Chính sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam và vấn đề đặt ra

Biến đổi khí hậu là mối đe dọa chủ yếu tới phát triển bền vững ở mọi quốc gia, trong đó có Việt

Nam. Chính sách tài khóa được cho là một trong những công cụ quan trọng nhằm góp phần huy

động, sử dụng các nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Bài viết phân tích, đánh giá chính

sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất giải pháp.

pdf 4 trang phuongnguyen 340
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam và vấn đề đặt ra", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam và vấn đề đặt ra

Chính sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam và vấn đề đặt ra
56
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
cực trong thực hiện ứng phó với BĐKH bằng 
việc tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ 
môi trường (BVMT) như tham gia Công ước của 
Liên Hợp quốc về sự biến đổi môi trường vào 
năm 1980; tham gia Nghị định thư Montreal về 
các chất làm suy giảm tầng ôzôn năm 1984; Công 
ước Ramsar về các vùng đất ngập nước có tầm 
quan trọng quốc tế; Công ước Marpol về ngăn 
ngừa ô nhiễm do tàu biển năm 1991 Trên cơ sở 
các cam kết mà Việt Nam đã tham gia, Chính phủ 
Việt Nam đã xây dựng và hình thành được một hệ 
thống các chiến lược, kế hoạch quốc gia về BĐKH 
(Quyết định 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011 của 
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc 
gia về BĐKH; Quyết định số 1474/QĐ-TTg ngày 
05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban 
hành Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH giai 
đoạn 2012 – 2020). Theo đó, nhiều bộ, ngành và 
địa phương cũng đã ban hành các kế hoạch hành 
động ứng phó với BĐKH.
Thông qua các kế hoạch hành động, các chính 
sách tài khóa cũng được triển khai thực hiện nhằm 
đạt được các mục tiêu của Chiến lược, Kế hoạch đề 
ra. Cụ thể:
Thứ nhất, chủ động thực hiện các chính sách 
thu NSNN nhằm khuyến khích sản xuất và tiêu 
dùng các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi 
trường, giảm thiểu BĐKH và hạn chế sản xuất, tiêu 
dùng các sản phẩm, dịch vụ gây nguy hại đến môi 
trường, BĐKH.
Các chính sách thuế (như thuế thu nhập doanh 
nghiệp (TNDN), thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, 
thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và thuế sử dụng đất 
nông nghiệp) đã quy định các mức ưu đãi khác 
nhau về thuế suất hay cho phép miễn, giảm thuế 
nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh 
Chính sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu
Trong vòng 30 năm qua, bên cạnh những thành 
tựu đạt được của quá trình đổi mới và phát triển 
đất nước thì vấn đề môi trường, thiên tai, biến đổi 
khí hậu (BĐKH) đang trở thành vấn đề “nóng” của 
Việt Nam đòi hỏi cần phải được giải quyết. Các vấn 
đề về môi trường, BĐKH diễn biến ngày càng phức 
tạp. Hàng năm, thiên tai đã khiến 500 người chết và 
mất tích. Thiệt hại về kinh tế trung bình khoảng 1% 
- 1,5% GDP. Trong số 21 loại hình thiên tai được xác 
định trên thế giới, Việt Nam đang phải hứng chịu 
tới 20 loại hình (chỉ trừ sóng thần). Theo Chỉ số rủi 
ro về khí hậu dài hạn (CRI), Việt Nam là 1 trong 10 
nước bị ảnh hưởng nặng bởi thiên tai. 
Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam luôn tích 
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ỨNG PHÓ 
VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ThS. LÊ THỊ MAI LIÊN
Biến đổi khí hậu là mối đe dọa chủ yếu tới phát triển bền vững ở mọi quốc gia, trong đó có Việt 
Nam. Chính sách tài khóa được cho là một trong những công cụ quan trọng nhằm góp phần huy 
động, sử dụng các nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Bài viết phân tích, đánh giá chính 
sách tài khóa ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất giải pháp.
Từ khóa: Chính sách tài khóa, tài chính, biến đổi khí hậu, thiên tai
Climate change is a primary threat toward 
sustainable developmemt of all countries. 
