Chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp: kinh nghiệm quốc tế và bài học với Việt Nam

Chính sách khởi nghiệp là một trong những vấn đề nổi lên hiện nay trong chính sách phát triển kinh

tế ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia đã tăng cường sức mạnh kinh tế với việc xây

dựng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm phát huy tiềm năng giúp các doanh

nghiệp này đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Trong các chính sách

thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, chính sách tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp luôn

có ý nghĩa quan trọng và quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm của một

số nước sẽ gợi mở cho Việt Nam về những chính sách tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

pdf 5 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp: kinh nghiệm quốc tế và bài học với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp: kinh nghiệm quốc tế và bài học với Việt Nam

Chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp: kinh nghiệm quốc tế và bài học với Việt Nam
86 
làm của các DN nhỏ. Sự chú trọng vào chính sách 
khởi nghiệp do đó cũng tăng lên thông qua các 
nghiên cứu về vai trò của các DN mới thành lập 
trong việc đổi mới và xây dựng một nền kinh tế 
năng động. Các DN mới thành lập và một số nhỏ 
các DN đang phát triển nhanh chóng góp phần 
tạo ra một tỷ lệ đáng kể các công việc mới. Chính 
những kết quả nghiên cứu này đã kéo theo các 
chính sách định hướng hỗ trợ khởi nghiệp được 
chú trọng trong vài thập kỷ gần đây ở hầu hết các 
quốc gia, trong đó có Việt Nam. 
Từ Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta đã dành 
sự quan tâm đến sự phát triển kinh tế tư nhân, 
đồng thời có nhiều chủ trương và ban hành nhiều 
chính sách để phát triển lĩnh vực này, nhất là các 
DN nhỏ và vừa (DNNVV). Thực hiện chủ trương 
của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính 
sách cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều 
kiện thuận lợi phát triển DNNVV. Mặc dù có nhiều 
chính sách được ban hành, song các cơ chế, chính 
sách hỗ trợ khu vực DNNVV, DN khởi nghiệp vẫn 
còn mang tính chung chung, các chính sách tài 
chính còn lồng ghép, chưa cụ thể, còn thiếu tính 
đồng bộ và hệ thống, vẫn còn tồn tại sự xung đột. 
Do đó, các DN và các doanh nhân khởi nghiệp vẫn 
chưa tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ của 
Nhà nước một cách rộng rãi. 
Để các chính sách được triển khai hiệu quả, 
việc nghiên cứu kinh nghiệm, khái quát các chính 
sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp mà các quốc 
gia trên thế giới là rất cần thiết, nhằm rút ra một 
số bài học kinh nghiệm về hoạch định các chính 
sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp ở Việt Nam, 
Các quốc gia bắt đầu quan tâm đến doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp kể từ sau nghiên cứu đột phá của Birch (1979). Birch phát 
hiện ra rằng, hơn 80% việc làm mới được tạo ra ở 
các DN nhỏ hơn là các công ty lớn của Mỹ và thực 
tế, các DN nhỏ chính là động lực tăng trưởng của 
nền kinh tế Mỹ. 
Nhiều nghiên cứu được thực hiện tại các quốc 
gia khác cũng chứng minh vai trò tạo ra nhiều việc 
CHíNH sáCH TàI CHíNH Hỗ Trợ KHởI NGHIệP:
KINH NGHIệM QuốC TẾ Và BàI HọC VớI VIệT NAM
PGs.,Ts. PHạM HỮu HồNG THáI, Ths. Hồ THị lAM - Đại học Tài chính Marketing *
Chính sách khởi nghiệp là một trong những vấn đề nổi lên hiện nay trong chính sách phát triển kinh 
tế ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia đã tăng cường sức mạnh kinh tế với việc xây 
