Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế và thực tế triển khai tại doanh nghiệp

Tại Việt Nam, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía

doanh nghiệp niêm yết - đối tượng đầu tiên dự kiến áp dụng IFRS theo khung lộ trình đến năm

2020. Đối với báo cáo tài chính IFRS được soạn lập, doanh nghiệp cần tuân thủ các yêu cầu được

quy định tại IFRS. Tuy nhiên, để làm được điều này, các doanh nghiệp cần phải có khả năng thu

thập thông tin, phân tích các giao dịch và điều chỉnh để tuân thủ yêu cầu đặt ra của IFRS. Việc làm

này đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp. Nghiên cứu về lịch sử hình thành IFRS và thực tế áp

dụng IFRS, bài viết tổng quát những thuận lợi và khó khăn trong triển khai lập báo cáo tài chính

theo IFRS đối với trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

pdf 4 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế và thực tế triển khai tại doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế và thực tế triển khai tại doanh nghiệp

Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế và thực tế triển khai tại doanh nghiệp
71
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
của Ủy ban IASC nhưng với một cơ cấu tổ chức 
chặt chẽ và độc lập hơn. Mục tiêu của IASC là hình 
thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ 
cho lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể 
áp dụng trên toàn thế giới. Thông tin trên báo cáo 
tài chính yêu cầu cần phải rõ ràng và có thể so sánh, 
như vậy mới có thể giúp các đối tượng sử dụng 
thông tin ra các quyết định kinh tế. 
Hiện thực hóa mục tiêu trên, IASC đã xây dựng 
bộ IFRS nhằm từng bước thay thế các Hệ thống 
chuẩn mực kế toán quốc tế cho phù hợp với bối 
cảnh mới. Bộ chuẩn mực mới dần được hoàn thiện 
và đến năm 2005, khi Nghị viện khối Liên minh 
châu Âu chỉ định IFRS là chuẩn mực kế toán cho 
các công ty cổ phần trong các nước khối Liên 
minh châu Âu. 
Tính đến nay, ISAC đã xây dựng 43 IAS/IFRS 
(bao gồm cả IFRS cho các doanh nghiệp (DN) vừa 
và nhỏ), trong đó có 27 IAS và 16 IFRS. IFRS đang 
được áp dụng tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ trên 
toàn thế giới, trong đó 119 quốc gia đã yêu cầu bắt 
buộc áp dụng IFRS đối với các đơn vị có lợi ích công 
chúng và các tổ chức tín dụng. Việc áp dụng IFRS 
sẽ tiếp tục mở rộng ra nhiều quốc gia trong những 
năm tới, bao gồm các nước tại châu Á và Việt Nam 
cũng không nằm ngoài xu thế đó. 
Tại Việt Nam, IFRS đang nhận được sự quan 
tâm rất lớn từ các DN niêm yết, đối tượng đầu 
tiên dự kiến áp dụng IFRS theo khung lộ trình áp 
dụng IFRS của Bộ Tài chính đến năm 2020. Từ năm 
2014, việc ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC về 
chế độ kế toán DN thay thế Quyết định 15/2006 
IFRS và thực tế áp dụng
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) được 
xây dựng và phát triển từ những năm đầu của thập 
kỷ 70. Đến năm 2001, Ủy ban Chuẩn mực Kế toán 
Quốc tế (IASC) được thành lập, dựa trên nền tảng 
CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
VÀ THỰC TẾ TRIỂN KHAI TẠI DOANH NGHIỆP
TĂNG VĂN TÚ - Email: tangvtu@gmail.com
Tại Việt Nam, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía 
