Chính sách tài khóa góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đã làm cho kinh

tế thế giới phục hồi chậm, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là hoạt động sản xuất, kinh

doanh của doanh nghiệp với chi phí đầu vào tăng cao, hàng hóa tiêu thụ chậm do sức mua thị trường

giảm. Trước tình hình trên, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều giải pháp

đồng bộ về thuế, chi tiêu ngân sách, chính sách tín dụng nhà nước nhằm đẩy mạnh các chương

trình xúc tiến thương mại, thúc đẩy phát triển thị trường, cải cách thủ tục hành chính qua đó, góp

phần tích cực tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

pdf 5 trang phuongnguyen 320
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách tài khóa góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tài khóa góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển

Chính sách tài khóa góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
6GIẢM GÁNH NẶNG CHI PHÍ, HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN
hiện chính sách thu NSNN theo hướng giảm tỷ lệ 
động viên vào NSNN đối với DN thông qua việc giảm 
thuế và các khoản thu NSNN như giảm suất thuế thu 
nhập DN (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT), tiền 
thuê đất; tăng cường các ưu đãi thuế thông qua việc 
miễn thuế TNDN, thuế GTGT, thuế môn bài, thuế xuất 
nhập khẩu và tiền thuê đất; thực hiện gia hạn nộp thuế 
và các khoản thu NSNN nhằm tháo gỡ khó khăn 
tạo điều kiện để DN có thêm nguồn vốn phục vụ hoạt 
động sản xuất kinh doanh. Cụ thể:
Thứ nhất, giảm tỷ lệ động viên vào NSNN đối 
với DN.
Các chính sách miễn, giảm thuế được Quốc hội 
và Chính phủ ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn cho 
sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường trong thời 
gian qua bao gồm: (i) Giảm thuế suất thuế TNDN 
phổ thông từ 22% năm 2014 xuống còn 20% năm 
2016, thuế suất thuế TNDN ưu đãi (áp dụng đối 
với DNNVV, tổ chức kinh tế vi mô) từ mức 20% 
năm 2014 xuống còn 17% năm 2016; Giảm 30% số 
thuế TNDN phải nộp trong năm 2011, 2012 đối với 
DN nhỏ và vừa (DNNVV) và DN sử dụng nhiều 
lao động; (ii) Bổ sung các trường hợp được áp dụng 
thuế suất ưu đãi như áp dụng thuế suất thuế TNDN 
10% trong thời hạn 15 năm (Nghị định 12/2015/
NĐ-CP); (iii) Bổ sung danh mục nhóm hàng với 
mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi riêng đối với 
nguyên vật liệu, linh kiện, bộ phận phụ trợ để sản 
xuất các sản phẩm công nghệ miễn thuế nhập khẩu 
phụ tùng, linh kiện để sản xuất, lắp ráp phương tiện 
vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, trang 
thiết bị y tế; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa 
nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho DN lĩnh vực 
Chính sách tài khóa 
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp 
Từ năm 2011 đến nay, Quốc hội và Chính phủ đã 
ban hành nhiều nghị quyết, quyết định về chính sách 
thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN), tín dụng để 
tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp (DN) phát 
triển một cách đồng bộ:
Về chính sách thu ngân sách nhà nước
Trong giai đoạn 2011-2017, Việt Nam tiếp tục thực 
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA GÓP PHẦN 
THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN
TS. NGUYỄN VIẾT LỢI - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính *
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đã làm cho kinh 
tế thế giới phục hồi chậm, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là hoạt động sản xuất, kinh 
doanh của doanh nghiệp với chi phí đầu vào tăng cao, hàng hóa tiêu thụ chậm do sức mua thị trường 
giảm... Trước tình hình trên, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều giải pháp 
đồng bộ về thuế, chi tiêu ngân sách, chính sách tín dụng nhà nước nhằm đẩy mạnh các chương 
trình xúc tiến thương mại, thúc đẩy phát triển thị trường, cải cách thủ tục hành chính qua đó, góp 
phần tích cực tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Từ khóa: Doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh, ngân sách, chính sách tài khóa, tài chính doanh nghiệp, chính sách thuế
The impacts of the financial crisis and global 
economic recession since 2008 were the causes 
of slow and sluggish world economic recovery, 
local economic difficulties, high costs of business 
operation inputs and delays in sales due to the 
reduced purchasing power. To deal with such 
problem, the Parliament and the State have 
timely released and applied several consistent 
solutions in terms of taxes, budget spendings 
and state credit policy to boost the commercial 
promotion campaigns, market development and 
administrative procedure reform, thereby, to 
address difficulties for business and production.
