Cho vay ngang hàng ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm quản lý từ một số quốc gia

TÓM TẮT

Hiện nay, hình thức cho vay ngang hàng (peer-to-peer) đang dần trở nên phổ biến tại Việt Nam,

đang phát triển rầm rộ trong vòng hai năm trở lại đây. Hình thức cho vay này thực tế đã xuất hiện

rất lâu trên thế giới, từ năm 2005 tại Anh đã đánh dấu sự xuất hiện của cho vay ngang hàng với

công ty Zopa. Ở Việt Nam chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về hình thức cho vay này, hơn nữa

chúng ta chưa có một hành lang pháp lý chặt chẽ để quản lý cho vay ngang hàng. Và khi vận hành

chúng ta còn có nhiều vấn đề bất cập xoay quanh hình thức cho vay ngang hàng, đặc biệt là vấn

đề pháp lý. Bài viết tập trung hệ thống hóa lý thuyết hình thức cho vay ngang hang, đồng thời nêu

lên tình hình cho vay ngang hàng số quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, các nước khối Châu Âu, từ

đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam kết hợp trong phần giải pháp, bên cạnh đó mô

tả thực trạng hình thức cho vay ngang hàng, tình hình hoạt động của các nền tảng cho vay này tại

Việt Nam hiện nay với một thực tế là các nền tảng cho vay tại Việt Nam chưa hoạt động đúng với

bản chất của cho vay ngang hàng, trên cơ sở phân tích những tồn tại về hình thức cho vay ngang

hàng tại Việt Nam và những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới, nhóm tác giả đề

xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hình thức cho vay này trong tương lai.

Từ khoá: ngang hàng, cho vay ngang hàng

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Cho vay ngang hàng ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm quản lý từ một số quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cho vay ngang hàng ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm quản lý từ một số quốc gia