doanh nghiệp niêm yết - đối tượng đầu tiên dự kiến áp dụng IFRS theo khung lộ trình đến năm 
2020. Đối với báo cáo tài chính IFRS được soạn lập, doanh nghiệp cần tuân thủ các yêu cầu được 
quy định tại IFRS. Tuy nhiên, để làm được điều này, các doanh nghiệp cần phải có khả năng thu 
thập thông tin, phân tích các giao dịch và điều chỉnh để tuân thủ yêu cầu đặt ra của IFRS. Việc làm 
này đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp. Nghiên cứu về lịch sử hình thành IFRS và thực tế áp 
dụng IFRS, bài viết tổng quát những thuận lợi và khó khăn trong triển khai lập báo cáo tài chính 
theo IFRS đối với trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Từ khóa: IFRS, báo cáo tài chính, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, doanh nghiệp
In Vietnam, the International Financial 
Reporting Standards – IFRS have been in 
interest of the listed enterprises, the first users 
of IFRS according to the itinerary framework 
by 2020. In terms of IFRS financial reports, 
enterprises have to follow the regulations in IFRS. 
However, this requires enterprises to collect 
information, analyze occurred transactions and 
adjust to follow the requirements of IFRS. This 
also creates challenges to enterprises in making 
IFRA financial reports especially the initial 
IFRS financial reports. Examining the history 
of IFRS and practical deployment of IFRS helps 
summarize the advantages and challenges in 
implementation of IFRS financial reports at 
EVN, thereby, the paper recommends solutions 
to closing the difference between VAS and IFRS.
Keywords: IFRS, financial report, EVN, enterprises
Ngày nhận bài: 01/9/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 28/9/2017
Ngày duyệt đăng: 02/10/2017
72
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
ngày 20/03/2006 và đặc biệt là Thông tư 202/2014/
TT-BTC về hướng dẫn lập báo cáo tài chính hợp 
nhất đã đưa chế độ kế toán và lập báo cáo tài chính 
của Việt Nam tiến lại gần hơn tới các tiêu chuẩn 
quốc tế trong IAS và IFRS.
Tuy nhiên, IFRS là những nguyên tắc chung, có 
tính chất khuyến cáo cho các quốc gia, không gắn 
trực tiếp với quốc gia nào. Vì vậy, khi triển khai 
áp dụng chuẩn mực này tại Việt Nam gặp khá 
nhiều khó khăn, vướng mắc. Việt Nam thuộc các 
nước áp dụng hình thức điển luật, trong khi hầu 
hết các nước phát triển lại áp dụng luật chung. 
Giữa 2 hệ thống luật này cũng có sự khác biệt lớn 
và ảnh hưởng đến việc ban hành các quy định 
pháp lý, trong đó có các quy định về chuẩn mực 
kế toán. Cụ thể, hệ thống chính sách và chuẩn mực 
kế toán của Việt Nam được ban hành theo hướng 
thận trọng, đề cao sự tuân thủ các quy định, hạn 
chế các ước tính kế toán và những vấn đề mang 
tính xét đoán. Trong khi đó, IFRS lại mang tính 
linh hoạt mở, nhiều ước tính, dựa nhiều vào yếu 
tố chủ quan và các xét đoán. Hội Kế toán và Kiểm 
toán Việt Nam (VAA) cũng chưa đóng vai trò chủ 
đạo trong việc ban hành các chuẩn mực kế toán 
giống như các nước khác.
Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp 
hơn nhiều so với các nước khác và vẫn đang quá 
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; Các 
hoạt động kinh tế còn đơn giản so với các nước có 
nền kinh tế thị trường phát triển cao như Anh, Mỹ, 
EU; Thị trường tài chính chưa phát triển mạnh, chủ 