Keywords: Enterprises, business production, state budget, 
fiscal policy, corporate finance, tax policy
Ngày nhận bài: 4/10/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 24/10/2017
Ngày duyệt đăng: 25/10/2017
*Email: nguyenvietloi@mof.gov.vn
TÀI CHÍNH - Tháng 11/2017
7
công nghiệp phụ trợ; (iv) Giảm các khoản thu nộp 
khác của DN như giảm mức phạt chậm nộp thuế 
cho DN từ 0,05%/ngày xuống 0,03%/ngày
Thứ hai, tháo gỡ khó khăn về vốn cho DN tạo 
dòng vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất 
kinh doanh.
Các chính sách gia hạn thời hạn nộp thuế và thu 
ngân sách được triển khai áp dụng trong giai đoạn 
2011-2014 như: gia hạn nộp thuế TNDN 1 năm, 
9 tháng, 6 tháng đối với DNNVV, DN sử dụng 
nhiều lao động lần lượt trong các năm 2011, 2012, 
2013; Gia hạn 6 tháng thời hạn nộp thuế GTGT 
của các tháng 4, 5, 6/2012 và tháng 1,2,3/2013 đối 
với DNNVV, DN sử dụng nhiều lao động thực 
hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ 
(Nghị quyết 13/NQ-CP ngày 10/5/2012), DN đầu 
tư – kinh doanh nhà ở, DN sản xuất các mặt hàng 
sắt, thép, xi măng, gạch, ngói(Nghị quyết số 02/
NQ-CP ngày 07/01/2013); Gia hạn tối đa 12 tháng 
thời hạn nộp tiền sử dụng đất đối với các chủ đầu 
tư dự án có khó khăn về tài chính (Nghị quyết số 
13/NQ-CP ngày 10/5/2012); các chủ đầu tư dự án 
được Nhà nước giao đất nhưng gặp khó khăn về 
tài chính được nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ 
thanh toán tiền bán hàng trong thời hạn 24 tháng 
kể từ ngày phải nộp tiền sử dụng đất (Nghị quyết 
02/NQ-CP ngày 7/11/2013)... 
Bên cạnh việc gia hạn thời hạn nộp thuế và thu 
NSNN, việc bổ sung một số mặt hàng không chịu 
thuế cũng đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tháo 
gỡ khó khăn về vốn cho DN, như bổ sung mặt hàng 
phân bón, thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản, 
tàu đánh bắt xa bờ, máy móc thiết bị thuộc không 
chịu thuế GTGT 
Thứ ba, hỗ trợ DN về mặt bằng sản xuất thông 
qua các chính sách miễn, giảm tiền thuê đất.
Cụ thể, giảm 50% tiền thuê đất phải nộp của năm 
2011 và 2012 cho các tổ chức kinh tế đang hoạt động 
trong các ngành sản xuất; giảm 50% tiền thuê đất 
phải nộp của năm 2012 đối với một số tổ chức kinh 
tế cho DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, 
dịch vụ; giảm 50% tiền thuê đất năm 2013, năm 2014 
đối với các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân 
được nhà nước cho thuê đất. Ngoài ra, DNNVV sản 
xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục 
sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển còn 
được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo 
quy định của pháp luật về đất đai.
Thứ tư, hỗ trợ DN thông qua đẩy mạnh tổng cầu 
nền kinh tế. 