Fiscal policy has been considered the most 
important instrument to mobilize and utilize 
the resources to tackle climate change. This 
paper aims at analyzing and evaluating fiscal 
policy to tacke climate change in Vietnam, it 
also attempts to recommends solutions to the 
arisen problems.
Keywords: Fiscal policy, finance, climate change, 
calamity
Ngày nhận bài: 8/8/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 28/8/2017
Ngày duyệt đăng: 30/8/2017
TÀI CHÍNH - Tháng 9/2017
57
nghiệp (DN) tham gia hoạt động vào lĩnh vực bảo 
vệ môi trường (BVMT), khuyến khích sử dụng công 
nghệ xanh, sản xuất năng lượng sạch, năng lượng 
tái tạo. Trong khi một số chính sách thuế khác (như 
thuế tài nguyên, thuế BVMT) quy định mức thu thuế 
cao vào các hoạt động khai thác tài nguyên thiên 
nhiên gây ô nhiễm môi trường và các sản phẩm 
hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường.
Các chính sách về phí, giá dịch vụ liên quan tới 
môi trường, có ảnh hưởng tới BĐKH hiện nay gồm 
phí đối với nước thải, phí đối với khai thác khoáng 
sản; giá dịch vụ cho hoạt động thu gom, vận chuyển, 
xử lý chất thải; phí vệ sinh... 
Bên cạnh các chính sách thu trên hiện còn có 
các chính sách khác nhằm khuyến khích tổ chức, 
cá nhân thực hiện các dự án đầu tư theo cơ chế 
phát triển sạch (CDM) và khuyến khích xã hội 
hóa trong lĩnh vực BVMT trên cơ sở thực hiện 
miễn, giảm và ưu đãi thuế thu nhập DN, thuế 
giá trị gia tăng và thuế xuất nhập khẩu. Ngoài 
ra, bên cạnh các cơ chế khuyến khích, còn có các 
chế tài xử phạt, cưỡng chế các đối tượng vi phạm 
pháp luật về BVMT.
Như vậy, để khuyến khích sản xuất và tiêu 
dùng các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi 
trường, giảm thiểu BĐKH và hạn chế sản xuất, 
tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ gây nguy hại 
đến môi trường, Việt Nam đã có những chính 
sách thu ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm 
khuyến khích các nhà đầu tư tham gia trực 
tiếp vào hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường, 
sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài 
nguyên, huy động một phần đóng góp của đối 
tượng xả thải vào việc khôi phục môi trường. 
Các biện pháp này đã được thực hiện thông qua 
các loại thuế và phí. Theo đó các chính sách thu 
NSNN liên quan đến BVMT được chia làm 2 loại: 
(i) Thu nhằm hạn chế khai thác tài nguyên gây ô 
nhiễm môi trường và hạn chế sản xuất sản phẩm 
gây ô nhiễm khi sử dụng hoặc hạn chế tiêu dùng 
các sản phẩm gây ô nhiễm thông qua cơ chế thuế; 
(ii) Thu từ chủ thể xả chất thải gây ô nhiễm môi 
trường để bồi hoàn một phần chi phí khắc phục 
hậu quả môi trường do chất thải phát sinh trong 
quá trình sản xuất và sinh hoạt thải ra dưới hình 
thức các khoản phí, giá dịch vụ.
Việc quy định ưu đãi thuế đối với lĩnh vực môi 
trường nhằm khuyến khích DN áp dụng các biện 
pháp hạn chế tác động bất lợi do hoạt động sản 
xuất gây ra đối với môi trường; đồng thời thúc 
đẩy DN nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sạch vào 
sản xuất cũng như sử dụng nguyên liệu thay thế 
nguyên liệu hóa thạch để sản xuất các sản phẩm 
thân thiện với môi trường, thay thế các sản phẩm 
gây ô nhiễm môi trường. Các khoản thu phí BVMT 
và các quy định xử phạt vi phạm môi trường đã 
tạo thêm nguồn thu, góp một phần chi đầu tư giải 
quyết các vấn đề về môi trường, đồng thời góp 
phần thay đổi nhận thức và hành vi của tổ chức, cá 
nhân trong việc giữ gìn môi trường, nâng cao nhận 
thức về BVMT trong cộng đồng.
