cạnh của vấn 
đề cũng nên được nêu ra, đó là việc 
phụ thuộc vào các công ty đa quốc 
gia sẽ khiến một số nước dễ rơi vào 
bẫy thu nhập trung bình. Các quốc 
gia cũng nên độc lập tìm kiếm lợi thế 
của chính mình để hình thành nên các 
trung tâm công nghiệp. 
4. Kết luận
Chuỗi giá trị toàn cầu đang được coi 
là một nhân tố cách mạng, tái cấu trúc 
toàn bộ hoạt động sản xuất toàn cầu, 
từ mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị 
gia tăng, chuỗi cung ứng, hoạt động 
thuê ngoài và hình thành các trung 
tâm công nghiệp trên quy mô hội 
nhập cả chiều rộng và chiều sâu, từ 
các nước đang phát triển tới các nước 
phát triển. Nhân tố mới xuất hiện 
mang lại cả cơ hội, thách thức cho tất 
cả các nước tham gia, đòi hỏi sự vận 
động theo hướng phát triển của các nước, tạo 
dựng lợi thế thương mại cho chính mình. Trong 
xu thế đó, các quốc gia cũng nhận thấy những gì 
là bất lợi, và việc hoạch định chính sách có nghĩa 
vụ giảm thiểu bất lợi, sẽ trở thành điểm mạnh để 
các quốc gia tìm cho mình một chỗ đứng trong 
chuỗi giá trị toàn cầu. ■
Tài Liệu Tham khảo
1. Armington, Paul, S., (1969), “A Theory of Demand 
for Products Distinguished by Place of Production”, IMF 
Staff papers, Vol. 6, pp. 159 – 178.
2. Baldwin, R.E. and Lopez - Gonzalez, J. (2013), 
“Supply Chain Trade: a Portrait of Global Patterns 
and Several Testable Hypothesis”, London: Centre for 
Economic Policy Research (CEPR), CEPR Discussion 
Paper No. 9421.
3. Bayoumi, Tamim, Jaewoo Lee, and Sarma Jayanthi, 
(2005), “New Rates from New Weights”, IMF Working 
Paper 05/99
4. Daudin, G., Rifflart, C. and Schweisguth, D. (2009), 
“Who produces for Whom in the World economy”, Paris: 
Obsevatoire Francais de Conjonctures Economicques 
62 soá 159 - thaùng 8.2015
(OFCE), Documents de Travail de L’OFCE No. 2009 - 18.
5. Escaith, H. (2008), “Measuring Trade in Value Added 
in the New Industrial Economy: Statistical Implications”, 
Munich: Munich Personal RePEc Archive, MPRA Paper 
No. 14454.
6. Fukunari Kimura (2013), “How have production 
networks changed development strategies in East Asia?”, 
WTO 2013
7. Hummels, D.L., Ishii, J. and Yi, K. - M (2001), 
“The Nature and Growth of Vertical Specialization in 
international Trade, Journal of International Economics 
54(1): 75 - 96.
8. Johnson, R.C. and Noguera, G. (2012), “Accounting 
for Intermediates: Production Sharing and Trade in Value 
Added”, Journal of International Economics 86 (2): 224 
- 236.
9. Jones, R. W.; Kierzkowski, H. 1990. “The Role 
of Services in Production and International Trade: A 
theoretical framework” in R.W. Jones and A. O. Krueger 
(eds): The Political Economy of International Trade: 
International Trade: Essays in Honor of Robert E. 
Baldwin (Oxford, UK, Basil Blackwell).
10. Koopman, R., Powers, W., Wang, Z. and Wei, S - J 
(2010), “Give Credit Where Credit is Due: Tracing Value 
Added in Global Production Chains”, Cambridge MA: 
National Bureau of Economic Research (NBER), Working 
Paper No. 16426.
11. McGuirk, Anne K., (1987), “Measuring Price 
Competitiveness for Industrial Country Trade in 
Manufacturers”, IMF Working Paper 87/34.
12. Organisation for Economic Co - operation and 
Development (OECD) and World Trade Organization 
(WTO) (2013b) Aid for Trade in Action, Paris, Geneva: 
OECD, WTO.
13. Organisation for Economic Co - operation and 
Development (OECD) (2013), Interconnected Economies: 
Benefiting from Global Value Chains, 
14. Conference on Trade and Development (UNCTAD) 
(2013), Implications of Global Value Chains for Trade, 
Investment, Development and Jobs, Report prepared for 
the G20 Leaders Summit, Saint Petersburg, September 
2013. 
15. Zanello, Alessandro and Dominique Desruelle, 
(1997), “A Primer on the IMF’s Information Notice 
System”, IMF Working Paper 97/71.
Summary
Global value chains: Opportunities and challenges for development
Fragmentation of global production, resulting from the rise of technological innovations in communication 
and transportation, creates global value chains (GVCs), a dominant feature of World trade, encompassing 
groups of developing, emerging, and advanced economies. This paper will: (i) firstly, review the nature, and 
scope of global value chains; (ii) then, elaborate the precious opportunities can be offered for less- developed 
and emerging countries into the World economy, albeit at unparalleled paces; (iii) finally, consider obstacles 
that are exposed on participations and policies, designed in correlation with rapid change in global value 
chains landscape.
Thông Tin Tác giả
Đinh Thị Thanh Long, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng.
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính quốc tế, tỷ giá, chu chuyển vốn quốc tế, giao dịch thương mại quốc tế 
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng, Tạp 
chí Tài chính
Email: longdtt@hvnh.edu.vn

File đính kèm:

  • pdfchuoi_gia_tri_toan_cau_co_hoi_va_thach_thuc_cho_su_phat_trie.pdf