Để kích cầu tiêu dùng trong nước, Luật Thuế 
TNCN số 26/2012/QH13 đã điều chỉnh nâng mức 
giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế từ 
mức 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng; mức 
giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/
tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng. Miễn giảm thuế thu 
nhập cá nhân đối với một số trường hợp: miễn thuế 
đối với thu nhập của cá nhân là chủ tàu, cá nhân có 
quyền sử dụng tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, 
dịch vụ trực tiếp phục vụ khai thác, đánh bắt thủy 
sản xa bờ và thu nhập của thuyền viên làm việc trên 
tàu; Giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân phải nộp 
đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá 
nhân nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh 
vực CNTT; dịch vụ công nghệ cao
Thứ năm, rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính 
quy trình nghiệp vụ, nhằm tạo thuận lợi cho DN. 
Các biện pháp cải cách thủ tục hành chính trong 
ngành thuế, hải quan bao gồm: (i) Bãi bỏ một số 
thủ tục hành chính rườm rà (năm 2016 đã bãi bỏ 
92 thủ tục hành chính); (ii) Giảm số lần kê khai và 
nộp thuế GTGT từ 12 lần xuống còn 4 lần trên năm, 
thuế TNDN từ 5 lần/năm xuống còn 1 lần/năm đối 
với người nộp thuế có tổng doanh thu của hàng 
hóa, dịch vụ của năm liền trước từ 50 triệu đồng trở 
xuống; (iii) Tiếp tục mở rộng hệ thống khai thuế qua 
mạng (tính đến 30/11/2016 đã thực hiện khai thuế 
qua mạng Internet đối với 99,7% số DN đang thuộc 
diện quản lý thuế); Triển khai dịch vụ nộp thuế điện 
tử tại 63/63 tỉnh, thành phố, số lượng DN đã đăng 
ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế đạt 
tỷ lệ 96,7%; (iv) Triển khai Cơ chế một cửa quốc gia 
và Cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2016 – 2020; 
(v) Áp dụng thủ tục hải quan điện tử đối với hàng 
hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại (VNACCS/
VCIS) tại tất cả các đơn vị hải quan, đảm bảo chất 
lượng, không làm gián đoạn quá trình làm thủ tục 
hải quan của DN.
Về chính sách chi ngân sách nhà nước
Trong giai đoạn 2011-2016, Chính phủ đã ban 
hành nhiều chính sách về hỗ trợ từ NSNN cho phát 
triển DN, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ 
trong việc hỗ trợ DN nâng cao năng lực sản xuất 
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy 
phát triển DN trong giai đoạn mới, cụ thể:
Thứ nhất, chính sách trợ giúp phát triển DNNVV 
tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 với 8 
nhóm giải pháp hỗ trợ DN trên các phương diện: 
Trợ giúp tài chính; Mặt bằng sản xuất; Đổi mới, 
nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; 
Xúc tiến mở rộng thị trường; Tham gia kế hoạch 
mua sắm, cung ứng dịch vụ công; Thông tin và tư 
vấn; Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực; Vườn ươm 
8GIẢM GÁNH NẶNG CHI PHÍ, HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN
DN. Trong đó: (i) NSNN trợ giúp tài chính trong 
việc thành lập Quỹ phát triển DN nhỏ và vừa; (ii) 
Hỗ trợ đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình 
độ kỹ thuật thông qua Chương trình hỗ trợ nghiên 
cứu, phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm 
mới, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa 
học kỹ thuật vào sản xuất; dành một phần kinh phí 
từ Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia 
cho DNNVV; (iii) Bố trí kinh phí thực hiện xúc tiến 
mở rộng thị trường; (iv) Trong mua sắm, cung ứng 
dịch vụ công, nhà nước dành tỷ lệ nhất định cho các 
DNNVV thực hiện các hợp đồng hoặc đơn đặt hàng 
để cung cấp một số hàng hóa, dịch vụ công 
Thứ hai, các chính sách hỗ trợ phát triển ngành, 
lĩnh vực: Để đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh 
vực nông nghiệp, phát triển mạnh mẽ các loại 
hình DN nông nghiệp, Chính phủ khuyến khích 
các DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thông 
qua hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề; chi phí quảng 
cáo khi tham gia triển lãm, xúc tiến thương mại; 
nghiên cứu tạo công nghệ mới; hỗ trợ đầu tư cơ 
sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung công nghiệp; 
đầu tư cơ sở chăn nuôi gia súc; trồng cây dược 
