Chính sách tín dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp
DNKN và thực trạng chính sách tín
dụng dành cho DNKN hiện nay
Theo OECD (2010) và Criscuolo et al
(2014), DNKN có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân do bởi các DNKN có
tính sáng tạo, có thể giúp tạo việc làm, tạo
sản phẩm mới và tăng năng suất lao động.
Theo Acs at al (2009), các DNKN có thể tận
dụng và khai thác những kiến thức mà
những DN đang tồn tại trên thị trường chưa
biết cách sử dụng hoặc có sử dụng nhưng
chưa hiệu quả để kiến tạo nên những thị
trường mới, đặc biệt quan trọng trong các
lĩnh vực cần có chuyên môn cao
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách tín dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tín dụng cho doanh nghiệp khởi nghiệp

Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [52] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP n PGS. TS. Vũ Văn Ninh, PGS.TS. Phạm Thị Thanh Hòa Học viện Tài chính Trong những năm gần đây, một loại hình doanh nghiệp (DN) mới đượcnhận nhiều sự quan tâm từ phía Chính phủ và người dân, đó làdoanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN). Làn sóng khởi nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng doanh nhân và thế hệ trẻ Việt Nam. Việc hình thành và phát triển DNKN với những sáng tạo và đột phá về sản phẩm, dịch vụ hay công nghệ hứa hẹn sẽ trở thành một lực lượng quan trọng góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động, tạo thêm công ăn việc làm và thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế. Tính đến nay, có khoảng 1.800 DNKN, 20 quỹ đầu tư mạo hiểm có hoạt động đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, 21 vườn ươm khởi nghiệp và 7 tổ chức thúc đẩy kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNKN luôn gặp nhiều khó khăn như thiếu vốn, thiếu cơ sở sản xuất, thiếu lao động có chất lượng, thiếu kỹ năng quản trị tài chính, việc kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải có các cơ chế, chính sách phù hợp đối với các DNKN nhất là trong điều kiện hội nhập như hiện nay đối với DNKN. Bài viết sau sẽ đi phân tích thực trạng chính sách tín dụng hiện nay đối với DNKN và từ đó đề xuất một số kiến nghị khơi thông dòng vốn cho DNKN. CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG CHO DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [53] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP DNKN và thực trạng chính sách tín dụng dành cho DNKN hiện nay Theo OECD (2010) và Criscuolo et al (2014), DNKN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân do bởi các DNKN có tính sáng tạo, có thể giúp tạo việc làm, tạo sản phẩm mới và tăng năng suất lao động. Theo Acs at al (2009), các DNKN có thể tận dụng và khai thác những kiến thức mà những DN đang tồn tại trên thị trường chưa biết cách sử dụng hoặc có sử dụng nhưng chưa hiệu quả để kiến tạo nên những thị trường mới, đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực cần có chuyên môn cao. Khái niệm DNKN có thể có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các quốc gia. Chẳng hạn như ở Argentina và Brazil, khái niệm “DNKN” thì được hiểu là những công ty hoạt động trên nền tảng các công nghệ mới. Ở Chi Lê thì định nghĩa, DNKN là những công ty tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ. Còn Colombia và Peru thì xác định DNKN căn cứ trên khả năng hoạt động của DN dựa vào công nghệ thông tin và truyền thông. Đối với Singapore xác định DNKN có hoạt động tập trung vào những ngành, lĩnh vực mà chính phủ đã định hướng có mức tăng trưởng nhanh như y tế (khoa học sinh hóa), công nghệ thông tin, công nghệ sáng tạo đổi mới, ngành công nghiệp bán lẻ, công nghệ tài chính, lĩnh vực giáo dục (theo hướng đào tạo chuyên nghiệp). Theo Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ, khởi nghiệp không chỉ đơn thuần là thành lập mới, mà DNKN mang tính chất định hướng công nghệ, có tiền năng tăng trưởng cao nhưng cũng có nguy cơ rủi ro cao. Ở Việt Nam, Luật hỗ trợ DN nhỏ và vừa năm 2017 đã đưa ra khái niệm DN nhỏ và vừa khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là DN nhỏ và vừa được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh. DNKN có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Điều đầu tiên cần trong khởi nghiệp là tinh (tinh thần), tiếp theo là tài (tri thức) và cuối cùng khi đủ độ chín, đủ độ tự tin, bắt đầu tìm vốn để bắt đầu khởi nghiệp (vốn). Đặc điểm lớn nhất của DNKN là sự sáng tạo, nếu không có sáng tạo thì DNKN không khác với những DN mới thành lập một cách truyền thống. Sáng tạo là hoạt động tạo ra thứ gì đó đồng thời có tính mới và lợi ích. Quan trọng là phải viết tìm ra cơ hội lớn từ thị trường ngách, những mảng, lĩnh vực, sản phẩm và dịch vụ chưa ai làm để cung ứng và phục vụ cho nhu cầu của con người. Khởi nghiệp không chỉ là khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mà khởi nghiệp ở một phạm trù rộng lớn hơn, trong nghiều lĩnh vực như ngành nghề như năng lượng, sản xuất Các DNKN có thể tận dụng và khai thác những kiến thức mà những DN đang tồn tại trên thị trường chưa biết cách sử dụng hoặc có sử dụng nhưng chưa hiệu quả để kiến tạo nên những thị trường mới, đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực cần chuyên môn cao. Như vậy, có thể hiểu DNKN là DN đang trong quá trình hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh để tạo ra một loại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mới hay thực hiện mô hình kinh doanh mới mà trong xã hội chưa có DN nào sản xuất và kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đó hay có mô hình kinh doanh đó. Theo nghiên cứu của Cvijanovie và Sruk (2008), vốn cho các DNKN phải trải qua 5 giai đoạn: giai đoạn thử nghiệm - khởi nghiệp - mở rộng - tái cấp vốn - bán một phần DN. Trong giai đoạn đầu, vốn thường từ các sáng lập viên, bạn bè hay gia đình, khoản vay hay từ các quỹ đầu tư mạo hiểm hay doanh nghiệp phi tài chính. Giai đoạn mở rộng vốn do các quỹ mạo hiểm và quỹ cho vay, giai đoạn mua lại thì vốn cổ phần tư nhân đóng vai trò quan trọng. Như vậy có thể thấy, trong quá trình khởi nghiệp, khó khăn lớn nhất đối với DNKN là vốn. Trong giai đoạn đầu, vốn của các DNKN thường đến từ các sáng lập viên, bạn bè, gia đình, các quỹ đầu tư, nhà đầu tư. Nguồn vốn này chỉ hỗ trợ được phần nào trong giai đoạn đầu khởi nghiệp chứ thực sự chưa đủ mạnh để hỗ trợ được các DNKN phát triển. Việc khó tiếp cận vốn ngân hàng đã khiến nhiều DNKN mất đi cơ hội kinh doanh tiềm tàng. Hiện nay, Vệt Nam cũng chưa có chính sách tín dụng cho cụ thể cho các DNKN, vì vậy khi đánh giá thực trạng, chúng tôi đã dựa vào chính sách tín dụng hiện hành dành cho DN vừa và nhỏ, nhưng là các DN tiên phong trong những lĩnh vực, ngành nghề mới có sự khác biệt so với DN thương mại, sản xuất truyền thống, cụ thể như sau: Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [54] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP - Đối với vay vốn ưu đãi: theo nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng xuất khẩu và quyết định số 03/2011/QĐ-TTg ngày 10/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế bảo lãnh cho DN vừa và nhỏ, các DN có dự án đầu tư và tín dụng xuất khẩu đáp ứng đủ các điều kiện: (i) Thực hiện đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật; (ii) Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, có hiệu quả, bảo đảm trả được nợ; (iii) Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự án tối thiểu 20% và phải bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, các điều kiện tài chính cụ thể của phần vốn đầu tư của Nhà nước; (iv) Thực hiện bảo đảm tiền vay theo các quy định tại Nghị định này và quy định của pháp luật; (v) Mua bảo hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động hợp pháp ở Việt Nam đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc trong suốt thời gian vay