yếu hoạt động trong phạm vi quốc gia và chưa liên 
thông với thị trường vốn trên thế giới; Thị trường 
vốn hoạt động đang trong giai đoạn hình thành 
chưa sẵn sàng cung cấp thông tin về giá trị hợp lý 
một cách đáng tin cậy; Một số DN không muốn áp 
dụng IFRS do ngại công khai về tình hình tài chính 
của mình; Nguồn nhân lực nhìn chung còn hạn chế, 
yêu cầu kỹ thuật của IFRS khá phức tạp, một số xét 
đoán mang tính chủ quan, đòi hỏi trình độ và đạo 
đức nghề nghiệp của người làm kế toán 
Nhận định của Hofstede (1980) cho thấy, sự 
khác biệt về đặc điểm của văn hóa giữa các quốc 
gia cũng tạo ra các hệ thống kế toán khác nhau. Các 
nước thuộc văn hóa anglo - saxon thường lựa chọn 
áp dụng hệ thống kế toán có các quy định chặt chẽ, 
trong khi các nước phương Tây lại có xu hướng lựa 
chọn và áp dụng hệ thống kế toán có các quy định 
linh hoạt và mềm dẻo hơn. Văn hóa Việt Nam thì 
lại thiên về xu hướng thận trọng tránh rủi ro, điều 
này cũng tác động không nhỏ đến tư duy và cách 
thức ban hành chuẩn mực và hệ thống chính sách 
kế toán của Việt Nam
Thực tiễn vận dụng IFRS tại EVN
Theo cam kết tại các Hợp đồng tín dụng với 
Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu 
Á, hàng năm, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 
lập báo cáo tài chính theo IFRS trên cơ sở chuyển 
đổi từ báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kế toán 
Việt Nam (VAS) đã được kiểm toán. Nghĩa là, EVN 
đồng thời thực hiện 2 báo cáo tài chính, một báo 
cáo tài chính lập theo VAS dành cho các cơ quan 
có thẩm quyền cũng như sử dụng cho mục đích 
quản lý, một báo cáo tài chính lập theo IFRS được 
dùng để gửi tổ chức tín dụng theo cam kết. Do có 
sự khác biệt lớn giữa VAS và IFRS, nên báo cáo 
chuyển đổi sang IFRS của EVN hiện nay chưa hoàn 
toàn tuân thủ theo IFRS. 
Việc lập báo cáo tài chính theo IFRS ngoài việc 
giúp EVN tăng tính minh bạch về tài chính, còn là 
mấu chốt quan trọng để nâng cao khả năng huy 
BẢNG 1: THỐNG KÊ ÁP DỤNG IFRS THEO KHU VỰC ĐỊA LÝ
Khu vực
Quốc gia và vùng lãnh thổ
Tổng số
Yêu cầu áp dụng các chuẩn 
mực IFRS cho toàn bộ hoặc 
hầu hết công ty đại chúng
Cho phép/ yêu cầu áp dụng 
các chuẩn mực IFRS cho 
một số công ty đại chúng
Không yêu cầu/cho phép áp 
dụng các chuẩn mực IFRS 
đối với công ty đại chúng
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Châu Âu 43 42 97,7 1 2,3 0 0,0
Châu Phi 20 16 37,2 1 2,3 3 7,0
Trung Đông 12 11 25,6 1 2,3 0 0,0
Châu Á và 
Châu Đại Dương
31 23 53,5 3 7,0 5 11,6
Châu Mỹ 37 27 62,8 8 18,6 2 4,7
Cộng 143 119 83,2 14 9,8 10 7,0
Nguồn: Hướng dẫn tóm tắt các chuẩn mực IFRS năm 2016
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
73
động vốn và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, mở 
rộng cơ hội hợp tác kinh doanh, hội nhập quốc tế. 
Trong giai đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ như 
hiện nay, thông qua áp dụng IFRS, nền kinh tế 
Việt Nam nói chung và các DN Việt Nam nói 
riêng, sẽ được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế. Việc 
áp dụng IFRS giúp cho các đối tác, các nhà đầu tư, 
đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, có thể tìm 
hiểu, so sánh, đánh giá các thông tin tài chính của 