liệu, cây mắc ca; nuôi trồng hải sản... Ngoài ra, 
trong giai đoạn 2011-2013, Chính phủ còn thực 
hiện chính sách hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp, 
chính sách thí điểm bảo hiểm xuất khẩu. Bên cạnh 
đó, Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ 
trợ cho DN khai thác thủy sản như là: Hỗ trợ chi 
phí vận chuyển hàng hóa từ đất liền ra tàu khai 
thác hải sản xa bờ và vận chuyển sản phẩm hải 
sản khai thác xa bờ về đất liền cho các tàu dịch 
vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ với mức hỗ trợ 
40 triệu đồng/chuyến biển hoặc từ 60 triệu đồng/
chuyến biển tùy theo công suất máy của tầu chính 
và hỗ trợ tối đa 10 chuyến biển/năm
Thứ ba, chính sách hỗ trợ phát triển DN, hợp tác 
xã, trang trại; chính sách phát triển DN hoạt động 
ở các vùng địa bàn nghèo, khó khăn: Chính phủ có 
chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư đối với các 
DN trên những địa bàn khuyến khích phát triển sản 
xuất. Ví dụ như, NSNN hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 
năm đầu, từ năm thứ 3 là 50% lãi suất vốn vay đối 
với các khoản vay dài hạn, trung hạn bằng đồng 
Việt Nam cho các DN (ký và thực hiện hợp đồng 
tiêu thụ nông sản và dịch vụ cơ giới hóa sản xuất 
nông nghiệp với nông dân) vay vốn mua máy móc 
thiết bị sản xuất trong nước nhằm giảm tổn thất sau 
thu hoạch trong giai đoạn 2011-2015. Nghị định số 
108/2006/NĐ-CP và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP 
về hướng dẫn Luật Đầu tư đã quy định về ưu đãi 
đầu tư, hỗ trợ đầu tư như hỗ trợ chuyển giao công 
nghệ, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ đầu tư phát triển và dịch 
vụ đầu tư... Bên cạnh đó, cũng có hỗ trợ đầu tư từ 
NSNN đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu 
công nghệ cao, khu kinh tế với những chính sách về 
cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật...
Thứ tư, hỗ trợ DN sản xuất các sản phẩm công 
nghiệp hỗ trợ: Chính sách hỗ trợ, chính sách ưu đãi 
được thực hiện đối với các DN phát triển sản xuất các 
sản phẩm công nghiệp hỗ trợ: Hỗ trợ trong nghiên 
cứu và phát triển, trong đó các dự án xây dựng cơ 
sở nghiên cứu và phát triển sản xuất sản phẩm công 
nghiệp hỗ trợ được Nhà nước giao cho thuê đất và 
được hưởng các ưu đãi sử dụng đất; được xem xét hỗ 
trợ tối đa 50% kinh phí đầu tư trang thiết bị nghiên 
cứu từ Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ; 
Ứng dụng và chuyển giao Nhà nước hỗ trợ tối đa đến 
75% chi phí chuyển giao công nghệ đối với dự án sản 
xuất vật liệu có sử dụng trên 85% nguyên liệu là sản 
phẩm của quá trình chế biến sâu khoáng sản trong 
nước bao gồm quặng kim loại, quặng phi kim loại 
và sản phẩm hóa dầu để phục vụ sản xuất sản phẩm 
công nghiệp hỗ trợ; Hỗ trợ phát triển nguồn nhân 
lực, xúc tiến thị trường. 
Thứ năm, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà 
nước được thực hiện thông qua hoạt động cho vay 
của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) và các 
Quỹ Đầu tư phát triển địa phương. Chính sách tín 
dụng đầu tư qua VDB được thực hiện theo quy định 
tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về 
tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước 
với đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư đã được thu 
hẹp lại so với quy định trước đó tại Nghị định số 
151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 và Nghị định số 
106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008
Bên cạnh các chính sách trên, NSNN còn dành 
nguồn lực cho các chương trình xúc tiến thương mại 
giúp DN giới thiệu, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị 
trường trong nước và nước ngoài. Mức hỗ trợ kinh 
phí đối với: (i) Chương trình Xúc tiến thương mại 
(XTTM) định hướng xuất khẩu là 70% đối với các 
khoản chi chi hỗ trợ thông tin thương mại, nghiên 
Trong 9 tháng đầu năm 2017, cả nước có thêm 
93.967 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 
902.682 tỷ đồng, tăng 15,4% về số DN và tăng 
43,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 
2016. So sánh giữa 9 tháng đầu năm 2017 và 
9 tháng đầu năm 2013, số lượng DN thành lập 
mới tăng 1,6 lần, số vốn đăng ký tăng hơn 3 lần, 
tỷ trọng vốn đăng ký bình quân/DN tăng 2 lần.