vốn; (vi) Thực hiện chế độ hoạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập. - Đối với bảo lãnh tín dụng: các DNKN là DN nhỏ và vừa thuộc các ngành công nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo...; đáp ứng đủ các điều kiện: (i) Dự án đầu tư có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay; (ii) Có tối thiểu 15% vốn chủ sở hữu tham gia dự án đầu tư, (iii) Tại thời điểm đề nghị bảo lãnh, không có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thì được Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ khoản vay của DN tại Ngân hàng thương mại (tối đa 85% tổng mức vốn đầu tư dự án) với thời hạn bảo lãnh theo thời hạn vốn. - Bên cạnh đó, nếu DNKN đáp ứng về quy mô lao động hoặc nguồn vốn là DN nhỏ và vừa hoặc đáp ứng các tiêu chí cho vay của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển DN nhỏ và vừa thì sẽ được vay vốn ưu đãi từ quỹ này. Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia thành lập theo Quyết định 1342/QĐ-TTg ngày 05/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ và thực tế đi vào hoạt động từ 8/1/2015 với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng. Năm 2015, Quỹ đã chi 300 tỷ đồng hỗ trợ không hoàn lại với mức tối đa là 30% giá trị của dự án, các năm tiếp theo ngoài việc hỗ trợ không hoàn lại, quỹ cho vay từ 30-70% tổng kinh phí các hợp đồng chuyển giao của dự án công nghệ với các mức ưu lãi suất khác nhau, thấp hơn lãi suất vay từ các ngân hàng thương mại. Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia thành lập theo Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003. Quỹ cho vay không lãi suất đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra trong nước và có tạo việc làm, thu nhập cho từ 500 lao động trực tiếp trở lên tại các cùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; cho vay với lãi suất bằng 70% lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước trong từng thời kỳ đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ khác; cho vay với lãi suất bằng lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước trong từng Trong quá trình khởi nghiệp, khó khăn lớn nhất đối với DNKN là vốn Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [55] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP thời kỳ đối với các dự án ứng dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đầu tư nước ngoài. Quỹ phát triển DN nhỏ và vừa (SMEDF) thành lập theo quyết định số 601/2013/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ và thực tế đi vào hoạt động ngày 22/4/2016 với số vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng. Mức cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án, phương án sản xuất kinh doanh (không bao gồm vốn lưu động), tối đa 30 tỷ đồng. - Ngoài ra, theo Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 quy định “DN ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức mạnh của sản phẩm, hàng hóa được quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất cho vay, bảo lãnh để vay vốn, DN ứng dụng công nghệ cao được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. DN ứng dụng công nghệ là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong nước được hỗ trợ lãi suất vay vốn tại ngân hàng”. Như vậy, các DNKN ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được bảo lãnh vay vốn. - Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” cũng như những khuyến khích sử dụng các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của DN để tài trợ, hỗ trợ một phần kinh phí nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ, thử nghiệm thị trường, cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi, góp vốn đầu tư vào DN đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020 được ban hành với chỉ đạo trong việc cho vay như: xây dựng các chương trình vay vốn lãi suất hợp lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo dựng môi trường thuận