Thứ hai, chính sách thu nhằm khuyến khích sử 
dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. 
Cùng với các chính sách thuế và thu NSNN nhằm 
BVMT, chính sách thu NSNNcòn khuyến khích sử 
dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; khuyến khích 
sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng 
lượng từ việc tiêu hủy chất thải và bảo tồn năng 
lượng chủ yếu thông qua các ưu đãi về thuế, quy 
định chế tài xử phạt khi nhập khẩu các trang thiết 
bị, phương tiện sử dụng năng lượng có đặc tính kỹ 
thuật lạc hậu hoặc thuộc diện loại thải.
Thứ ba, chính sách thu nhằm giảm bớt các tác 
động bất lợi của thiên tai.
Nhóm các chính sách thu NSNN nhằm giảm bớt 
tác hại của thiên tai chủ yếu là các chính sách về 
miễn, giảm thuế hoặc thuộc đối tượng không chịu 
thuế đối với các tổ chức, DN và cá nhân khi gặp 
thiên tai. Các chính sách này thể hiện mức độ chia 
sẻ của Nhà nước đối với những thiệt hại khi các tổ 
chức, DN và cá nhân không may gặp phải. Chính 
sách thu NSNN hiện hành liên quan đến giảm nhẹ 
và khắc phục hậu quả thiên tai được quy định trong 
các văn bản pháp lý đối với từng loại thuế (như thuế 
thu nhập DN; thuế xuất nhập khẩu; thuế TTĐB, 
thuế sử dụng đất nông nghiệp).
Thứ tư, thực hiện chính sách chi NSNN cho 
BVMT, chống BĐKH và ứng phó với thiên tai. 
Hiện nay các chính sách chi NSNN liên quan đến 
BĐKH có thể được chia thành 2 nhóm là chi NSNN 
nhằm BVMT, chống BĐKH và chi NSNN nhằm 
giảm nhẹ và khắc phục hậu quả thiên tai. Trong đó, 
NSNNphải đảm bảo chi cho BVMT không thấp hơn 
1% tổng chi NSNN. Bên cạnh khoản chi NSNN cho 
BVMT còn có chi NSNN thực hiện hỗ trợ đầu tư bảo 
vệ và phát triển rừng, phát triển lâm nghiệp ứng 
dụng công nghệ cao, một số chương trình, dự án, đề 
án về BVMT như chương trình mục tiêu phát triển 
lâm nghiệp bền vững, chương trình mục tiêu xử lý 
triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm 
trọng thuộc đối tượng công ích, chương trình mục 
tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh 
Đối với chi NSNN cho giảm nhẹ và khắc phục 
hậu quả thiên tai, NSNN được cấp hàng năm cho 
58
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
nhiệm vụ quy hoạch, xây dựng, sửa chữa, nâng 
cấp, tu bổ đê điều và công trình phòng chống lụt 
bão; trang bị kỹ thuật cho dự báo, cảnh báo, chi 
phí cho công tác chỉ huy, chỉ đạo điều hành phòng 
chống lụt bão và các hoạt động phòng chống các 
loại thiên tai khác và các khoản NSNN cấp đột 
xuất trích từ nguồn kinh phí dự trữ quốc gia, dự 
trữ tài chính, nguồn dự phòngcho giảm thiểu 
và khắc phục hậu quả thiên tai. Ngoài ra, còn có 
chương trình mục tiêu tái cơ cấu kinh tế nông 
nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định 
đời sống dân cư,
Thứ năm, áp dụng chính sách tín dụng nhà nước 
nhằm khuyến khích BVMT, ứng phó với thiên tai.