TÀI CHÍNH - Tháng 11/2017
9
cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường 
xuất khẩu trọng điểm theo ngành hàng, chi hỗ trợ 
tuyên truyền xuất khẩu; (ii) Hỗ trợ 50% các khoản 
chi phí như thuê mặt bằng và thiết kế, dàn dựng 
gian hàng, dịch vụ phục vụ như điện nước, vệ sinh, 
an ninh, bảo vệ đối với các chương trình hội chợ, 
triển lãm tại các địa phương; (iii) Hỗ trợ 100% các 
khoản chi phí đối với các chương trình XTTM miền 
núi, biên giới và hải đảo về chi phí vận chuyển; chi 
phí thuê mặt bằng, dàn dựng gian hàng, điện nước, 
an ninh, vệ sinh Chương trình phát triển thương 
mại điện tử miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo 
giai đoạn 2015-2020.
Kết quả đạt được
Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp của chính 
sách tài khóa thông qua công cụ chính sách thuế, chi 
ngân sách, tín dụng nhà nước kết hợp với thực 
hiện cải cách thủ tục hành chính đã góp phần cải 
thiện tình hình tài chính DN. 
Thứ nhất, kết quả đăng ký thành lập DN ngày càng 
tăng: Trong 9 tháng đầu năm 2017, cả nước có thêm 
93.967 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 
902.682 tỷ đồng, tăng 15,4% về số DN và tăng 43,5% 
về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Tỷ 
trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN trong 9 
tháng đầu năm 2017 đạt 9,6 tỷ đồng, tăng 24,4% so 
với cùng kỳ năm trước.
Số lượng DN thành lập mới và số vốn đăng ký 
trong 9 tháng đầu năm giai đoạn 2013-2017 có xu 
hướng tăng thể hiện môi trường kinh doanh ngày 
càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho việc gia nhập 
và thành lập DN, trong đó không thể không kể tới 
vai trò của hệ thống chính sách tài khóa trong phát 
triển DN những năm qua. So sánh giữa 9 tháng 
đầu năm 2017 và 9 tháng đầu năm 2013, số lượng 
DN thành lập mới tăng 1,6 lần, số vốn đăng ký 
tăng hơn 3 lần, tỷ trọng vốn đăng ký bình quân/
DN tăng 2 lần.
Thứ hai, tình hình kinh doanh của DN được cải thiện: 
Tổng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của các DN 
niêm yết tăng hơn so với cùng kỳ năm trước trong 
đó tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng doanh 
thu. Trong ngành công nghiệp, doanh thu và lợi 
nhuận của ngành công nghiệp nói chung có xu 
hướng tăng lên và tốc độ tăng của lợi nhuận lớn 
hơn tốc độ tăng của doanh thu. Tốc độ tăng doanh 
thu và lợi nhuận bình quân của quý I/2017 so với 
cùng kỳ năm trước lần lượt là 14,5% và 45,56% (tăng 
gấp 3 lần tốc độ tăng của doanh thu). Trong những 
tháng đầu năm 2017, ngành xây dựng tăng trưởng 
khá tốt với tốc độ 8,50%, đóng góp 0,45 điểm phần 
trăm vào mức tăng trưởng chung. 