lợi, hỗ trợ DNKN, DN đổi mới sáng tạo. - Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa năm 2017 đã cũng có những đề cập ưu đãi đến các DNKN trên các khía cạnh như tiếp cận tín dụng, bảo lãnh tín dụng, góp vốn đầu tư cho DNKNTuy nhiên, để Luật thực sự hỗ trợ cho DNKN thì cần phải có các văn bản dưới luật quy định chi tiết các nội dung hơn nữa. Như vậy, có thể thấy nhiều chính sách đã được ban hành để hỗ trợ các DN nhỏ và vừa nói chung và DNKN nói riêng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng hiện nay khó tiếp cận trên góc độ tiếp cận tín dụng, bảo lãnh tín dụng, góp vốn đầu tư do hầu hết các DNKN ban đầu đều có quy mô nhỏ, siêu nhỏ, nguồn vốn nội sinh ít, tài sản thế chấp vay ngân hàng hầu nhu không có. Bên cạnh đó, bản chất của ác DNKN đổi mới sáng tạo là rủi ro cao nên các kênh huy động vốn truyền thống qua các ngân hàng thương mại rất khó khăn. Một vài khuyến nghị Trong thời gian tới, để hỗ trợ cho DNKN phát triển, cần phải có các chính sách tín dụng cụ thể đối với DNKN. Xuất phát từ các chính sách tín dụng hiện nay với các DN nhỏ và vừa, cần phải bổ sung hoặc chỉnh sửa một số nội dung cho phù hợp với đối tượng là DNKN. * Về tiếp cận tín dụng Thứ nhất: Luật hỗ trợ DN nhỏ và vừa nên có các văn bản dưới luật quy định chi tiết các nội dung, trong đó nên có quy định với đối tượng là DNKN. Việc vay vốn của các DNKN trong giai đoạn trước khi - mới hình thành (dưới 2 năm) nên dựa trên việc xếp hạng tín dụng/ tín nhiệm cá nhân thay vì xếp hạng tín dụng DN. Việc xếp hạng tín dụng cá nhân có thể được thực thi bởi một tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập, hoặc thông qua hệ thống thông tin tín dụng liên ngân hàng, từ đó Ngân hàng Nhà nước có thể thành lập tổ chức tín dụng cá nhân trên từng địa phương. Tiếp theo, việc xếp hạng tín nhiệm cá nhân có thể được thông qua Ủy ban nhân dân/ công an quản lý khu vực nơi đăng ký cư trú của các cá nhân tham gia vào việc hình thành nên DNKN. Danh sách các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập của Ngân hàng nhà nước cần được thông bố thông tin rõ ràng và rộng rãi tới các ngân hàng, các phòng sở tại các địa phương, các website của các cơ quan tổ chức có liên quan. Giai đoạn DNKN đã đi vào hoạt động (từ 2 năm trở lên): thì có thể theo các điều kiện của DN nhỏ và vừa, tuy nhiên có xem xét đến yếu tố đổi mới sáng tạo trong các hoạt động của DN để được tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng. Thứ hai: Các ngân hàng thương mại có thể thiết kế Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [56] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP riêng các gói sản phẩm tín dụng hỗ trợ DNKN, giảm bớt các điều kiện đánh giá về năng lực tài chính, tăng thêm các tiêu chí đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh nhằm kiểm soát rủi ro, và đặc biệt không dùng tài sản bảo đảm. Thứ ba: Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng đầu tư về tín dụng xuất khẩu cho DN nhỏ và vừa có đưa ra nhiều điều khoản để yêu cầu DN nhỏ và vừa thỏa mãn mới được yêu cầu về tín dụng, tuy nhiên đứng từ góc độ DNKN thì khó có thể bảo đảm được. Do vậy, đối với các DNKN, các điều khoản cần được nới lỏng hơn nữa về kế hoạch kinh doanh hay tỷ lệ vốn góp của chủ sở hữu. Đối với DNKN, kế hoạch kinh doanh thường dựa trên các ý tưởng có yếu tố mới, sáng tạo, thường chưa có tiền lệ, tiềm ẩn rủi ro cao và thời gian để hoàn vốn thường dài hơn các dự án thông thường nên việc đưa ra tiêu chí đánh giá hiệu quả cần tính đến các vấn đề này. Về tỷ lệ góp vốn của chủ sở hữu: Ở các dự án thông thường, DN nhỏ và vừa đòi hỏi là 20%, tuy nhiên đối với các DNKN, điều này có thể khó bảo đảm hơn bởi phần lớn trong họ đều khởi động từ việc phát triển các ý tưởng sáng tạo chứ không bắt nguồn từ việc đầu tư vốn kinh doanh như các DN nhỏ và vừa. * Về bảo lãnh tín dụng Quỹ bảo lãnh tín dụng cần xem xét thêm đối tượng thụ hưởng đó là các DNKN và cần có các tiêu chí