Chính sách tín dụng liên quan tới BĐKH hiện 
nay ở nước ta chủ yếu tập trung vào các chính sách 
tín dụng nhằm khuyến khích BVMT (như các dự 
án sản xuất ứng dụng sáng chế BVMT được Nhà 
nước bảo hộ; Dự án đầu tư đổi mới công nghệ 
theo hướng sử dụng công nghệ sạch; Dự án đầu tư 
phương tiện xe buýt sử dụng nhiên liệu thân thiện 
với môi trường,) và chính sách tín dụng đối với 
trường hợp bị thiên tai, địch họa. Trong đó, chính 
sách tín dụng trong trường hợp bị thiên tai được 
quy định đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn từ 
ngân hàng chính sách xã hội bị rủi ro do nguyên 
nhân khách quan như thiên tai... làm thiệt hại trực 
tiếp đến vốn, tài sản sẽ được xem xét xử lý nợ thông 
qua các biện pháp gia hạn nợ, khoanh nợ, xóa nợ 
tùy từng trường hợp. 
Thứ sáu, thí điểm áp dụng bảo hiểm trong nông 
nghiệp và thực hiện hỗ trợ kinh phí mua bảo hiểm 
tai nạn thuyền viên, bảo hiểm thân tàu, trang thiết 
bị, ngư lưới cụ trên mỗi tàu.
Việt Nam đã có chính sách bảo hiểm nông nghiệp 
nhằm hỗ trợ cho người sản xuất nông nghiệp chủ 
động khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính do hậu 
quả của thiên tai, dịch bệnh gây ra. Trong đó, Nhà 
nước cũng hỗ trợ phí bảo hiểm cho một số đối tượng 
tham gia sản xuất nông nghiệp như: (i) Hộ nông 
dân, cá nhân nghèo; (ii) Hộ nông dân, cá nhân cận 
nghèo; (iii) Hộ nông dân, cá nhân không thuộc đối 
tượng nghèo và cận nghèo nhưng tham gia thí điểm 
bảo hiểm nông nghiệp; (iv) Và tổ chức sản xuất 
nông nghiệp. Hiện nay, NSNN đang hỗ trợ kinh phí 
mua bảo hiểm cho các tàu khai thác hải sản xa bờ, 
tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là thành 
viên tổ đội, hợp tác xã khai thác hải sản và có tổng 
công suất máy chính từ 90CV trở lên theo Nghị định 
67/2014/NĐ-CP.
Bên cạnh chính sách bảo hiểm trong lĩnh vực 
nông nghiệp, phát triển thủy sản nêu trên, hiện 
nay, ở nước ta còn có một số chính sách bảo hiểm 
liên quan gián tiếp tới vấn đề BĐKH như bảo 
hiểm tai nạn học sinh; bảo hiểm dân sự xe gắn 
máy; bảo hiểm nhân thọ Các đối tượng tham 
gia các loại bảo hiểm trên không may gặp tai nạn 
do thiên tai như đang đi trên xe khách gặp bão, 
lũ bị chết sẽ được bảo hiểm chi trả. Tuy nhiên, 
bảo hiểm thiên tai ở nước ta chưa có và đối tượng 
cũng như phạm vi thực hiện thí điểm bảo hiểm 
trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển thủy sản 
hiện nay còn bị giới hạn. 
Vấn đề đặt ra đối với chính sách tài khóa 
ứng phó với biến đổi khí hậu
Từ thực tế trên, có thể kể đến một số vấn đề đặt ra 
đối với chính sách tài khóa ứng phó với BĐKH gồm: 
Thứ nhất, mức độ ưu đãi nhằm khuyến khích 
đầu tư sản xuất sản phẩm thân thiện với môi 
trường, khuyến khích đầu tư vào các dự án làm 
sạch môi trường, khuyến khích sử dụng các sản 
phẩm, thiết bị thân thiện với môi trường, khuyến 
khích xã hội hóa trong các lĩnh vực BVMT hiện nay 
còn chưa cao. Các mức thuế suất và phí đánh vào 
hoạt động gây ô nhiễm môi trường cũng như các 
chế tài xử phạt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi 
trường mặc dù đã được sửa đổi nhưng chưa đủ 
mạnh, chưa quyết liệt nên tác động thay đổi hành 
vi đối với môi trường còn khoảng cách lớn so với 
yêu cầu đặt ra. Các loại phí có tính pháp lý thấp, 
mức thu thấp nên các loại phí BVMT hiện hành 
mới đạt mục tiêu huy động đóng góp một phần 
của những đối tượng xả thải vào môi trường mà 
chưa khuyến khích xử lý chất thải; hỗ trợ thêm chi 
phí làm sạch môi trường. Nguồn thu từ các loại phí 
này còn rất hạn chế.