Thứ ba, tăng bậc xếp hạng môi trường kinh doanh: 
Cùng với sự cải thiện về cơ sở hạ tầng, trình độ 
công nghệ, thể chế tài chính cũng được cải thiện, 
đặc biệt thông qua những chính sách tài khóa của 
Chính phủ ban hành kịp thời nhằm tháo gỡ khó 
khăn, thúc đẩy DN phát triển. Theo đó, Việt Nam 
được đánh giá đứng thứ 60/138 quốc gia về năng 
lực cạnh tranh toàn cầu 2016-2017. Theo đánh giá 
của Ngân hàng Thế giới năm 2017, môi trường 
kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc (từ 82/189 
lên 68/190 của bảng xếp hạng). Đây là mức tăng 
bậc nhiều nhất mà Việt Nam đạt được trong thập 
niên qua. Nhờ đó, Việt Nam vượt khá nhiều nước 
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chỉ số 
nộp thuế và bảo hiểm xã hội tăng điểm và tăng 
hạng nhiều nhất (tương ứng tăng 14,78 điểm và 81 
bậc), đạt vị trí 86/190 (năm 2016 ở vị trí 167). Chỉ số 
này được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam 
trong cải thiện thủ tục nộp thuế và ứng dụng công 
nghệ thông tin, áp dụng giao dịch điện tử.
Những thách thức, vướng mắc đặt ra
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng 
hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, DN 
Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức. 
Cùng với quá trình hội nhập, Cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi kinh tế thế giới với sự 
vươn lên mạnh mẽ của các nước chủ yếu dựa vào 
công nghệ hiện đại, đổi mới và sáng tạo; còn các 
nước chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên sẽ dần 
bị tụt hậu. Vì vậy, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong 
việc ban hành các chính sách tháo gỡ khó khăn, hỗ 
trợ và phát triển DN, tuy nhiên các chính sách vẫn 
còn hạn chế:
Về chính sách thuế: Một số chính sách thuế vẫn 
chưa thực sự góp phần tháo gỡ khó khăn cho DN. 
Ví dụ, phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng 
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt 
HÌNH 1. TÌNH HÌNH ĐĂNG KÝ, THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP 
(THÁNG 9/2013 ĐẾN THÁNG 9/2017)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
10
GIẢM GÁNH NẶNG CHI PHÍ, HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN
xa bờ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT đã 
khiến các DN gặp khó khăn do không được kê 
khai, khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào mà 
phải tính vào chi phí sản phẩm, khiến giá thành 
tăng và lợi nhuận giảm, bất lợi trong cạnh tranh 
với hàng hóa nhập khẩu cùng loại. Hoặc đối với 
quy định về cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo 
phương pháp khấu trừ thuế nếu có số thuế GTGT 
đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc 
trong quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo. Thực 
tế vẫn còn một một số trường hợp số thuế GTGT 
đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra và qua nhiều 
kỳ vẫn chưa được khấu trừ hết, nhất là đối với DN 
sản xuất cung ứng dịch vụ chịu thuế 5% mà đầu 
vào chủ yếu chịu thuế 10%, nếu không hoàn thuế 
GTGT thì số thuế GTGT đầu vào của DN phải tính 
vào chi phí nên sẽ gây khó khăn cho DN do phải 
ứng vốn để nộp thuế và không thực sự khuyến 
khích DN sản xuất.
