Chồng lấp hen - COPD (ACO) là bệnh lý không thuần nhất: thêm các dữ liệu ủng hộ
Chồng lấp hen - COPD (ACO) một thuật ngữ bao trùm cho bệnh nhân COPD có viêm tăng
bạch cầu ái toan (e-COPD) và bệnh hen hút thuốc lá kèm sự tắc nghẽn đường thở không
hồi phục hoàn toàn (SA). Chúng tôi đã so sánh đặc điểm lâm sàng và hình ảnh viêm của
e-COPD và SA. Những bệnh nhân được phân loại là e-COPD đa phần lớn tuổi hơn và
thường là nam giới, có chức năng phổi suy giảm đáng kể (có thể giải thích vì thói quen hút
thuốc lá nhiều). Trái lại, bệnh nhân SA thường có đặc điểm cơ địa, sự hồi phục của đường
thở tắc nghẽn tốt hơn và có nồng độ IgE cao hơn. Nồng độ các chất IL-5, IL-13, IL-8, IL-6,
TNF-α, IL17 trong huyết tương tương tự nhau giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, các chất chỉ điểm
sinh học liên quan Th2 (periostin, FeNO và bạch cầu ái toan trong máu) có giá trị trung
bình cao hơn ở nhóm bệnh e-COPD. Kết quả tìm thấy từ nghiên cứu của chúng tôi củng
cố quan niệm cho rằng ACO không phải là bệnh lý thuần nhất, do đó, việc áp dụng điều trị
giống nhau là không thể chấp nhận được cho 2 nhóm bệnh liên quan nhưng có đặc điểm
khác nhau
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chồng lấp hen - COPD (ACO) là bệnh lý không thuần nhất: thêm các dữ liệu ủng hộ
DỊCH 92 Hô hấp số 14/2018 Kính gửi Ban biên tập Chúng tôi vô cùng thích thú khi đọc thư của Kolsum và cs (1) và chúng tôi hoàn toàn nhất trí những bệnh nhân COPD có tăng bạch cầu ái toan (eCOPD) có những đặc điểm riêng biệt so với những bệnh nhân hen hút thuốc lá (SA) mà sự tắc nghẽn đường thở không hồi phục hoàn toàn. Cả 2 thể bệnh này cùng có chung hình ảnh chồng nhau (2), được gọi là chồng lấp Asthma-COPD (ACO), tuy nhiên, trong thời đại của điều trị cá nhân hóa (3), việc thực hiện cùng một điều trị như nhau cho 2 bệnh có liên quan nhưng có đặc điểm khác nhau có thể không được chấp nhận. Các nghiên cứu tập trung trong việc xác định kiểu hình ACO còn hiếm, nhưng Lange và cs đã thấy rằng các cá thể ACO và hen khởi phát trước 40 tuổi thường có tiên lượng tốt hơn những người mà hen khởi phát sau lứa tuổi này (4). Mặt khác, khi xem xét hen và COPD là bệnh lý mà bản thân chúng không thuần nhất, có ý kiến cho rằng có thực sự cần thiết khi định CHỒNG LẤP HEN - COPD (ACO) LÀ BỆNH LÝ KHÔNG THUẦN NHẤT: THÊM CÁC DỮ LIỆU ỦNG HỘ Dịch từ: Asthma-COPD overlap is not a homogeneous disorder: further supporting data. Respiratory Research (2017) 18:183 Luis Pérez-de-Llano, Borja G. Cosio đại diện cho nhóm nghiên cứu CHACOS. ThS.BS Huỳnh Anh Tuấn dịch Tóm tắt Chồng lấp hen - COPD (ACO) một thuật ngữ bao trùm cho bệnh nhân COPD có viêm tăng bạch cầu ái toan (e-COPD) và bệnh hen hút thuốc lá kèm sự tắc nghẽn đường thở không hồi phục hoàn toàn (SA). Chúng tôi đã so sánh đặc điểm lâm sàng và hình ảnh viêm của e-COPD và SA. Những bệnh nhân được phân loại là e-COPD đa phần lớn tuổi hơn và thường là nam giới, có chức năng phổi suy giảm đáng kể (có thể giải thích vì thói quen hút thuốc lá nhiều). Trái lại, bệnh nhân SA thường có đặc điểm cơ địa, sự hồi phục của đường thở tắc nghẽn tốt hơn và có nồng độ IgE cao hơn. Nồng độ các chất IL-5, IL-13, IL-8, IL-6, TNF-α, IL17 trong huyết tương tương tự nhau giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, các chất chỉ điểm sinh học liên quan Th2 (periostin, FeNO và bạch cầu ái toan trong máu) có giá trị trung bình cao hơn ở nhóm bệnh e-COPD. Kết quả tìm thấy từ nghiên cứu của chúng tôi củng cố quan niệm cho rằng ACO không phải là bệnh lý thuần nhất, do đó, việc áp dụng điều trị giống nhau là không thể chấp nhận được cho 2 nhóm bệnh liên quan nhưng có đặc điểm khác nhau. Từ khóa: Bạch cầu ái toan, Periostin, COPD, Hen, chồng lấp Hen, ACO. DỊCH 93 Hô hấp số 14/2018 nghĩa sự chồng lấp của chúng xem như một bệnh lý mới. Tất cả các vấn đề này có thể được giải quyết từ việc xác định endotype của bệnh lý phổi tắc nghẽn (OLD) mà từ đó có thể cho phép tiếp cận cá nhân hóa trong điều trị. Trên quan điểm này, gần đây chúng tôi công bố nghiên cứu thừa nhận ACO không tồn tại và việc sử dụng chất chỉ điểm sinh học viêm là Th2 để phân biệt dân số riêng trong nhóm OLD (5). Với lá thư này, chúng tôi mong muốn cung cấp thêm thông tin để hỗ trợ trong việc phân biệt giữa e-COPD và SA. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu cắt ngang, quan sát, đa trung tâm trên 23 phòng khám ngoại trú ở các bệnh viện trường đại học tại Tây Ban Nha. Các chi tiết trong nghiên cứu được mô tả trong bài khác (5) [5]. Nghiên cứu có hai trăm chín mươi hai bệnh nhân bị OLD trong đó 94 hen không hút thuốc lá, 89 COPD không tăng bạch cầu ái toan, 44 SA và 65 e-COPD. Các nghiên cứu viên được yêu cầu tuyển 12 bệnh nhân OLD liên tiếp đủ tiêu chuẩn tại phòng khám của họ. Bệnh nhân được cho là SA nếu họ được chẩn đoán hen trước đó theo hướng dẫn GINA (6) và trước khi có tiền sử hút thuốc lá >20 gói-năm, sau đó có tắc nghẽn phế quản không hồi phục hoàn toàn (FEV 1 /FVC <70% sau test giãn phế quản). Việc chẩn đoán e-COPD được thực hiện ở những bệnh nhân được chẩn đoán COPD trước đó theo khuyến cáo của GLOD (7), trên lâm sàng không có dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ hen và trong máu ngoại biên có sự hiện diện của bạch cầu ái toan >200 eosinophils/μl. Có sự khác biệt quan trọng giữa bệnh nhân SA và e-COPD (bảng 1). Bệnh nhân được xếp nhóm là e-COPD lớn tuổi hơn và nam nhiều hơn ý nghĩa. FEV 1 sau test giãn phế quản của nhóm bệnh nhân này thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân SA (54.49 ± 15.2 vs 65.57 ± 17.5%; p = 0.005) và giá trị DLCO cũng thấp hơn (64.0 ± 19.9 vs 70.0 ± 17.6%; p < 0.001), có thể do thói quen hút thuốc lá nhiều (51.8 ± 28 vs 35,1 ± 13.2 gói- năm; p < 0.001). Trái lại, trong nhóm bệnh nhân SA thường có đặc điểm cơ địa, tắc nghẽn phế quan cũng phục hồi nhiều hơn và có nồng độ IgE cao hơn. Không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm khi so sánh về triệu chứng và đợt cấp. Các chi tiết về dân số, lâm sàng và chức năng khác đã được trình bài trong bảng 1. Một phần của các dữ liệu này cũng được công bố trong bài khác (5). Bảng 1 Đặc điểm dân số, lâm sàng và chức năng của bệnh nhân Biến sốa Bệnh nhân hen hút thuốc lá (SA) e-COPD P value Số bệnh nhân Tuổi (năm) Giới tính (% nữ) BMI (kg/m2) Gói/nămb Tuổi khởi phát (năm) 44 59.8 (10.5) 59.1 28.2 (5.2) 35.1 (13.2) 48.5 (19.1) 65 65.6 (10.1) 18.5 28.8 (6.5) 51.8 (28) 53.6 (12.3) 0.007 <0.001 0.91 <0.001 <0.001 DỊCH 94 Hô hấp số 14/2018 Các kết quả này phù hợp với kết quả ghi nhận của Kolsum và cs., và sự khác biệt đáng lưu ý là trong khi chúng ta không thể quan sát thấy sự khác biệt nào giữa các nhóm về tỉ suất đợt cấp trong 2 tháng trước khi vào nghiên cứu, nghiên cứu của họ đã ghi nhận AS thường dễ bị đợt cấp hơn. Để phân biệt sự không giống nhau này, chúng ta phải xem xét rằng bệnh nhân chúng ta đã được kiểm soát khá tốt và được đánh giá từ bộ câu hỏi CAT và ACT và tỉ lệ đợt cấp thấp. Để có được nhiều thông tin chi tiết về tình trạng viêm trên bệnh nhân OLD, Biến sốa Bệnh nhân hen hút thuốc lá (SA) e-COPD P value SPTc(%) Viêm mũi (%) Triệu chứng về đêm (%) Bệnh đồng mắc Tăng huyết áp (%) Đái tháo đường (%) Thiếu máu cơ tim (%) Suy tim (%) Thiếu máu (%) Loãng xương (%) Rối loạn tâm thần (%) Trào ngược dạ dày thực quản (%) FEV1 trước test d FEV1 sau test e PBT f (%) DLCO g (%) Đợt cấp h IgE (IU/ml) CAT i ACT j 45.5 51.2 39.5 38.6 9.1 4.5 1.0 0 18.6 18.2 35.7 59.0 (18.3) 65.5 (17.5) 48.8 70.0 (17.6) 1.00 (1.3) 112 (4, 1340) 13.2 (8.0 19.5 (4.9) 23.1 17.5 9.5 47.7 23.1 4.6 7.7 1.5 3.2 4.6 12.7 50.3 (14.3) 54.5 (15.2) 30.2 64.0 (19.9) 0.95 (1.3) 76 (5,2500) 13.4 (7.7) 19.2 (4.8) 0.003 0.001 0.001 0.36 0.26 0.11 0.26 0.58 0.002 0.15 <0.001 <0.001 0.001 0.001 <0.001 0.62 0.005 0.83 0.54 Chú thích: aSố liệu đếm được biểu thị bằng trung bình và độ lệch chuẩn (SD) trừ IgE và bạch cầu ái toan dưới dạng trung vị (range); b Chỉ số gói năm được tính ở bệnh nhân hút và không ; c test lẩy da; d FEV1 trước khi có giãn phế quản; e sau test giãn phế quản; f tỉ lệ bệnh nhân có test giãn phế quản dương tính; g khả năng khuyếch tán của CO; h Số lần đợt cấp cơn nặng trong12 tháng qua; I COPD Assessment Test; j Asthma Control Test; l Ý nghĩa thống kê. P values từ Student’s t test (biến số liên tục có phân bố bình thường), Mann-Whitney U test (biến số không phân bố bình thường) hoặc Chi-square tests (tỉ lệ) DỊCH 95 Hô hấp số 14/2018 chúng tôi đã đo lường chất chỉ điểm sinh học Th2 và Khí NO thở ra (FeNO), bạch cầu ái toan, periostin (DuoSet® ELISA, R&D Systems, Minneapolis, MN, USA) và nồng độ của IL-5 và IL-13 trong huyết thanh. Thêm vào đó, mức độ của cytokines trong huyết thanh đại diện cho quá trình viêm hệ thống (TNFα và IL-6) và các cytokine liên quan đến đáp ứng viêm có tăng neutrophil (IL-17 à IL-8) đã được xác định (Merck Millipore®). Các mức độ của các cytokines này tương tự nhau giữa 2 nhóm SA và nhóm e-COPD. Tuy nhiên, các chất chỉ điểm sinh học liên quan Th2 (periostin, FeNO và bạch cầu ái toan trong máu) có giá trị trung bình cao hơn ở nhóm bệnh nhân e-COPD (bảng 2). Có khoảng 49% bệnh nhân e-COPD và 30% bệnh nhân SA có thành phần viêm “Th-2 cao” (được xác định khi bạch cầu ái toan > 300 /μL trong máu hay ≥3% trong đàm) (p = 0.02). Một lần nữa, những kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu tìm ra từ Kolsum và cs. Điểm thú vị là, họ quan sát thấy chỉ có 35.7% bệnh nhân SA có bạch cầu ái toan máu ≥300 tế bào/μl (giống như tỉ lệ của chúng tôi là 30%) và chỉ có 46% trong số đó có bạch cầu ái toan trong đàm ≥3%. Vấn đề dường như rõ ràng chính là bệnh nhân SA đa dạng hơn nhóm e-COPD khi xét về quan niệm viêm, có thể có Th-2 cao, endotype dạng tăng bạch cầu đa nhân và dạng hỗn hợp. Điều này có thể được giải thích từ việc định nghĩa SA là dựa trên đặc tính lâm sàng (chẩn đoán hen và tiền sử thuốc lá) trong khi định nghĩa e-COPD bao gồm cả chất chỉ điểm sinh học của Th2 viêm. Thực ra periostin và FeNO cao hơn trong nhóm e-COPD so với SA và có thể kỳ vọng các cytokines liên quan đến Th2 (IL-5, IL- 13) có giá trị cao hơn, nhưng chúng tôi đã không nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa về thống kê, mặc dù khuynh hướng này có thể quan sát thấy (bảng 2). Các kết quả không tương thích có thể được diễn giải do mẫu không đủ hay không có mối liên quan giữa phổi