Cho vay ngang hàng ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm quản lý từ một số quốc gia
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế - Luật và Quản lý, 3(3):211- 218
Open Access Full Text Article Bài tổng quan
Trường ĐH Ngân Hàng TP.HCM
Liên hệ
Nguyễn Thị Thu Trang, Trường ĐH Ngân
Hàng TP.HCM
Email: nguyenthithutrangdhnh@yahoo.com
Lịch sử
 Ngày nhận: 8/1/2019
 Ngày chấp nhận: 16/4/2019
 Ngày đăng: 30/9/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3i3.561
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Cho vay ngang hàng ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm quản lý từ
một số quốc gia
Nguyễn Thị Thu Trang*, Lương XuânMinh, Võ Thị Ngọc Hà
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Hiện nay, hình thức cho vay ngang hàng (peer-to-peer) đang dần trở nên phổ biến tại Việt Nam,
đang phát triển rầm rộ trong vòng hai năm trở lại đây. Hình thức cho vay này thực tế đã xuất hiện
rất lâu trên thế giới, từ năm 2005 tại Anh đã đánh dấu sự xuất hiện của cho vay ngang hàng với
công ty Zopa. Ở Việt Nam chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về hình thức cho vay này, hơn nữa
chúng ta chưa cómột hành lang pháp lý chặt chẽ để quản lý cho vay ngang hàng. Và khi vận hành
chúng ta còn có nhiều vấn đề bất cập xoay quanh hình thức cho vay ngang hàng, đặc biệt là vấn
đề pháp lý. Bài viết tập trung hệ thống hóa lý thuyết hình thức cho vay ngang hang, đồng thời nêu
lên tình hình cho vay ngang hàng số quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, các nước khối Châu Âu, từ
đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam kết hợp trong phần giải pháp, bên cạnh đómô
tả thực trạng hình thức cho vay ngang hàng, tình hình hoạt động của các nền tảng cho vay này tại
Việt Nam hiện nay với một thực tế là các nền tảng cho vay tại Việt Nam chưa hoạt động đúng với
bản chất của cho vay ngang hàng, trên cơ sở phân tích những tồn tại về hình thức cho vay ngang
hàng tại Việt Nam và những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới, nhóm tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hình thức cho vay này trong tương lai.
Từ khoá: ngang hàng, cho vay ngang hàng
DẪNNHẬP
Việt Nam là một quốc gia được đánh giá có điều kiện
thuận lợi cho phát triển cho vay ngang hàng: (i) dân số
96 triệu người với phần đông trong độ tuổi lao động,
thu nhập đang tăng khá nhanh và người dân thích
dùng công nghệ tiên tiến, (ii) khả năng tiếp cận dịch
vụ tài chính-ngân hàng còn ở mức khiêm tốn so với
khu vực (theo Ngân hàng Thế giới, tại Việt Nam mới
chỉ có khoảng 40% người lớn có tài khoản ngân hàng
so với tỷ lệ 80% của Trung Quốc hay 74% tại khu vực
Châu Á –Thái Bình Dương), và (iii) công nghệ thông
tin đang phát triển nhanh chóng. Do vậy việc quản lý
hình thức cho vay này là hết sức cần thiết hiện nay.
Trước hết, chúng ta cần hiểu đúng và hiểu đủ về hình
thức cho vay này. Sau đó cần phải có những giải pháp
khả thi, đặc biệt trong bối cảnh thức tế có hiện tượng
biến tướng, lừa đảo, trà trộn lẫn tín dụng đen diễn
biến rất phức tạp.
MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Mục tiêu
• Hệ thống hóa lý luận chung về cho vay ngang
hàng, đóng góp vào lý luận cho vay ngang hàng
cho Việt Nam.
• Mô tả thực trạng cho vay ngang hàng ở một số
quốc gia trên thế giới và Việt Nam
• Đưa ra những giải pháp giúp cho vay ngang
hàng vận hành hiệu quả ở Việt Nam
Phương pháp
Phương pháp thống kêmô tả: làm rõ thực trạng ởViệt
Nam và trên thế giới về vận hành cho vay ngang hàng.
THẢO LUẬN
Khái niệm cho vay ngang hàng
Sự sụp đổ của thị trường tài chính năm 2008 đã phần
nào đánh mất niềm tin công chúng vào các tổ chức
trung gian tài chính, mà đứng đầu là hệ thống ngân
hàng. Đồng thời, với những quy định và ràng buộc
trong các sản phẩm tài chính truyền thống không
những mang lại một gánh nặng trả nợ lớn cho hàng
triệu khách hàng hiện tại mà vô tình còn bỏ sót một
lượng lớn khách hàng tiềm năng là các cá nhân và tổ
chức nhỏ lẻ.
Theo đó, khái niệm Phi Trung Gian Hoá (Disinter-
mediation) được hình thành để chỉ quá trình loại bỏ
các trung gian tài chính nhưNgânhàng trong việc tiếp
cận với vốn tín dụng. Đây là một mối quan tâm hàng
đầu của các nhà chính trị cũng như nhà kinh tế tài
Trích dẫn bài báo này: Thu Trang N T, Xuân Minh L, Ngọc Hà V T. Cho vay ngang hàng ở Việt Nam và 