dựng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm phát huy tiềm năng giúp các doanh 
nghiệp này đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Trong các chính sách 
thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, chính sách tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp luôn 
có ý nghĩa quan trọng và quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm của một 
số nước sẽ gợi mở cho Việt Nam về những chính sách tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Từ khóa: Chính phủ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khởi nghiệp, chính sách, doanh nghiệp, công nghệ mới nổi, quỹ đầu tư sáng tạo
Startup policy is one of the most concerns in 
economic development policy of the countries. 
It is undeniable that many countries enhance 
their economic power by evidence of high 
level of business startups and by making 
positive support policies for these enterprises 
to help them promote maximum potential 
and to contribute greatly to the economic 
development. Among the support policies for 
business startups, financial policy is one of 
the most important content. By evaluating 
international experience in financial policy 
for business startups, the author attempts to 
recommends solutions to Vietnam.
Keywords: The Government, SMEs, startups, policy, enterprises, 
emerging technology, creative investment foundation
Ngày nhận bài: 15/3/2018
Ngày hoàn thiện biên tập: 30/3/2018 
Ngày duyệt đăng: 6/4/2018
*Email: phh.thai@ufm.edu.vn
kinh tẾ qUỐC tẾ
TÀI CHÍNH - Tháng 4/2018
87
hướng đến mục tiêu “quốc gia khởi nghiệp” 
trong tương lai gần.
Chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp 
ở một số quốc gia trên thế giới
Nghiên cứu về kinh nghiệm áp dụng các chính 
sách tài chính cho thấy, hầu hết các quốc gia đang 
tích cực tham gia vào một loạt các biện pháp để giải 
quyết nhu cầu tài chính cho DNNVV (Bảng 1). Các 
biện pháp này bao gồm: Thành lập các ngân hàng 
thương mại nhỏ và phát triển các chương trình bảo 
lãnh cho vay DN nhỏ của chính phủ, các quỹ cho 
vay vi mô, các quỹ cho vay tăng trưởng, chương 
trình vốn đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D), 
quỹ đầu tư mạo hiểm, mạng lưới và cơ sở dữ liệu 
các nhà đầu tư thiên thần, tín dụng thuế đầu tư, 
trợ cấp cho người thất nghiệp và các chương trình 
thông tin tài chính. Cụ thể kinh nghiệm tại các 
nước, vùng lãnh thổ:
Australia
Australia là quốc gia chú trọng khởi nghiệp 
khá sớm. Chính phủ nước này đã áp dụng nhiều 
biện pháp, chính sách khác nhau nhằm hỗ trợ khởi 
nghiệp từ những năm cuối thế kỷ XX, bao gồm: 
Chính sách pháp lý, chính sách tài chính, chính sách 
giáo dục và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp... 
Xây dựng một hệ thống thuế mới: Chính phủ 
Australia đã cho phép thành lập Ủy ban Tư vấn DN 
nhỏ để cố vấn cho Chính phủ về các vấn đề thuế. 
Thuế suất thuế DN đã giảm từ 36% xuống còn 34% 
trong năm thuế 2000-2001 và sau đó là 30% lợi tức 
vốn được miễn thuế 75%. Các sửa đổi liên quan đến 
giảm thuế R&D cũng được nước này áp dụng. 
Chính sách hỗ trợ tiếp cận tài chính và vốn hạt giống: 
Chính phủ Australia cung cấp một số chương trình 
trợ giúp tài chính trực tiếp cho các DN mới, bao 
gồm: Giảm thuế khởi nghiệp R&D; Chương trình 
Đầu tư Đổi mới và một loạt các chương trình theo 
ngành. Ví dụ như Chương trình Văn hoá DN nhỏ, 
Chương trình vườn ươm DN nhỏ và Quỹ DN nhỏ 
Bản địa, Chương trình vốn đầu tư mạo hiểm... 
Nhờ những chính sách tích cực hỗ trợ khởi 
nghiệp, các DN nhỏ đã chiếm 97% số lượng DN 
của Australia, đóng góp ít nhất 1/3 tổng GDP và sử 