Thứ hai, Luật Thuế BVMT hiện nay mới thu vào 
09 nhóm đối tượng trong khi có nhiều đối tượng 
gây ô nhiễm môi trường khác lại chưa được đưa vào 
(như máy tính, điện thoại, ắc quy, lốp xe, hóa chất 
tẩy rửa, sản xuất giấy, chế biến thực phẩm, phân 
bón hóa học,...).
Thứ ba, chưa có thuế hoặc phí đánh vào khí thải 
gây ô nhiễm môi trường. 
Thứ tư, hiện còn có sự trùng lắp về nội dung chi 
trong chi NSNN cho BVMT và chi từ Quỹ BVMT. 
Hoạt động của các Quỹ BVMT ở nhiều địa phương 
không hiệu quả do nguồn kinh phí hoạt động của 
Quỹ chủ yếu từ NSNN, nguồn huy động từ bên 
ngoài bị hạn chế. Đối với chi NSNN cho giảm nhẹ 
và khắc phục hậu quả thiên tai được lấy từ nhiều 
mục chi khác nhau như chi sự nghiệp kinh tế, chi 
dự phòng ngân sách, chi dự trữ tài chính, chi dự 
TÀI CHÍNH - Tháng 9/2017
59
trữ nhà nước, chi đảm bảo xã hội, chi chương trình 
mục tiêu nhưng chưa có một dòng ngân sách về 
chi NSNN cho phòng ngừa, ứng phó và khắc phục 
hậu quả thiên tai liên quan đến BĐKH. Hệ quả là 
việc thực hiện và phân biệt chi NSNN cho công tác 
phòng ngừa, ứng phó hay khắc phục hậu quả thiên 
tai trở nên khó khăn, kéo theo đó là khó khăn trong 
việc theo dõi chi NSNN cho giảm nhẹ và khắc phục 
hậu quả thiên tai trong các mục chi
Một số giải pháp đề xuất
Để góp phần thực hiện thành công Chiến lược, 
Kế hoạch quốc gia về BĐKH, cần tập trung thực 
hiện một số giải pháp sau:
Một là, rà soát, đánh giá lại hệ thống các chính 
sách tài khóa ứng phó với BĐKH hiện nay để lồng 
ghép các chính sách đảm bảo tính phù hợp, hiệu 
quả, tránh dàn trải. Việc rà soát chính sách cũng cần 
được thực hiện đồng thời gắn với việc cơ cấu lại các 
khoản thu, chi NSNN để xác định thứ tự ưu tiên. 
Hai là, sửa đổi, hoàn thiện Luật Thuế BVMT 
nhằm phát huy hiệu quả của Luật Thuế BVMT. 
Trong đó, cần mở rộng diện/đối tượng chịu thuế 
để bao quát hết các sản phẩm, hàng hóa khi sử 
dụng gây tác động xấu tới môi trường như sản 
phẩm phân bón hóa học, chất tẩy rửa, chất kích 
thích tăng trưởng Ngoài ra, hiện nay Việt Nam 
chưa có thuế hoặc phí đánh vào khí thải gây ô 
nhiễm môi trường. Vì vậy, cần nghiên cứu xây 
dựng chính sách thu đối với khí gây ô nhiễm môi 
trường. Theo đó, thuế các bon là một dạng khái 
quát hoá của thuế khí, đánh vào tất cả các hoạt 
động tạo ra các bon, bao gồm cả than đá và khí tự 
nhiên. Thuế các bon có thể giúp bảo vệ khí quyển, 
đồng thời ngăn chặn các hoạt động khai thác năng 
lượng độc hại và rủi ro nhất bằng cách hạn chế và 
giảm thiểu khả năng sinh lời của các hoạt động 
đó. Hiện nay, một số nước trên thế giới đã áp 
dụng thuế các bon và được kỳ vọng là một trong 
những giải pháp quan trọng để BVMT.