để bảo lãnh khác biệt so với các DN nhỏ và vừa ở chỗ tài sản đảm bảo. Vì DNKN thường không có tài sản đảm bảo và nhiều tài sản của DNKN lại là tài sản cố định vô hình, rất khó có thể xác định được giá trị của tài sản. Các tiêu chí để bảo lãnh ... ủa DNKN. Ngoài ra, các tiêu chí này cũng có thể được giảm đi tối thiểu nếu có các bằng phát minh, sáng chế đã được đăng ký. * Về thành lập kênh huy động vốn cho các DNKN Dựa vào vòng phát triển một DN, kể cả DN thông thường hay DNKN, có thể thấy rằng việc huy động vốn cho đối tượng DN ở từng giai đoạn phát triển phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc cũng như mức độ phát triển của thị trường tài chính. Các định chế tài chính khác nhau sẽ sẵn sàng đầu tư vào các giai đoạn phát triển khác nhau của DN với mức độ rủi ro khác nhau. Đối với DNKN, ở giai đoạn mới khởi đầu, các cơ chế cấp vốn như nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư cá nhân hay Crowd - Funding là phù hợp nhất. Các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư cá nhân, nhà đầu tư thiên thần là những công cụ cực kỳ quan trọng để huy động vốn, đầu tư và hiện thực hóa các ý tưởng đổi mới, sáng tạo của những người khởi nghiệp. Trong thực tế, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định các vấn đề liên quan đến hoạt động của các quỹ đầu tư tư nhân, nhà đầu tư thiên thần hoặc các hoạt động huy động vốn của các DNKN thông qua cộng đồng Crowd-Funding. Điều này cho thấy, cần có hành lang pháp lý nhằm khuyến khích, đồng thời kiểm soát hoạt động của nhóm đối tượng này. Do vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần: - Sớm thông qua dự thảo văn bản về Quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời sớm soạn thảo các dự thảo quy định về Quỹ đầu tư tư nhân (Private equity), nhà đầu tư thiên thần, huy động vốn thông qua hình thức Crowd - Funding. - Nghiên cứu xây dựng quỹ đầu tư cho DNKN theo mô hình hợp tác công tư thuộc Chính phủ nhằm kêu gọi vốn đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiềm năng. Quỹ đầu tư này sẽ được đăng ký hoạt động theo mô Để hỗ trợ cho DNKN phát triển, cần phải có các chính sách tín dụng cụ thể Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [57] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP hình công ty đầu tư tài chính và ủy thác đầu tư. Phần lợi nhuận tạo ra từ nguồn đầu tư của Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư cho các hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo khởi nghiệp, cũng như đầu tư trực tiếp cho DNKN tiềm năng. Bên cạnh đó, dựa trên điều kiện của Việt Nam còn đang trong giai đoạn phát triển, thiếu các điều kiện để có thể thành lập được các sàn giao dịch chứng khoán cho các DNKN, thì trong giai đoạn trước mắt có thể: - Thành lập các “chợ tín dụng” có quy mô nhỏ theo các hình thức sàn giao dịch chính thức/không chính thức về vốn cho các dự án về đầu tư đổi mới sáng tạo. Tại chợ/sàn giao dịch này, bên cần vốn sẽ đưa các thông tin nhất định về số vốn cần, về thời gian, dự trù kinh phí và đặc biệt là số tiền cần trong thời gian, kế hoạch thanh toán trở lại; bên có vốn có thể thông qua các lời chào mời này để tìm hiểu về dự án/DNKN, từ đó có thể tham gia góp vốn trực tiếp đến DN đang cần vốn. - Phát triển các hình thức huy động vốn thông qua mạng lưới kêu gọi vốn đám động (Crowd-Funding), từ đó thiết lập ra cơ chế hỗ trợ và kiểm soát hình thức này. Các hình thức huy động vốn này được áp dụng với các công cụ là công nghệ thông tin sẽ giúp giảm thiểu chi phí và đưa DNKN đến bên có vốn. Chính phủ có thể thành lập mạng lưới các nhà kinh doanh thiên thần, tương tự như Busines Angels Network ở châu Âu để kết nối với các nhà kinh doanh có nguồn lực về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới quan hệ hoạt động và kinh nghiệm thương trường đến các đối tượng DNKN có nhu cầu. Việc huy động sức mạnh trí tuệ từ các cá nhân có tâm, có tiền, có kinh nghiệm ở Việt Nam vẫn cần