đơn vị theo cùng một ngôn ngữ, chuẩn mực chung 
của quốc tế để từ đó có thể đưa ra các quyết định 
kinh doanh và/hoặc đầu tư phù hợp. Tuy nhiên, 
để EVN có thể tiếp cận được các nguồn vốn trên 
thị trường vốn quốc tế thì phải xem việc lập và 
trình bày các báo cáo tài chính theo IFRS gần như 
là một yêu cầu bắt buộc.
Triển khai việc áp dụng IFRS cũng là cơ hội 
giúp EVN nâng cao chất lượng quản trị và thông 
tin. Bởi vì, phương pháp hạch toán các giao dịch 
theo IFRS thông thường dựa vào “Bản chất hơn 
hình thức”, do đó để lập và trình bày báo cáo tài 
chính theo IFRS, Ban Lãnh đạo đơn vị cần phải có 
trách nhiệm cao hơn, dành nhiều thời gian hơn cho 
việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tế, để có 
thể phản ánh bản chất của nghiệp vụ kinh tế. Việc 
làm này giúp Tập đoàn nâng cao chất lượng quản 
trị, tính minh bạch và tính hợp lý của thông tin.
Sau khi triển khai IFRS, EVN cũng có thể dễ 
dàng so sánh, đánh giá các hoạt động và tình hình 
tài chính một cách chính xác hơn; Qua đó, có sự 
đánh giá và cách nhìn sâu sắc hơn về khách hàng, 
nhà cung cấp cũng như đối thủ cạnh tranh, nhất là 
đối với những đối thủ đến từ các quốc gia đã áp 
dụng IFRS
Qua quá trình thực hiện việc chuyển đổi báo 
cáo tài chính từ VAS sang IFRS, EVN phần nào 
đã có những hiểu biết nhất định về IFRS, tuy 
nhiên, trước những hạn chế về năng lực nội tại và 
thách thức của bối cảnh, việc triển khai áp dụng 
IFRS của EVN hiện nay vẫn còn gặp khá nhiều 
khó khăn. Trên thực tế, IFRS được xây dựng để 
áp dụng cho các nền kinh tế phát triển, khi mà 
các yếu tố thị trường đã phát triển đồng bộ, có 
thị trường thuận lợi cho định giá các loại tài sản 
theo giá thị trường. Các yếu tố này lại chưa biểu 
hiện đầy đủ ở các quốc gia đang phát triển như 
Việt Nam (như mức độ phát triển kinh tế của Việt 
Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước phát 
triển, do vậy các hoạt động kinh tế ở Việt Nam 
cũng đơn giản hơn. Ngoài ra, thị trường vốn của 
Việt Nam cũng mới được hình thành và vẫn chưa 
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, mới chỉ 
trong phạm vi quốc gia và chưa liên thông với thị 
trường vốn trên thế giới). 
Hơn nữa, IFRS là các hướng dẫn mang tính 
nguyên tắc nhiều hơn là hướng dẫn về cách hạch 
toán. Vấn đề ngoại ngữ và năng lực hiện tại của 
đội ngũ kế toán cũng là một cản trở lớn đối với 
việc triển khai IFRS tại EVN. Thách thức này đòi 
hỏi Tập đoàn phải xây dựng một hệ thống kế toán 
thống nhất để các đơn vị có thể hạch toán theo các 
hướng dẫn của IFRS. Chế độ kế toán buộc phải 
bao gồm đầy đủ các nội dung như: Hệ thống tài 
khoản; Hệ thống số kế toán; Hệ thống báo cáo tài 
chính; Hướng dẫn hạch toán các nghiệp vụ. Bên 
cạnh đó, hàng năm, IASB đều ban hành các chuẩn 
mực mới/sửa đổi các chuẩn mực hiện tại để phù 
hợp với điều kiện thực tế. Theo đó, hàng năm EVN 
cũng phải thường xuyên liên tục tổ chức đào tạo, 
cập nhật kiến thức đổi mới cho đội ngũ kế toán. 
Cùng với đó là phải xây dựng hệ thống báo cáo 
quản trị mới dựa trên các thông tin từ báo cáo tài 
chính theo IFRS, để phục vụ cho công tác quản trị 
nội bộ và lập chiến lược.
Nghiên cứu cho thấy, với năng lực hiện nay, đội 
ngũ kế toán của EVN khó có thể đáp ứng được yêu 
cầu lập báo cáo tài chính theo IFRS. Thực tế này 