bài học kinh nghiệm quản lý từ một số quốc gia . Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 3(3):211-219.
211
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế - Luật và Quản lý, 3(3):211- 218
chính với việc cắt giảm thời gian và chi phí trung gian,
giảm thiểu các thủ tục quy định hà khắc của các tổ
chức tài chính, nhằm phục vụ tốt hơn cho người dân,
những đối tượng có nhu cầu tín dụng thực sự 1. Sự ra
đời của cho vay ngang hàng nhằm để thực hiện cuộc
cách mạng hoá tín dụng trong việc loại bỏ trung gian
ngân hàng ra khỏi quá trình cho vay truyền thống.
Định nghĩa gốc của Ngang hàng (peer-to-peer) là để
chỉ những giao dịch được thiết kế giữa các cá nhân với
nhau. Sau này được phát triển vàmở rộng ra rất nhiều
lĩnh vực hoạt động, nhiều thị trường kinh doanh khác
nhau được gọi là Kinh doanh ngang hàng (peer-to-
peer business). Trong lĩnh vực tài chính, cụ thể là hoạt
động tín dụng đã hình thành khái niệm về cho vay
ngang hàng.
Ban đầu cho vay ngang hàng chỉ thực hiện trên một
nhóm cá nhân nhỏ, vận hành trên một hệ thống đơn
giản và giao dịch các khoản cho vay cơ bản được gọi
là Cho vay ngang hàng vật lý (Physical peer-to-peer
or person-to-person lending). Hình thức vay mượn
này được thực hiện giữa những người trong cùngmột
nhóm, như cùng gia đình, nhóm tôn giáo, nhómnghề
nghiệp, hoặc những người trong cùng một cộng đồng
mà quen biết lẫn nhau2. Mặc dù quy mô tín dụng
trong cho vay ngang hàng vật lý nhỏ hơn rất nhiều
so với hoạt động tín dụng truyền thống nhưng lại thu
hút được sự quan tâm không hề nhỏ từ công chúng.
Cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông
tin, một hình thức mới của phương thức tài trợ vốn
ra đời vào năm 2005, gọi là Cho vay ngang hàng trực
tuyến (Online peer-to-peer lending). Cho vay ngang
hàng trực tuyến cho phép các bên tham gia có thể
khớp các yêu cầu vay và cho vay vốn thông qua một
nền tảng trực tuyến (online platform)mà không cần
đến sự điều hoà của một tổ chức tài chính nào. Hình
thức này đã trở thành một bổ túc quan trọng trong hệ
thống tài chính truyền thống và phát triển mạnh mẽ
khắp thế giới trong những năm vừa qua 3.
Thị trường tài chính ngang hàng (peer-to-peer lend-
ing marketplace) là nơi cung cấp những nền tảng cho
những chủ thể có nhu cầu vay vốn và những cá nhân
có tiền nhàn rỗi muốn đầu tư, gặp nhau và giao dịch
với nhau4. Đây làmột thị trường cho vaymà trong đó
các bên thamgia không chỉ là cá nhânmà còn có thể là
những doanh nghiệp, tổ chức chính phủ, tổ chức phi
chính phủ và thậm chí có sự đầu tư của Ngân hàng,
các Quỹ đầu tư và Quỹ bảo hiểm. Những thị thường
này hoàn toàn tách biệt với mô hình hoạt động kinh
doanh dịch vụ tài chính truyền thống.
Nói đơn giản, cho vay ngang hàng là người vay tiền
và người có tiền kết nối thông qua ứng dụng trực
tuyến trên di động hoặc máy tính. Các công ty cho
vay ngang hàng cung cấp gói vay từ tín chấp, thế chấp
đến mua trả góp như: Vay tín chấp theo lương; vay
trả góp theo ngày; vay theo sổ hộ khẩu, hóa đơn điện
nước, đăng ký xemáy, ôtô; vay cầm cố tài sản, vay cầm
cố ôtô đang thế chấp ngân hàng; vay mua ôtô, nhà trả
góp...
Đặc trưng của Cho vay ngang hàng trực
tuyến
Những nền tảng ngang hàng dựa trên thị trường hàng
hoá là nơi chophépngườimua và bán sẽ giao dịchmột
hàng hoá và dịch vụ cụ thể. Ví dụ trên thị trường hiện
nay tồn tại kinh doanh ngang hàng trong dịch vụ lưu
trú như AirBNB, Hotels.com, trong lĩnh vực vận tải
có Uber, Grab hoặc với hàng hoá có Ebay, Gumtree
hay GrayWineOnline. Tuy nhiên, hoạt động cho vay
ngang hàng trực tuyến có những đặc trưng riêng biệt
khác với các mô hình thương mại điện tử ngang hàng
truyền thống3,5, cụ thể là:
• Thứ nhất, hàng hoá trao đổi không phải là sản
phẩm hữu hình hay các dịch vụ, mà là quyền
truy đòi nợ gốc và lãi trong tương lai.
• Thứ hai, trong thương mại điện tử, quyết định
mua hàng được dựa trên chất lượng hàng hoá,
dịch vụ, tiện tích giao hàng và các ưu đãi khác
đi kèm; còn trong kênh cho vay ngang hàng thì
bên cho vay đưa qua quyết định chi tiền dựa trên
rủi ro và lợi nhuận của giao dịch cho vay.
• Điểm khác biệt thứ ba là hệ thống ký quỹ thường
dùng trong thương mại điện tử truyền thống
khó được ứng dụng trong cài đặt cho vay ngang
hàng trực tuyến. Ví dụ như Ebay hoặc Amazon
sẽ tạm giữ tiền thanh toán của người mua và chỉ
chuyển cho bên bán khi người mua xác nhận