Bên cạnh đó, chưa triển khai đồng bộ việc nộp lệ 
phí trước bạ, nhà đất theo phương thức điện tử, nhóm 
thủ tục hành chính liên quan đến lý lịch tư pháp và 
yêu cầu nộp bản sao giấy tờ có công chứng, chứng 
thực chưa nhiều lựa chọn cho người nộp thuế
Về chính sách chi: Các chính sách hỗ trợ cho DN 
mang tính khuyến khích chung, chưa cụ thể dẫn 
đến những khó khăn trong việc triển khai thực 
hiện, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tài chính, mặt 
bằng sản xuất, mua sắm công, ươm tạo DN... Ví 
dụ như Nghị định số 56/2009/NĐ-CP quy định kế 
hoạch và chương trình trợ giúp phát triển DNNVV, 
song lại không quy định nguồn kinh phí hỗ trợ 
thực hiện, chưa tạo ra cơ chế hình thành nguồn 
kinh phí dành riêng hỗ trợ DNNVV mà chủ yếu 
lồng ghép vào các chương trình, chính sách hiện 
hành theo ngành, lĩnh vực. Đối với chính sách chi 
NSNN cho các chương trình xúc tiến thương mại 
tuy đã có những ưu điểm nhất định nhưng còn 
dàn trải, chưa tập trung, nguồn lực hạn chế, liên 
kết giữa khâu sản xuất và đầu ra còn yếu kém dẫn 
đến việc chi hỗ trợ từ NSNN còn chưa hiệu quả 
và chưa đạt được mục tiêu của chương trình. Đối 
với các chính sách chi cho thí điểm bảo hiểm xuất 
khẩu vẫn chưa đạt được những mục tiêu đặt ra, 
việc triển khai thí điểm gặp khó khăn vì các DN 
xuất khẩu còn chưa mua mua bảo hiểm ngay cả khi 
có sự hỗ trợ của Nhà nước
Gợi ý giải pháp 
trợ giúp doanh nghiệp giai đoạn 2018-2020
Để tiếp tục tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DN đủ năng 
lực để cạnh tranh khi nền kinh tế hội nhập sâu và 
rộng vào nền kinh tế thế giới, trong thời gian tới cần 
tập trung vào một số nhóm giải pháp sau
Thứ nhất, triển khai thực hiện tốt các luật về 
thuế đã được Quốc hội thông qua như: Luật sửa 
đổi bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, 
TNDN, quản lý thuế nhằm giúp DN thực hiện 
chính sách một cách hiệu quả; Tiếp tục rà soát, 
hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và thu ngân 
sách theo hướng tháo gỡ khó khăn cho DN. Trong 
đó, đề xuất chuyển các đối tượng đang không chịu 
thuế GTGT như: phân bón, tàu đánh bắt xa bờ và 
một số loại máy móc, thiết bị chuyên dùng phục 
vụ cho sản xuất nông nghiệp sang đối tượng chịu 
thuế GTGT để DN được khấu trừ chi phí đầu vào. 
Bổ sung quy định DN sản xuất hàng hóa, cung 
ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế GTGT 5% nếu có 
số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết 
sau 12 tháng hoặc 4 quý thì được hoàn thuế GTGT 
để DN tích tụ vốn đưa vào sản xuất; Nghiên cứu 
ban hành chính sách thuế hỗ trợ phát triển nông 
nghiệp sạch, khởi nghiệp sáng tạo; Rà soát hoàn 
thiện các tiêu chí ưu đãi thuế hiện hành đảm bảo 
tính rõ ràng, minh bạch qua đó tạo thuận lợi cho 
DN đủ điều kiện có được các ưu đãi cần thiết. 
Ngoài ra, cần tăng cường công tác tuyên truyền 
hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách, tạo 
sự minh bạch, rõ ràng và thực hiện giải đáp thắc 
mắc của DN. 
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành 
chính, xây dựng Chính phủ điện tử. Đối với lĩnh 
vực thuế, hải quan cần: đẩy mạnh cải cách thủ tục 
hành chính thuế; ban hành chế độ quản lý rủi ro đối 
với các DN thuộc đối thượng thanh tra/kiểm tra về 
thuế; tiếp tục sửa đổi quy định về hồ sơ hoàn thuế, 
phần mềm hỗ trợ công tác tự động xây dựng báo 
cáo hồ sơ hoàn thuế; triển khai đồng bộ, rộng khắp 
ứng dụng CNTT; Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để 
đảm bảo việc triển khai đầy đủ hệ thống thông quan 
điện tử VNACCS/VCIS
Thứ ba, rà soát, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát 
triển DN để đảm bảo việc hỗ trợ có trọng tâm, trọng 
điểm, đúng mục tiêu, đúng đối tượng cần hỗ trợ. 
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Viết Lợi, (2016), “Chính sách tài chính và vấn đề tháo gỡ khó khăn 
cho DN”, Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 6/2016;
2. Phạm Thị Tường Vân, (2017), “Kết quả tháo gỡ khó khăn cho DN năm 2016 
và những dự định năm 2017”, Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia số 176;
3. Sách “Tài chính Việt Nam 2016- Tăng cường kỷ cương, kiến tạo động lực”, 
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2017), NXB Tài chính;
4. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Diễn đàn DN phát triển bền 
vững Việt Nam lần thứ 4.

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_tai_khoa_gop_phan_thuc_day_doanh_nghiep_phat_trie.pdf