vai trò trung gian của Chính phủ. Trong tương lai xa, có thể nghiên cứu thành lập sàn giao dịch chứng khoán cho các DNKN. Sàn giao dịch này dành cho các DNKN vào giai đoạn bắt đầu trưởng thành, sau 10-15 năm tính từ lúc hình thành. Các DNKN tham gia sàn giao dịch này cũng phải thỏa mãn các điều kiện phù hợp với Luật và tình trạng nền kinh tế Việt Nam, chẳng hạn như tiêu chí về doanh thu. Để có thể thành lập được sàn giao dịch chứng khoán cho các DNKN thì yêu cầu cần phải có đủ lượng cung (DNKN) và cầu (số lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp) tham gia thị trường. Chính vì vậy, Việt Nam cũng cần phải có các chính sách tạo điều kiện cho sự phát triển của DNKN và các nhà đầu tư chuyên nghiệp trong thời gian tới./. Tài liệu tham khảo: 1. Asc, Z.et.al. (2009), The knowledge spillover theory of entrepreneurship, Small Business Economics, Vol.32,pp.15- 30. 2. Criscuolo, C; P. Dal and C. Menon (2014), The dynamics of emploument growth; New ecidence from 18 country, OECD Science, Technology and Industry Policy Papers, No.14, OECD Publishing, Paris, http:// dx.doi.org/10.1787/5jz417hj6hg6-en 3. OECD (2010), SMEs, Entrepreneurship and innovation, OECD Publishing, Paris, http:// dx.doi.org/10.1787/9789264080355-en 4. Diêm thị Thanh Hải, Kinh nghiệm từ châu Âu trong hỗ trợ huy động vốn cho các DNKN và bài học cho Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 2017, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính. 5. Dự thảo Thông tư về Quỹ đầu tư mạo hiểm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 6. Lê Minh Hương (2016), Chính sách tài chính hỗ trợ DNKN ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học 2017, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính. 7. Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa 2017. 8. Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13. 9. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. 10. Nghị quyết số 35/ NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020. 11. Vũ Văn Ninh và Phạm Thị Thanh Hòa (2017), Chính sách tài chính đối với DNKN ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài chính. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [58] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 56/2018/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường do cơ quan trung ương thực hiện thẩm định. Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 10/8/2018. Theo đó, người nộp phí là các cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương thực hiện thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Người nộp phí thực hiện nộp phí thẩm định trong thời gian từ thời điểm nộp hồ sơ đề nghị thẩm định, thẩm định lại đến trước khi tổ chức họp hội đồng thẩm định. Phí nộp trực tiếp cho tổ chức thu phí hoặc nộp vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách của tổ chức thu phí mở tại Kho bạc Nhà nước. Tổ chức thu phí bao gồm: Tổng cục Môi trường trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; Các cơ quan được các bộ, cơ quan ngang Bộ giao thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đối với nhóm dự án được chia thành 6 nhóm, cụ thể như sau: Nhóm 1- Dự án công trình dân dụng; Nhóm 2 - Dự án hạ tầng kỹ thuật (trừ dự án giao thông); Nhóm 3 - Dự án nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi; Nhóm 4 - Dự án giao thông; Nhóm 5 - Dự án công nghiệp; Nhóm 6 - Dự án xử lý chất thải và cải thiện môi trường và các dự án khác (không thuộc nhóm 1, 2, 3, 4, 5 nêu trên). Đối với các dự án thuộc từ 2 nhóm trở lên thì áp dụng mức phí của nhóm có mức thu cao nhất. Tổ chức thu phí nộp 100% tiền phí thu được vào ngân sách nhà nước. Nguồn chi phí trang trải cho hoạt động thẩm định, thu phí do ngân sách nhà nước bố trí trong dự toán của tổ chức thu theo chế độ, định mức chi ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật./. DOANH NGHIỆP CẦN BIẾT quy địNH mới về mứC pHí tHẩm địNH Báo