đã nhận được hàng và không có khiếu nại gì về
hàng hoá dịch vụ. Nhưng trong các giao dịch
của cho vay ngang hàng không thể thực hiện quy
định như vậy vì số tiền của bên mua quyền truy
đòi chính là đối tượng giao dịch.
• Thứ tư, những nhà vận hành vay ngang hàng sẽ
đưa ra kết luận đánh giá chất lượng khoản vay
của riêng họ dưới hình thức tư vấn tài chính,
trong khi các đánh giá chất lượng hàng hoá dịch
vụ trên kênh thươngmại ngang hàng là tổng hợp
từ những người tham gia mua bán và sử dụng
hàng hoá dịch vụ đó.
• Cuối cùng, các nền tảng cho vay ngang hàng có
cung cấp thêm cho người mua - tức là bên cho
vay - dịch vụ quản lý tài chính cho phép họ mua
bán danh mục đầu tư của họ, xác nhận quyền
lưu giữ tài sản vay cũng như biên nhận rút tiền
hoặc nạp tiền đầu tư mới.
212
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế - Luật và Quản lý, 3(3):211- 218
Bên cạnh đó, cho vay ngang hàng có đặc trưng riêng
biệt so với việc cho vay thông qua các trung gian tài
chính đó là: Các nền tảng cho vay ngang hàng chỉ
đóng vai trò như là nhà điều phối tài chính hơn là
một trung gian tài chính bởi vì họ hoàn toàn không
hề đầu tư góp vốn vào bất cứ khoản cho vay nào trên
nền tảng của họ5. Chính vì vậy, mặc dù cũng thực
hiện công tác phân tích tín dụng nhưng họ không hề
đối mặt với rủi ro tín dụng. Thu nhập chủ yếu của
các kênh cho vay ngang hàng là phí giao dịch từ một
khoản vay được khớp lệnh thành công trên nền tảng
của họ. Đặc trưng này đã làm phát sinh một vấn đề
gây nhiều tranh cãi đó là vì mục tiêu tối đa hoá doanh
thu đi đôi với việc tối đa hoá doanh số cho vay, điều
đó có thể dẫn đến sự thiếu nghiêm túc trong việc đánh
giá tín dụng.
Cơ chế vận hành cho vay ngang hàng
Cho vay ngang hàng được vận hành dựa trên nền tảng
trực tuyến để trực tiếp khớp những nhà đầu tư và
các bên đi vay. Khi nhận được các đề nghị vay vốn,
nhà điều hành cho vay ngang hàng sẽ thực hiện việc
đánh giá các rủi ro điển hình của bên đi vay. Nếu
bên đi vay được xác định là đáng tin cậy, nhu cầu vay
của họ sẽ được hiển thị trên nền tảng kèm với thông
tin liên quan đến rủi ro để cho các nhà đầu tư tìm
hiểu và tài trợ. Nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định tài
trợ cho một khoản vay cụ thể hoặc một loại nhu cầu
vốn nào đó dựa vào mức độ chấp nhận rủi ro của họ
(Hình 1). Trong cho vay ngang hàng, các nhà đầu tư
được khuyến khích việc chia nhỏ số tiền và tài trợ vào
nhiều nhu cầu vay vốn hơn là việc dồn toàn bộ nguồn
vốn tài trợ chomột khoản vay đơn lẻ. Một khi đề nghị
tín dụng được xác định là đã tài trợ trọn vẹn nhu cầu
đặt ra, người đi vay sẽ được giải ngân khoản vay. Các
nhà điều hành vay ngang hàng sẽ thực hiện việc giám
sát và quản lý bên đi vay thay cho nhà đầu tư trong
việc thu hồi nợ gốc và lãi. Khác với hoạt động kinh
doanh ngân hàng truyền thống, Ngân hàng đóng vai
trò trung gian và quản lý các nguồn huy động vốn và
các khoản cấp tín dụng. Lợi nhuận của Ngân hàng
chủ yếu là từ chênh lệch giữa lãi suất huy động thấp
và lãi suất cấp tín dụng cao. Còn trong thị trường cho
vay ngang hàng, các nền tảng chỉ thu hoa hồng phí
từ các bên khi một giao dịch thành công, còn mức lãi
suất suất được xác định theo cơ chế của từng loại nền
tảng và lợi nhuận từ lãi được chia đều cho các bên cho
vay theo tỷ lệ tài trợ.
Tuy nhiên, theo Galloway (2009) 6, cần phải lưu ýmột
điều quan trọng dễ gây nhầm lẫn trong cho vay ngang
hàng đó là không có một nền tảng nào cho phép bên
cho vay cho bên đi vay mượn tiền trực tiếp. Thực tế
thì các nền tảng sẽ đóng vai trò như là (i) một mô giới
cho các nhu cầu vay vốn thông qua kênh đầu tư phi
lãi; hoặc (ii) hoặc trung gian bán các chứng khoán
được hỗ trợ bởi các bên phát hành; hoặc (iii) là một
kênh tạo điều kiện cho việc khởi tạo các khoản vay rồi
bán dưới dạng chứng khoán cho các nhà đầu tư ngang
hàng.
Phân loại cho vay ngang hàng
Cho vay ngang hàng hoạt động rộng khắp trên nhiều
phân khúc khác nhau của thị trường, hướng tới nhiều
đối tượng khác nhau. Mục tiêu hoạt động và cơ chế
vận hành của mỗi nền tảng trực tuyến cũng có sự
khác nhau. Theo đó chúng ta có thể phân loại cho
vay ngang hàng theo nhiều tiêu chí khác nhau:
Căn cứ vàomục tiêu và sứmệnh hoạt động:
Khái niệm sơ khai của thị trường tài chínhngang hàng
xuất phát từ mục tiêu cho vay từ thiện (Charitable