đòi hỏi Tập đoàn phải có kế hoạch xây dựng đội 
ngũ nguồn nhân lực kế toán đáp ứng yêu cầu về 
kinh nghiệm IFRS và ngoại ngữ để đảm bảo việc 
nghiên cứu IFRS và cập nhật hàng năm, thông qua 
việc đào tạo kiến thức và tuyển dụng nhân sự mới. 
Ngoài đào tạo nguồn nhân lực, việc lập báo cáo tài 
chính theo IFRS của EVN cũng cần có sự tham gia 
của các chuyên gia tư vấn liên quan đến các lĩnh 
vực đặc thù (định giá tài sản cố định trên cơ sở 
định kỳ) hoặc phải sử dụng các nguồn thông tin 
từ bên ngoài (lãi suất, tổn thất tài sản, giá trị thanh 
lý). Công việc này đòi hỏi Tập đoàn phải dành 
nhiều thời gian và đầu tư nguồn kinh phí khá lớn.
EVN đang thực hiện 2 hệ thống báo cáo tài chính 
theo VAS và IFRS. Báo cáo tài chính của EVN hiện 
nay phản ánh các nghiệp vụ đặc thù phát sinh từ 
lâu được ghi nhận khác biệt với IFRS (đánh giá lại 
tài sản cố định trong quá trình cổ phần hóa các DN 
hoặc theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 
Việc lập báo cáo tài chính theo IFRS ngoài 
việc giúp Tập đoàn Điện lực Việt Nam tăng 
tính minh bạch về tài chính, còn là mấu chốt 
quan trọng để nâng cao khả năng huy động 
vốn và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
74
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
hạch toán chi phí lãi vay của các Hiệp định ưu đãi 
lãi suất tài trợ cho xây dựng công trình điện, cổ tức 
nhận bằng cổ phiếu). Tuy nhiên, các nghiệp vụ 
này lại ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính 
của EVN qua các năm, do vậy khi áp dụng IFRS 
trong năm đầu tiên đòi hỏi các đơn vị của Tập đoàn 
phải dành nhiều thời gian và nhân lực để xử lý 
công việc này.
Việc lập báo cáo tài chính tuân thủ IFRS cũng 
đòi hỏi EVN phải đầu tư nguồn vốn lớn để xây 
dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Một 
hệ thống công nghệ thông tin hiện đại mới có thể 
đáp ứng các yêu cầu về ghi nhận/xử lý thông tin 
cho việc lập báo cáo tài chính và các thuyết minh 
thống nhất giữa tất cả các đơn vị trong Tập đoàn; 
Đáp ứng các yêu cầu về tổng hợp thông tin phục 
vụ cho mục đích hạch toán kế toán và trình bày 
thông tin; Đáp ứng việc xác định giá trị hợp lý 
của hàng tồn kho/tài sản cố định/phải thu/phải 
trả; Xác định tổn thất tài sản cố định; Thông tin 
về giá trị các khoản đầu tư tài chính; Thông tin 
về chi phí hoàn nguyên môi trường... 
Là DN hoạt động trong lĩnh vực đặc thù (sản 
xuất, truyền tải, phân phối điện), các chi phí đầu 
vào và giá bán điện đầu ra của EVN đều chịu sự 
điều tiết của Nhà nước. Theo quy định hiện hành, 
giá bán lẻ điện được điều chỉnh theo sự biến động 
của các yếu tố đầu vào và theo cơ chế thị trường. 
Tuy nhiên, Chính phủ sẽ phê duyệt việc điều chỉnh 
này trên cơ sở đánh giá ảnh hưởng có thể tác động 
đến nền kinh tế. Việc thay đổi các yếu tố đầu vào 
theo báo cáo tài chính tuân thủ IFRS, có thể ảnh 
hưởng lớn đến chi phí hoạt động sản xuất kinh 
doanh giữa các năm (tỷ giá, khấu hao...), trong khi 
giá bán lẻ điện được điều chỉnh bởi Chính phủ. 
Điều này khiến cho kết quả hoạt động kinh doanh 
của EVN dễ biến động, từ đó ảnh hưởng đến các 
vấn đề khác như cơ chế tiền lương thưởng, phân 
phối các quỹ, đánh giá xếp loại DN hay chiến 
lược tái cấu trúc của EVN.