Ba là, nghiên cứu rà soát các chính sách chi, nội 
dung chi liên quan đến BĐKH nhằm cơ cấu lại 
NSNN. Trong đó, cần đảm bảo việc tăng tỷ lệ chi 
ngân sách cho BVMT trong tổng chi NSNN hàng 
năm, và cân nhắc, xem xét tăng tỷ lệ dự phòng ngân 
sách cho giảm nhẹ và khắc phục hậu quả thiên tai 
hoặc bổ sung mục chi cho phòng chống và khắc phục 
hậu quả thiên tai hoặc chi ứng phó với BĐKH trong 
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, 
đồng thời cho phép chuyển nguồn khoản chi này để 
tạo nguồn ngân sách thực hiện ứng phó với BĐKH.
Bốn là, nghiên cứu xây dựng chính sách bảo hiểm 
thiên tai nhằm tạo nguồn lực tài chính kịp thời cho 
việc ứng cứu đối với những thiệt hại do thiên tai gây 
ra. Bảo hiểm là yếu tố tạo nên sự thay đổi và mang 
lại một cơ chế quan trọng, qua đó các thị trường báo 
hiệu những biến đổi của rủi ro. Bằng cách định giá 
rủi ro, thị trường tạo ra động cơ cho các cá nhân, 
công ty và chính phủ thực hiện các biện pháp giảm 
thiểu rủi ro, bao gồm cả các biện pháp giảm nhẹ và 
thích ứng.
Năm là, mở rộng sự tham gia của khu vực tư 
nhân vào hoạt động ứng phó với BĐKH. Hiện 
nay, mặc dù Chiến lược quốc gia phòng chống 
và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 đã kêu gọi, 
khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài 
nước tham gia vào việc cung cấp tài chính cho sự 
nghiệp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai nhưng 
vẫn chưa có một cơ chế cụ thể kêu gọi sự chia sẻ và 
tham gia đầu tư của khu vực tư. Sự tham gia của 
khu vực tư hiện nay chủ yếu là khắc phục hậu quả 
và tái thiết hơn là chủ động phòng tránh thông qua 
các hoạt động nhân đạo và từ thiện đối với vùng bị 
thiệt hại sau thiên tai. Do đó, để khuyến khích sự 
tham gia của khu vực tư nhân đối với việc ứng phó 
với BĐKH, cần xây dựng các cơ chế, chính sách về 
thuế, chi tiêu ngân sách, chính sách tín dụng ưu đãi 
để khu vực tư tích cực tham gia vào hoạt động ứng 
phó với BĐKH.
Ngoài ra, cần nghiên cứu thành lập Quỹ Tự lực tài 
chính địa phương. Nguồn lực của quỹ này không chỉ 
có NSNN mà còn có cả các nguồn lực khác như đóng 
góp bắt buộc và tự nguyện của người dân, DN trên 
địa bàn. Việc hình thành quỹ này sẽ đảm bảo nguồn 
lực tài chính được tập trung và duy trì ở mức cần thiết 
và có tính ổn định cao hơn, đồng thời quỹ này có thể 
dùng những đóng góp của người không chịu rủi ro 
thiên tai để chi cho những người bị rủi ro. Tuy nhiên, 
cũng cần có một cơ chế quản lý và sử dụng quỹ một 
cách chặt chẽ, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả. 
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu Hội thảo “Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và Đông Á: Tác động tài khóa, 
thách thức chính sách và giải pháp ứng phó” do Viện Chiến lược và Chính 
sách Tài chính, Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ Tài chính) và Dự án Hỗ trợ phân tích 
chính sách tài chính phối hợp tổ chức tại Vĩnh Phúc, tháng 9/2010;
2. UNDP (2015), Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về quản lý rủi ro thiên tai và 
các hiện tượng cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Ngân sách cho ứng phó với biến đổi khí hậu 
ở Việt Nam: Đầu tư thông minh vì tương lai bền vững;
4. UNDP(2007), Báo cáo phát triển con người 2007/2008: Cuộc chiến 
chống biến đổi khí hậu;
5. Nguyễn Mạnh Hải (2015), Chính sách tài chính cho phát triển nền kinh tế 
xanh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_tai_khoa_ung_pho_voi_bien_doi_khi_hau_o_viet_nam.pdf