lending) hay còn gọi là cho vay cộng đồng (Social lend-
ing). Những nền tảng này hướng đến sự tương trợ
trong cùng cộng đồng hoặc sự phát triển của các tổ
chức vi mô của các nước đang phát triển. Điển hình
như nền tảng Kiva của Mỹ được thành lập năm 2005
nhằm cung cấp những khoản vay không lãi suất cho
cá nhân, tổ chức ở các nước đang phát triển với mục
tiêu xoá đói giảm nghèo 4,7.
Bên cạnh đó, cũng xuất hiện những kênh trực tuyến,
những câu lạc bộ cho vay ngang hàng hướng đếnmục
tiêu lợi nhuận như Prosper.com. Các nền tảng này
hướng đến việc mang lại lợi nhuận hấp dẫn hơn cho
các nhà đầu tư.
Căn cứ vào cách tiếp cận của các bên tham
gia:
Các nền tảng cho vay ngang hàng (P2P lending plat-
forms) có sự khác biệt rất lớn về loại hình và các tiếp
cận. Murphy (2016)5 đã chỉ ra hai mô hình vận hành
của cho vay ngang hàng hiện nay trên thế giới đó là
mô hình chủ động và bị động (active and passive p2p
lending).
Mô hình cho vay ngang hàng chủ động: Hình thức này
cho phép các nhà đầu tư trực tiếp lựa chọn khoản cho
vay để tài trợ từ một nhóm các đối tượng đi vay được
liệt kê trên các nền tảng. Bên cho vay vẫn sẽ không
xác định được danh tính của từng bên đi vay nhưng
được cung cấp những thông tin được cho là có liên
quan đến đánh giá tín nhiệm như là thu nhập hằng
năm, sở hữu nhà đất, mục đích vay vốn....của từng cá
nhân đi vay.
Mô hình cho vay ngang hàng bị động: ngược lại, nhà
đầu tư trong mô hình này không chọn được nhu cầu
213
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế - Luật và Quản lý, 3(3):211- 218
Hình 1: Mô hình cho vay ngang hàng cơ bản.
Nguồn: Davis, K., & Murphy, J. (2016) 5, dịch bởi tác giả
vay cụ thể mà chỉ trực tiếp chọn loại rủi ro, thời hạn
và kỳ hạn cho vay mà họ sẵn sàng tài trợ. Từ đó, các
nền tảng vay ngang hàng sẽ khớp các yêu cầu đó với
những đề nghị vay vốn từ người vay phù hợp. Như
vậy, bên cho vay chỉ biết được những đặc điểm trung
bình của các phân nhóm bên đi vay trên nền tảng chứ
không phải đặc điểm riêng của từng cá nhân đi vay.
Căn cứ vào mục đích vay vốn sẽ bao gồm 4
loại:
Cho vay tiêu dùng: bao gồm những khoảng củng cố
nợ và tái cấp vốn cho các khoản nợ k ...  hàng ở Việt Nam còn rất sơ khai
về nhiều mặt. Mặc dù mới trong vài năm qua nhưng
đến nay đã có khoảng 10 công ty cho vay theomôhình
này, có thể kể đến là Tima, SHA,MobiviCuối tháng
12 năm 2017, Công ty Tima mỗi ngày xử lý hơn 1.000
đơn vay mới, tiến tới mở rộng quy mô trên toàn quốc
và nâng cao năng lực xử lý 10.000 đơn vay/ngày. Hiện
đã có gần 5.000 đơn vị trên toàn quốc tham gia cho
vay trên sàn tài chính Tima, với hơn 800.000 khách
hàng, tổng số tiền lũy kế đã được kết nối thành công
là hơn 15 nghìn tỷ đồng (gần 700 triệu USD).
Về số lượng, hiện nay có khoảng gần 40 nền tảng trực
tuyến cung cấp các khoản vay cá nhân, trong số đó có
thể kể đến vài nền tảng quen thuộc như Tima,Monily,
HuyDong, DoctorDong, Tietkiemonline,... Bảng 1
thống kêmột số thông tin của các nền tảng trực tuyến
hoạt động trong thị trường vay ngang hàng ở Việt
Nam hiện nay. Các nền tảng này cho phép các cá
nhân tra cứu thông tin và thực hiện giao dịch vay tiền
qua nhiều kênh như website, ứng dụng di động, face-
book, zalo hoặc đường dây nóng mà không cần đến
văn phòng để ký kết giấy tờ. Quyết định cho vay sẽ
được phản hồi rất nhanh trong ngày hoặc tối đa làmột
tuần. Các điều kiện vay vốn cũng như yêu cầu về hồ
sơ vay vốn mà các nền tảng này đưa ra cũng hết sức
đơn giản và dễ hơn rất nhiều so với yêu cầu của Ngân
Hàng. Đổi lại, lãi suất mà các nền tảng đưa ra khá
là cao hơn so với mặt bằng chung của hệ thống ngân
hàng. Điều này ngược lại với một số nước trên thế
giới, ví dụ như Zopa của Anh luôn đảm bảo lãi suất
mà họ đưa ra thấp hơn 20% so với lãi suất ngân hàng.
Mặc dù có sự chênh lệnh nhiều về lãi suất, nhưng các
nền tảng ở Việt Nam vẫn có thị phần của riêng họ là
những cá nhân, những doanh nghiệp vừa và nhỏ cần
giải ngân gấp nhưng lại không đủ điều kiện vay vốn
cũng như không chứng minh được quá nhiều giấy tờ
theo như yêu cầu củaNgân hàng. Tuy nhiên, bên cạnh
những nền tảng cho vay ngang hàng có công bố thông
tin doanh nghiệp minh bạch và chính xác, vẫn còn
nhiều nền tảng chưa rõ nguồn gốc và tính hợp pháp
của nó. Thị trường cho vay ngang hàng đã vô tình trở
hànhmột nơi lý tưởng cho hoạt động tín dụng đen trá
hình, từ đó tìm ẩn nhiều rủi ro cho cả bên cần được