Tóm lại, theo quan điểm của những người hành 
nghề kiểm toán và tư vấn kế toán, việc áp dụng 
toàn bộ IFRS sẽ mở ra một xu hướng mới, thay đổi 
cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu 
tố của báo cáo tài chính, loại trừ sự khác biệt trong 
các chuẩn mực kế toán và là điều kiện để đảm bảo 
các DN và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng trên 
nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập 
và trình bày các báo cáo tài chính. Sự thay đổi trên 
có vẻ đơn giản nhưng là bước đột phá quan trọng, 
không chỉ thuần túy về từ ngữ mà bản chất là một 
sự thay đổi lớn về tư duy kế toán. Do vậy, để 
tạo nền tảng và cơ sở căn bản giúp EVN lập báo 
cáo tài chính theo IFRS hiệu quả, Chính phủ cần 
sớm ban hành các quy định pháp lý, hướng dẫn 
việc lập báo cáo tài chính theo IFRS tại các DN 
nói chung và tại EVN nói riêng. Giai đoạn trước 
mắt, Tập đoàn Điện lực cần chủ động nghiên cứu 
IFRS và chú trọng xây dựng chiến lược đào tạo 
và phát triển nguồn lực nhân sự có trình độ về 
IFRS, thông qua việc hợp tác với các cơ sở đào tạo 
(như các trường đại học, Hiệp hội Kiểm toán viên 
hành nghề Việt Nam và các đơn vị đào tạo trong 
nước), các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như Hiệp 
hội Kế toán Công chứng Anh quốc, Hiệp hội Kế 
toán Công chứng Australia, Viện Kế toán Công 
chứng Anh và Xứ Wales và các công ty kiểm toán 
quốc tế có uy tín
Do IFRS vẫn tiếp tục vận động và thay đổi trong 
quá trình áp dụng trên thế giới nên thời gian tới 
cần thiết phải có một cơ chế tự cập nhật và áp dụng 
phù hợp với thị trường Việt Nam. Đồng thời, cũng 
cần cân nhắc việc áp dụng IFRS toàn bộ hay từng 
phần/có điều chỉnh để phù hợp với thị trường Việt 
Nam; Ban hành các chuẩn mực kế toán liên quan 
đến các đối tượng đã phát sinh trên thị trường tài 
chính Việt Nam như: Thanh toán trên cơ sở cổ phiếu 
(IFRS 2), Công cụ tài chính (IFRS 9), Các khoản tài 
trợ của Chính phủ (IAS 20), Tổn thất tài sản (IAS 
36) và Phúc lợi cho nhân viên (IAS 19R) để sớm 
rút ngắn sự khác biệt giữa VAS và IFRS. 
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Hoài Hương (2010), Mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS, Tạp chí 
Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng;
2. TS. Đường Thị Quỳnh Liên (2017), Khó khăn, thách thức khi áp dụng IFRS 
tại Việt Nam và lộ trình thực hiện;
3. TS. Đào Mạnh Huy , TS. Đặng Phương Mai (2017), IFRS - cơ hội và thách 
thức khi áp dụng tại Việt Nam;
4. Lê Vũ Trường, Đinh Minh Tuấn (2017), Cơ hội cho các DN Việt Nam khi 
áp dụng IFRS;
5. TS. Nguyễn Thế Thọ (2017), Áp dụng IFRS đối với các Công ty niêm yết trên 
thị trường chứng khoán Việt nam lợi ích, thách thức và lộ trình; 
6. Những điểm cần lưu ý khi chuyển đổi từ IAS sang IFRS, 
misa.com.vn/tin-tuc/chi-tiet/newsid/5197/Nhung-diem-can-luu-y-khi-
chuyen-doi-tu--IAS-sang-IFRS.
Tính đến nay, ISAC đã xây dựng 43 IAS/IFRS, 
trong đó có 27 IAS và 16 IFRS. IFRS đang được 
áp dụng tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ trên 
toàn thế giới, trong đó 119 quốc gia đã yêu cầu 
bắt buộc áp dụng IFRS đối với các đơn vị có lợi 
ích công chúng và các tổ chức tín dụng. 

File đính kèm:

  • pdfchuan_muc_bao_cao_tai_chinh_quoc_te_va_thuc_te_trien_khai_ta.pdf