và các chất chỉ điểm sinh học trong huyết thanh đã được báo cáo từ nhiều tác giả, cả trong COPD (8,9) và bệnh nhân hen (10). Điều này cũng cho thấy mối tương quan giữa bạch cầu ái toan trong máu và đàm trở nên yếu đi ở những bệnh nhân bị hen nặng và cũng có giả thiết cho rằng các lympho bào type 2 bẩm sinh, một loại tế bào kháng steroid, có thể tạo ra các yếu tố eosinophilopoietic, có thể giải thích được sự tồn tại dai dẳng của bạch cầu ái toan trong đàm ở bệnh nhân có công thức máu bình thường (10) . Nếu như có sự khác biệt tồn tại cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi tìm thấy các chất trung gian liên quan đến tình trạng viêm khác như các cytokines liên quan đến Th2. Sự tiếp cận khác biệt có thể phân loại bệnh nhân dựa vào tình trạng viêm (endotypes đặc hiệu) để đánh giá, ở bước tiếp theo, dù nó dẫn đến kết quả khác biệt về lâm sàng. Tuy nhiên, chúng tôi tìm thấy mối tương quan yếu giữa các chất chỉ điểm sinh học viêm, điều này gây cản trở khả năng xác định các nhóm (cluster) viêm riêng biệt. Ví dụ, mối tương quan giữa IL-5 và IL-13, giữa IL-5 và ở những bệnh nhân SA (0.3, 0.03 và 0–1 ở những bệnh nhân e-COPD ). DỊCH 96 Hô hấp số 14/2018 Đã có nhiều tranh cãi khi xem hen và COPD là 2 bệnh lý riêng biệt phát sinh từ các cơ chế khác nhau (11) hay, trái lại, thực sự chúng là các biểu hiện của bệnh lý cơ bản trong đó có các yếu tố kết hợp nội sinh (chủ thể) và ngoại sinh (môi trường) tạo nên hình ảnh lâm sàng của người bệnh (12). Bất chấp điều này, viễn cảnh hiện tại về phân loại và xử trí bệnh nhân OLD nên được xem xét vào kiến thức đang phát triển về các phương pháp phân tử mà những phương pháp này giúp phát triển của các chiến lược điều trị mới nhắm vào đích các thành phần đặc hiệu của nền tảng quá trình viêm. Các cố gắng trước đây để định nghĩa ACO (2,6,7,13) không xét đến tính không đồng nhất về mặt sinh học mà chúng tôi và Kolsum et al. đã tìm thấy, có thể dẫn đến tiếp cận không đầy đủ trong điều trị. Bất cứ định nghĩa có ích nào của ACO nên được cung cấp các hướng dẫn để cho quyết định trong điều trị, đặc biệt là chọn lọc một cách có hiệu quả những bệnh nhân có thể nhận được lợi ích từ việc dùng corticoid hít trong điều trị (thậm chí các thuốc sinh học anti-Th2 trong tương lai gần). Tóm lại, những dữ liệu chúng tôi tìm thấy củng cố quan niệm cho rằng ACO là một rối loạn không thuần nhất. Thực tế là OLD vốn không đồng nhất và các nhóm chẩn đoán lâm sàng không thể giải thích hoàn toàn sự phức tạp trong nền tảng của tiến trình viêm vốn quyết định sau cùng cho việc đáp ứng với điều trị. Vì thế, chúng ta cần phải tiến tới từng bước hơn nữa trong y học cá thể hóa. (TCHH: Tài liệu tham khảo xin xem bản gốc) Bảng 2 Sự khác biệt hình ảnh viêm giữa 2 nhóm Hen hút thuốc lá (n=44) e-COPD (n=65) P-values IL-23 IL-7 IL-5 IL-6 IL-8 TNF Periostin FeNO Bạch cầu ái toan máu (tế bào/µl) 1.98 (0.23–3.92 7.26 (2.37–16.35) 1.63 (0.40–2.77) 1.37 (0.42–3.28) 9.54 (6.40–14.20) 3.22 (2.19–4.32) 30.8 (23.3–38) 19.6 (10–19.9) 200 (0,1000) 2.18 (0.23–4.20) 6.67 (3.12–10.81) 1.75 (0.42–2.85) 1.43 (0.67–4.12) 9.68 (6.25–12.98) 4.00 (3.19–5.07) 39.7 (30–49.2) 24.5 (10–24.6) 300 (210,940) 0.352 0.142 0.371 0.426 0.652 0.740 0.005 <0.001 <0.001 Chú thích: Dữ liệu biểu hiện bằng trung vị và khoảng phân vị, trừ bạch cầu ái toan là trung vị (khoảng). P values từ Mann-Whitney U test
File đính kèm:
chong_lap_hen_copd_aco_la_benh_ly_khong_thuan_nhat_them_cac.pdf