đầu tư lẫn bên đầu tư vào thị trường này.
Theo quy định pháp luật ở Việt Nam, cho vay là một
trong các hoạt động cốt lõi của Ngân Hàng, được cấp
phép và quản lý hoạt động bởi Ngân Hàng Nhà Nước
dưới Luật các tổ chức tín dụng. Tất cả các cá nhân, tổ
chức không phải là Tổ chức tín dụng đều không được
phép thực hiện các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên,
những quan hệ vay mượn trực tiếp không mang tính
chất kinh doanh giữa các cá nhân và tổ chức thì vẫn
được xem là những giao dịch dân sự hợp pháp nằm
ngoài phạm vi điều chỉnh của Ngân Hàng Nhà Nước
và Luật các tổ chức tín dụng17. Do đó, các quy định
pháp lý và vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động
cho vay ngang hàng vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Nếu hoạt động đúng bản chất của cho vay ngang hàng
trên thế giới thì sự xuất hiện của các các công ty kinh
doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ
(Fintech) mở ra kênh tiếp cận vốn mới cho những
khách hàng không đủ tiêu chuẩn vay vốn ngân hàng
và giúp giảm bớt việc vay tín dụng đen. Mô hình cho
vay này đơn giản hoá mọi thủ tục, thời gian xét duyệt
cho vay nhanh, giao dịch trực tuyến dễ dàng, lãi suất
cạnh tranh... Nhưng ở Việt Nam các công ty tư vấn
tài chính chưa hoạt động theo đúng bản chất như vậy.
Những công ty này kiếm nguồn thu từ việc ăn chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, đồng
thời có thể thu phí thêm từ phía khách hàng vay. Công
ty Tima đưa ra mức phí lãi suất phải trả cho công ty
là 18%/năm chưa bao gồm phí tư vấn, còn ở web vay-
muon.vn thì mức phí đưa ra cao gần 5 lần lãi suất.
Theo quy định hiện hành, chỉ các tổ chức tín dụng
mới được phép huy động và cho vay vốn. Như vậy,
các công ty cho vay ngang hàng chưa được cấp phép
hoạt động, cho nên các công ty hoạt động trong lĩnh
vực này thường đăng ký là công ty tư vấn đầu tư. Cho
vay là một trong các hình thức cấp tín dụng và bị điều
chỉnh bởi luật các tổ chức tín dụng, nhưng cho vay
ngang hàng thì không bị điều chỉnh bởi luật này mà
chỉ bị điều chỉnh theo Bộ luật Dân sự 2015. Điều này
cho thấy, tại Việt Nam thiếu hành lang pháp lý cho
hình thức cho vay ngang hàng và các công ty cung
cấp sản phẩm này. Hay nói cách khác các công ty tư
vấn tài chính chưa được cấp phép hoạt động, cung
cấp sản phẩm tín dụng cho vay ngang hàng và không
thực hiện đúng bản chất của hình thức cho vay này
một các tích cực, tất cả những điều đó gây nhiều rủi
ro cho khách hàng vay, như là tín dụng đen trá hình.
Kéo theo nhiều hệ lụy cho nền kinh tế xã hội.
KẾT LUẬN VÀHƯỚNG PHÁT TRIỂN
Kết luận
Thứ nhất, cần sớm ban hành hành lang pháp lý quy
định đối với hình thức cho vay ngang hàng và các đơn
216
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế - Luật và Quản lý, 3(3):211- 218
Bảng 1: Một số nền tảng cho vay ngang hàng tiêu biểu tại Việt Nam
Nền tảng trực
tuyến
Thông tin doanh nghiệp Sản phẩm tiêu
biểu
Lãi suất
Tima.vn 13 Thành lập năm 2015 tại
Hà Nội, vốn điều lệ ban
đầu là 150 tỷ
- Vay tín chấp
theo lương
- Vay Sinh viên
- Cầm trang sức
- Vay thế chấp sổ
đỏ
Phụ thuộc vào
kết quả khớp
lệnh
Khách hàng cá nhân cung cấp
CMND cùng với 1 chứng từ
liên quan đến sản phẩm vay
cụ thể
Monily.vn 14 Hệ thống thuộc công ty
Fintech Global Partners
LP, trụ sở chính ở Scot-
land và mở rộng hoạt
động ở 8 nước trong đó
có Việt Nam
Cho vay tín chấp
tiêu dùng cá
nhân
1%-1,2%/ngày Cá nhân trên 22 tuổi, cung
cấp CMND, số điện thoại và
tài khoản ngân hàng; kết quả
phê duyệt sau 15 phút
HuyDong.com 15 Hệ thống thuộc Công ty
cổ phần Finsom thành
lập năm 2015
- Cho vay vốn
kinh doanh
10-25% Doanh nghiệp với mọi loại
hình đang hoạt động ở TP.
HCM và Hà Nội với ngành
nghề kinh doanh chính trên
12 tháng
DoctorDong.vn 16 Hệ thống thuộc công ty
TNHH MTV Tư Vấn
Tài Chính LGC thành
lập năm 2015
Cho vayCáNhân
có TSBĐ
10,9%/năm Là cá nhân trên 22 tuổi có thu
nhập trên 2tr/tháng và có sở
hữu tài sản để đảm bảo cho
khoản vay. Kết quả giải ngân
trong vòng 3 ngày
Tietkiemonline.vn 17Hệ thống thuộc Công ty
cổ phần SH Toàn Cầu
- Vay tiền nhanh
24h
-Vay không thế
chấp
- Vay trực tuyến
8-16%/năm Là cá nhân có tài khoản ngân
hàng, chỉ cần cung cấp 2 trong
4 loại giấy tờ tuỳ thân trong
bộ hồ sơ; có 2 hình thức xét
duyệt nhan 24 giờ hoặc xét
duyệt bình thường trong vòng
7 ngày