Cáo đáNH giá táC độNg môi trườNg Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4 sẽ có hiệu lực thi hành vào đầu năm 2019 đã thay đổi phương thức quản lý nhà nước theo hướng nhà nước kiến tạo và phục vụ. Luật Quy hoạch cũng nhằm tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành; đổi mới phương pháp, nội dung quy hoạch theo phương pháp tích hợp, đa ngành quản lý phát triển một cách đồng bộ, khắc phục tình trạng chia cắt, cục bộ ngành và tính cát cứ địa phương. Luật này cũng hướng tới thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh thông qua việc loại bỏ các quy hoạch sản phẩm đang tồn tại và được xem là giải pháp quan trọng góp phần bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh công khai, minh bạch, thông thoáng và hiệu quả. Cụ thể, Luật Quy hoạch đã bãi bỏ các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu thụ (quy hoạch sản phẩm) đang cản trở hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân; bãi bỏ các quy hoạch sản phẩm như: Quy hoạch công nghiệp hóa chất, dược, quy hoạch kinh doanh thuốc lá, quy hoạch tổng thể các tổ chức hành nghề công chứng đang tồn tại./. Bãi Bỏ quy HoạCH sảN pHẩm Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [59] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 39/2018/TT-BTC quy định, hướng dẫn nhiều nội dung. Trong đó, công tác quản lý, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu có nhiều đổi mới... Bộ Tài chính quy định, việc lấy mẫu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nếu người khai hải quan có yêu cầu lấy mẫu sẽ thực hiện đề nghị của mình thông qua Hệ thống mà không cần phải đến cơ quan hải quan. Cơ quan hải quan sẽ tiếp nhận đề nghị thông báo chấp nhận việc lấy mẫu thông qua Hệ thống. Trường hợp lấy mẫu phục vụ kiểm tra chuyên ngành và hàng hóa đang trong khu vực giám sát hải quan thì cơ quan hải quan bố trí lực lượng giám sát trên cơ sở áp dụng quản lý rủi ro. So với Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015, tại Thông tư số 39/2018/TT-BTC, Bộ Tài chính đã cụ thể hơn đối với quy định đưa hàng về bảo quản, người khai hải quan cần chứng minh địa điểm bảo quản là các kho, bãi có địa chỉ rõ ràng, ngăn cách với khu vực xung quanh đảm bảo việc bảo quản nguyên trạng hàng hóa thông qua các chứng từ quy định cụ thể. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng bổ sung các quy định để làm rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi, địa điểm về việc cung cấp thông tin cho cơ quan hải quan (thông tin về lượng hàng, thời điểm hàng vào (get in), hàng ra (get out), vị trí lưu giữ và các thay đổi trong quá trình lưu giữ). Trường hợp tại khu vực cảng, kho, bãi, địa điểm đã có kết nối Hệ thống thông tin với cơ quan Hải quan thì người khai chỉ cần liên hệ với doanh nghiệp kinh doanh cảng để vận chuyển hàng hóa qua khu vực giám sát trên cơ sở thông tin về các lô hàng đủ điều kiện qua khu vực giám sát đã được cơ quan hải quan cung cấp qua hệ thống./. tHêm NHiều đổi mới troNg quảN lý, giám sát HàNg xuất NHập KHẩu hải quan nơi đăng ký tờ khai hải quan phải lấy mẫu gửi Cục Kiểm định Hải quan để xác định hàng hóa nhập khẩu có phải là phế liệu hay không. Theo thống kê của cơ quan Hải quan, từ 1/1/2017 đến 12/3/2018, cả nước có 928 DN nhập phế liệu, với 49.266 tờ khai. Trong đó, nhóm phế liệu nhựa có 407 DN, với 18.344 tờ khai; phế liệu giấy có 254 DN, với 11.187 tờ khai; phế liệu sắt thép có 369 DN, với 13.114 tờ khai./. Tổng cục Hải quan vừa có công văn gửi các cục Hải quan các tỉnh thành phố theo đó yêu cầu phế liệu nhập khẩu bắt buộc phải có mẫu kiểm định. Cụ thể, Tổng cục Hải quan chỉ đạo, đối với hàng hóa khai báo là phế liệu nhập khẩu, khi thực hiện thủ tục hải quan, chi cục hải quan nơi đăng ký tờ khai hải quan phải lấy mẫu gửi Cục Kiểm định Hải quan để phân tích, đánh giá đảm bảo lô hàng phế liệu nhập khẩu phù hợp quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Trong quá trình lấy mẫu, cơ quan hải quan phải chụp ảnh thực tế hàng hóa nhập khẩu để lưu hồ sơ phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra. Đối với hàng hóa khai báo là hàng đã qua sử dụng, không phân biệt mục đích sử dụng và có tên hàng, mã số hàng hóa không thuộc Phụ lục Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất ban hành kèm theo Quyết định 73/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có nghi vấn là phế liệu (ví dụ như: bao vì, màng nhựa, dây đai, bao jumbo, đồ nhựa, lưới đánh cá) đã qua sử dụng khi thực hiện thủ tục hải quan, chi cục HàNg HóA là pHế liệu NHập KHẩu BuộC pHải Có mẫu Kiểm địNH Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 7/2018 [60] DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 89/2018/NĐ- CP trong đó quy định rõ việc kiểm dịch y tế đối với hàng hóa. Theo quy định, hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh phải được khai báo y tế, trừ trường hợp hàng hóa quá cảnh mà không bốc dỡ khỏi phương tiện, hàng hóa thuộc diện kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật trên cạn và động vật, sản phẩm động vật thủy sản theo quy định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cụ thể, đối với hàng hóa vận tải bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không, người khai báo y tế phải khai, nộp giấy khai báo y tế hàng hóa theo Mẫu số 4 và giấy chứng nhận kiểm tra/xử lý y tế hàng hóa, phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường hàng không theo Mẫu số 9 theo Nghị định này cho tổ chức kiểm dịch y tế biên giới hoặc qua Cổng thông tin một cửa quốc gia trước khi hàng hóa được phép nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh. Đối với hàng hóa vận tải bằng đường thủy, người khai báo y tế thực hiện khai, nộp bản sao bản khai hàng hóa theo Mẫu số 43 quy định tại Nghị định số 58/2017/NĐ-CP ngày 10/5/2017 và giấy chứng nhận kiểm tra y tế hàng hóa (trên tàu thuyền), tàu thuyền theo Mẫu số 10 theo Nghị định này (nếu có) cho tổ chức kiểm dịch y tế biên giới hoặc qua Cổng thông tin một cửa quốc gia trước 12 giờ kể từ khi hàng hóa dự kiến nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh. Nghị định nêu rõ, kiểm dịch viên y tế sẽ thực hiện kiểm tra giấy tờ, kiểm tra thực tế đối với hàng hóa có yếu tố nguy cơ sau: 1- Hàng hóa vận chuyển qua quốc gia, vùng lãnh thổ có ghi nhận trường hợp bệnh truyền nhiễm mà Bộ Y tế có yêu cầu phải giám sát; 2- Hàng hóa mang hoặc có dấu hiệu mang mầm bệnh, trung gian truyền bệnh truyền nhiễm; 3- Hàng hóa vận chuyển bằng phương tiện có yếu tố nguy cơ được quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định này; 4- Hàng hóa có thông báo của cơ quan có thẩm quyền về nguy cơ lây lan dịch bệnh truyền nhiễm./. quy địNH Kiểm dịCH y tế đối với HàNg HóA nhâp̣ khâủ được bổ sung, sửa đổi phù hợp với tình hình phát triển và các quy định khác của pháp luật theo từng thời kì. Linh kiện, phụ tùng, cụm linh kiện, phụ kiện đã qua sử dụng của các loại sản phẩm thuộc Danh mục cấm nhập khẩu cũng bị cấm nhập khẩu. Sản phẩm công nghệ thông tin tân trang là sản phẩm đã qua sử dụng được sửa chữa, thay thế linh kiện và các công đoaṇ khác đê ̉phục hồi chức năng, hình thức tương đương sản phẩm mới; có nhãn hiệu bằng tiếng Việt ghi rõ sản phâm̉ tân trang, hoặc bằng tiếng nước ngoài có ý nghĩa tương đương; có chế độ bảo hành như sản phẩm mới. Việc nhập khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin tân trang áp dụng quy định như đối với sản phẩm đã qua sử dụng tại Thông tư này./. Đây là đề xuất của Bộ Thông tin và Truyền thông tại dự thảo Thông tư ban hành Danh mục sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cấm nhập khẩu. Theo dự thảo, danh mục câḿ đề xuất sảN pHẩm CôNg NgHệ tHôNg tiN đã quA sử dụNg Cấm NHập KHẩu Nguồn: Khoa học phổ thông, Tạp chí KH&CN, Tạp chí Hoạt động khoa học, Tạp chí Tài chính, NASATI Tòa soạn Tạp chí (Tổng hợp)
File đính kèm:
chinh_sach_tin_dung_cho_doanh_nghiep_khoi_nghiep.pdf