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ website chính thức của các nền tảng)
vị cung cấp sản phẩm này. Cần có những quy định
rõ ràng về khái niệm, phạm vi áp dụng, những giới
hạn cấp tín dụng trong cho vay ngang hàng, những
đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay ngang hàng,
những tiêu chuẩn đối với các công ty cung cấp sản
phẩm cho vay ngang hàng, Hoạt động tín dụng nói
chung và cho vay nói riêng còn mang một ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế và xã hội. Cho vay là một dịch vụ tài
chính vô cùng hữu ích cho những cá nhân, tổ chức
thực sự có nhu cầu về vốn để tiêu cùng, để sản xuất
kinh doanh, đặc biệt là những cá nhân có thu nhập
trung bình thấp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các
nền tảng cho vay ngang hàng được coi như là đối thủ
cạnh tranh lớn nhất đối với các Tổ chức tín dụng trong
phân phúc khách hàng này vì những tiện Los về thủ
tục và thời gianmà loại hình nàymang lại. Những thủ
tục hành chính rườm rà và hạn chế về ưu đãi trong tín
dụng ngân hàng đã LA cho các cá nhân có thu nhập
thấp và các SMEs tìm đến các kênh vay trực tuyến ồ
ạt hơn, tạo khe hở cho các tổ chức cho vay nặng lãi
”trá hình” hoạt động Do vậy, trong thời gian xây dựng
và hoàn thiện các biện pháp quản lý phù hợp cho thị
trường cho vay ngang hàng, thì NHNN cũng cần phải
yêu cầu và chỉ đạo các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng
ngoài ngân hàng cải cách thủ tục hành chính, minh
bạch và công bố công khai thông tin về hoạt động cho
vay của mình cùng với tăng cường triển khai nhiều
chính sách ưu đãi vay vốn để tạo điều kiện thuận lợi
chomọi chủ thể trong nên kinh tế có thể tiếp cận được
với vốn ngân hàng. Có như vậy thì mới ổn định được
sức nóng của thị trường cho vay ngân hàng, tạo sự
cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động tiền tệ ngân
hàng ở Việt Nam.
Thứ hai, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối
với hình thức cho vay ngang hàng. Xu thế phổ biến
217
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế - Luật và Quản lý, 3(3):211- 218
hình thức cho vay này là điều chắc chắn, do đó để xã
hội đón nhận và sử dụng cho vay ngang hàng một các
hiệu quả và tích cực thì trước tiên phải có sự nhận
thức về sản phẩm một cách thấu đáo.
Cuối cùng, cần xây dựng hệ thống phòng ngừa và xử
lý rủi ro trong hệ thống tài chính tiền tệ khi có sự xuất
hiện của cho vay ngang hàng. Điều này tránh những
hệ lụy lớn cho hệ thống tài chính quốc gia khi có biến
cố xảy ra.
Hướng phát triển
Việc xác định rõ vai trò của các tổ chức cho vay ngang
hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc định
hướng và xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động
đặc biệt này. Nếu xem các tổ chức này là những định
chế tài chính trung gian trong thị trường tài chính,
chỉ khác biệt là thay vì với hình thức giao dịch truyền
thống, thì hoạt động vay vốn diễn ra trực tuyến toàn
bộ nhờ công nghệ 4.0, thì việc quản lý của nhà nước
cũng sẽ phải chặt chẽ hơn với những quy định về an
toàn hoạt động như Ngân hàng. Bởi vì, các tổ chức
cho vay ngay vẫn phải đối diện với các rủi ro đặc trưng
như Ngân hàng, đồng nghĩa với việc họ vẫn phải thực
hiện thay các nhà đầu tư vấn đề về giám sát và quản
lý chặt chẽ các khoản vay đồng thời phân tích và xếp
hạng tín dụng khách hàng một cách nghiêm túc. Tuy
nhiên xét đúng bản chất thì các nền tảng vay ngang
hàng chỉ giữ vai trò là một kênh dẫn trong thị trường,
là một người hỗ trợ chứ không phải là một trung gian
tài chính trong thị trường. Các tổ chức chỉ cung cấp
công nghệ khớp lệnh giữa bên vay và bên cho vay mà
hoàn toàn không hề đầu tư vốn vào các khoản vay trên
nền tảng của họ, theo đó thì lo ngại rủi ro tín dụng
được loại bỏ ra khỏi trách nhiệm trong việc đánh giá
xếp hạng khoản vay và khách hàng vay. Nguồn thu
của các nền tảng này đến từ phí giao dịch được thực
hiện trên nền tảng giống như những doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ mô giới công nghệ khác. Như vậy
sự can thiệp quản lý của Ngân Hàng Nhà Nước một
cách trực tiếp với các tổ chức cung ứng nền tảng cho
vay ngang hàng là không hợp lý. Như vậy để cómột hệ
sinh thái cho vay ngan hàng được vận hành an toàn và
hiệu quả tại Việt Nam thì cần sự kết hợp giữa NHNN,
Quốc Hội và các sở ban ngành liên quan cùng thảo
luận để ra một quy định mới, dành riêng cho hoạt
động này, đảm bảo sự thống nhất và dung hoà giữa
Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Dân sự và Luật Doanh
nghiệp.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
CMND: Chứng minh nhân dân
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
TNHHMTV: Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC
GIẢ
Võ Thị Ngọc Hà tham gia dịch tài liệu lý thuyết tổng
quan về cho vay ngang hàng và tổng hợp thực trạng
từ các website của các nền tảng cho vay ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Trang và Lương Xuân Minh cùng
tham gia tổng hợp tình hình cho vay ngang hàng của
các quốc gia trên thế giới, phân tích và rút ra giải pháp
nhằm giúp cho vay ngang hàng hoạt động hiệu quả ở
Việt Nam.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Mateescu AL. Peer-to-Peer lending. Data & Society Research
Institute. 2015;p. 19–25.
2. Mcgowan A. Patent Application No. 11/394. 2006. 035.
3. ChenD, Lai F, Lin Z. A trustmodel for online peer-to-peer lend-
ing: a lender’s perspective. Information Technology andMan-
agement. 2014;15(4):239–254.
4. Kumar S. Bank of one: Empirical analysis of peer-to-peer fi-
nancial marketplaces. AMCIS 2007 Proceedings. 2007;p. 305.
5. Davis K, Murphy J. Peer to Peer lending: structures, risks and
regulation; 2016.
6. Galloway I. Peer-to-peer lending and community develop-
ment finance. Community Investments. 2009;21(3):19–23.
7. Available from: 10.https://www.kiva.org/about.
8. Available from: https://www.lendingclub.com/info/statistics.
action.
9. Available from: https://www.orcamoney.com/peer-to-peer-
lending-review/.
10. GanD. Comparative Analysis of Peer-to-Peer Lending in China
and the United Kingdom: An Assessment of the Lending
Plaza’s Market Entry; 2017.
11. Prospects (Doctoral dissertation, University of Southern Cali-
fornia).
12. Patwardhan A. Peer-To-Peer Lending. In: and others, editor.
Handbook of Blockchain, Digital Finance, and Inclusion. vol. 1.
Academic Press; 2018. p. 389–418.
13. Available from: https://tima.vn/Home/About/.
14. Available from: 
15. Available from: https://www.huydong.com/how-it-work.
16. Available from: https://doctordong.vn/faq.
17. Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ý kiến của NHNN về lĩnh vực
cho vay nganghàng tại Việt Nam thời gian gần đây. 2018. Truy
cập tại: https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/
trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?
218
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 3(3):211- 218
Open Access Full Text Article Review
Banking University of Ho Chi Minh City,
Viet Nam
Correspondence
Nguyen Thi Thu Trang, Banking
University of Ho Chi Minh City, Viet Nam
Email:
nguyenthithutrangdhnh@yahoo.com
History
 Received: 8/1/2019
 Accepted: 16/4/2019
 Published: 30/9/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3i3.561
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Peer-to-peer lending in Vietnam and experience from other
countries
Nguyen Thi Thu Trang*, Luong XuanMinh, Vo Thi Ngoc Ha
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Peer-to-peer (P2P) lending is gaining popularity in Vietnam, especially in the past two years. In fact,
this form of lending appeared a long time ago in the world with the establishment of Zopa in the
U.K. in 2005. There is neither much research nor a strict legal framework on P2P lending in Vietnam.
As a result, P2P lending platforms encounter many problems, especially legal issues during their
operation in Vietnam. The article aims to provide a theoretical framework on P2P lending and
the practical situation in developed markets such as the U.S. and European. We also present an
overview of the P2P lending market and the performance of P2P lending platforms in Vietnam
which we find not operating up to their essence. Based on the analysis and experience from other
countries, we suggest some solutions to increase the effectiveness of this form of lending in the
Vietnam's market.
Key words: peer-to-peer, peer-to-peer lending
Cite this article : Thi Thu Trang N, Xuan Minh L, Thi Ngoc Ha V. Peer-to-peer lending in Vietnam and 
experience from other countries . Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 3(3):211-219.
219

File đính kèm:

  • pdfcho_vay_ngang_hang_o_viet_nam_va_bai_hoc_kinh_nghiem_quan_ly.pdf