dụng gần 47% lực lượng lao động trong khu vực tư 
nhân, tương ứng với 35% tổng lực lượng lao động. 
Các công ty mới và nhỏ là những đơn vị tạo công 
ăn việc làm chính trong nền kinh tế (chiếm tỷ lệ 49% 
việc làm mới). 
Canada
Canada bắt đầu nghiên cứu các vấn đề chính 
sách về khởi nghiệp và DN nhỏ vào đầu những 
năm 1980. Canada là nước đầu tiên trong các nước 
phát triển thông qua Chính sách quốc gia về khởi 
Bảng 1: CáC Chính sáCh tài Chính đa dạng đượC áp dụng tại CáC qUỐC gia
Công cụ tài chính As CA Fl Ir Nl sP sW TW uK us
Chương trình cho vay vốn đối với DNNVV 
hoặc chương trình bảo lãnh của Chính phủ
X X X X X X X
Ngân hàng DNNVV của Chính phủ X X
Quỹ cho vay vi mô X X X X X X X
Các khoản vay đặc biệt cho các 
doanh nghiệp tăng trưởng
X X X X X
Trợ cấp lãi suất X X
Các khoản trợ cấp và cho vay r&D X X X X X X X X X X
Các chương trình/quỹ đầu tư mạo 
hiểm do chính phủ khuyến khích
X X X X X X X X X X
Giảm thuế cho các nhà đầu tư thiên 
thần và nhà đầu tư tư nhân
X X X X X X X
Cơ sở dữ liệu/mạng lưới nhà đầu tư thiên thần X X X X X X X
Trợ cấp khởi sự cho người thất nghiệp X X X X X X X
Ghi chú: AS: Australia, CA: Canada, FL: Phần Lan, IR: Ireland, NL: Hà Lan, SP: Tây Ban Nha, SW: Thụy Điển, TW: Đài Loan, UK: Anh, US: Mỹ. 
Nguồn: Stevenson và Lundström (2001)
88
chính sách tài chính với doanh nghiệp khởi nghiệp ở việt nam
nghiệp (1989) với các trọng tâm như: Chính sách 
pháp lý và môi trường khởi nghiệp, chính sách 
giáo dục khởi nghiệp, chính sách tài chính
Chính sách thuế: Các DN nhỏ có thu nhập chịu 
thuế dưới 200.000 USD được hưởng lợi từ khấu 
trừ thuế đối với DN nhỏ, làm giảm thuế suất thuế 
thu nhập DN của liên bang từ 28% xuống còn 12%. 
Vào tháng 1/2001, thuế suất thuế DN mới 21% 
được áp dụng cho thu nhập từ 200.000 USD đến 
300.000 USD. Các công ty nhỏ có mức thu nhập 
chịu thuế dưới 200.000 USD cũng được hưởng 
khoản tín dụng thuế 20% cho chi phí R&D.
Chính sách tiếp cận tài chính và vốn hạt giống: Chính 
phủ Canada tham gia vào một loạt chương trình 
cung cấp hỗ trợ tài chính và cải thiện khả năng tiếp 
cận nguồn tài chính cho các DN nhỏ mới. Cụ thể 
như: Bảo đảm tiền vay, cho vay kinh doanh nông 
thôn, cho vay đối với những người khởi nghiệp là 
dân bản địa, phụ nữ, doanh nhân trẻ và các DN 
công nghệ; các chương trình vốn mạo hiểm và hỗ 
trợ cho mạng lưới nhà đầu tư thiên thần. 
Chính sách bảo lãnh vay vốn cho các DN nhỏ: Chương 
trình Bảo lãnh cho vay DN nhỏ của Canada đã được 
áp dụng từ năm 1961. Chương trình này được đổi 
tên thành Đạo luật Tài chính DN nhỏ Canada vào 
năm 1999, Chính phủ cung cấp bảo lãnh 85% các 
khoản cho vay DN nhỏ dưới 250.000 USD. Các 
khoản vay này có thể được dành cho việc thành lập 
các DN mới hoặc mở rộng hoặc hiện đại hóa các 
công ty nhỏ có doanh thu dưới 5 triệu USD/năm. 
Ngân hàng cho vay có thể đảm bảo an toàn đối với 
tài sản và bảo đảm cá nhân lên đến 25%. 
Đài Loan (Trung Quốc)
Đài Loan là một nền kinh tế chú trọng vấn đề 
khởi nghiệp từ rất sớm. Phát triển DNNVV được 
coi là một yếu tố quan trọng trong các sáng kiến 
phát triển kinh tế từ năm 1953. Các DNNVV chiếm 
hơn 97% tổng số DN (hơn một triệu DN nhỏ vào 
năm 2000) và sử dụng trên 78% lực lượng lao động 
nước này. 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, Đài Loan ít bị 
khủng hoảng hơn các nền kinh tế châu Á khác, vì 
các DNNVV đóng vai trò chi phối trong chính sách 
kinh tế của Đài Loan so với Hàn Quốc hay Nhật 
Bản. Các chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp 
của Đài Loan tiếp thu những ưu điểm và có sự điều 
chỉnh so với các quốc gia phương Tây. Cụ thể:
Chính sách thuế: Chính phủ cấp tín dụng thuế 
lên tới 20% cho cá nhân đầu tư vào các DNNVV 
để giải quyết thiếu hụt vốn cổ phần. 
Chính sách tiếp cận tài chính và vốn hạt giống: 
Chính phủ đóng một vai trò lớn trong việc cung 
cấp tài chính cho các DNNVV hiện tại, vừa trực tiếp 
vừa gián tiếp. Chính phủ quy định mỗi ngân hàng 
phải thành lập một Trung tâm Dịch vụ DNNVV 
tại mỗi chi nhánh và phân bổ một tỷ lệ vốn cho các 
DNNVV. Chính phủ trực tiếp lấp đầy thiếu hụt tài 
chính DNNVV thông qua Ngân hàng Thương mại 
Đài Loan, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV và một 
chương trình kích thích sự phát triển của ngành 
công nghiệp mạo hiểm.
Bảo lãnh cho vay khởi sự cho các doanh nhân trẻ 
khởi nghiệp: Cung cấp bảo lãnh cho các khoản vay 
khởi nghiệp của các doanh nhân trẻ, với số vay lên 
đến 4 triệu Đài tệ. Trong đó 1,4 triệu Đài tệ sẽ được 
bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Đây là một khoản 
vay cá nhân, có thời gian ân hạn hai năm. 
Vốn đầu tư mạo hiểm: Chính phủ đã đóng một 
vai trò tích cực và quan trọng trong việc phát triển 
ngành vốn mạo hiểm ở Đài Loan. Năm 1982, Chính 
phủ Đài Loan đã giới thiệu cơ chế vốn mạo hiểm 
cho các công ty công nghệ. Năm 1983, Đài Loan đã 
thông qua “Quy định về các DN đầu tư vốn mạo 
hiểm” và mở ra cánh cửa cho sự xuất hiện của các 
công ty vốn liên doanh. 
Sàn giao dịch OTC: Ngày 18/4/2000, Đài Loan 
mở một sàn giao dịch OTC cho các DN đang phát 
triển sáng tạo (sàn có tên là TIGER). Để được niêm 
yết, một DNNVV phải có vốn và tiềm năng tăng 
trưởng lớn. Có 400 công ty TIGER và khoảng 1/3 
trong số 1.155 công ty đầu tư vốn mạo hiểm đã 
niêm yết trên sàn giao dịch TIGER. Sàn giao dịch 
này mở ra tạo cơ hội cho các DN khởi nghiệp đáp 
ứng được nhu cầu mà không bị ràng buộc bởi các 
quy định niêm yết nghiêm ngặt.
khuyến nghị đối với việt nam
Từ những kinh nghiệm của các quốc gia, bên 
cạnh thực tế các biện pháp đang được áp dụng 
hiện nay để hỗ trợ khởi nghiệp ở Việt Nam, tác giả 
đề xuất một số giải pháp liên quan đến chính sách 
tài chính như sau:
Thành lập ngân hàng 
dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Xu hướng chung tại các quốc gia cho thấy, 
các khoản trợ cấp lãi suất được chuyển thành các 
khoản cho vay có thể thu hồi và các chương trình 
vốn chủ sở hữu. Điều này làm tăng tinh thần trách 
nhiệm đối với việc sử dụng vốn của các doanh 
nhân khởi nghiệp, nhằm tăng hiệu quả sử dụng 
vốn. Tuy nhiên, điều quan trọng là khả năng tiếp 
cận vốn vay cũng như vấn đề bất cân xứng thông 
TÀI CHÍNH - Tháng 4/2018
89
tin về nguồn cung cấp vốn. Tại Canada, một ngân 
hàng chuyên cung cấp vốn vay cho các DNNVV 
của Chính phủ được thành lập để đảm bảo nguồn 
cung ứng vốn đối với các DN khởi nghiệp, bên 
cạnh các quỹ tín dụng trên thị trường. Với bản chất 
rủi ro lớn, thiếu tài sản đảm bảo của các DN khởi 
nghiệp cũng như các điều kiện khắt khe của khu 
vực ngân hàng, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp 
cận vốn của các DN khởi nghiệp. Việc thành lập 
một ngân hàng chuyên cung cấp dịch vụ về vốn 
cho các DNNVV và DN khởi nghiệp là thực sự cần 
thiết ở Việt Nam.
Đồng thời, để giảm gánh nặng hành chính trong 
huy động và vay vốn, các quốc gia cũng đơn giản 
hóa quá trình phê duyệt khoản vay, sử dụng các 
ứng dụng cho vay trực tuyến, sử dụng các kỹ thuật 
chấm điểm tín dụng và phê duyệt trước khi cho 
vay nhằm làm giảm chi phí đi vay của các công ty 
nhỏ. Điều này hoàn toàn có thể được áp dụng đối 
với ngân hàng cho DNNVV nếu được thành lập.
Về chính sách bảo lãnh cho vay 
và thành lập các quỹ cho vay vi mô
Đối với vốn khởi đầu, các biện pháp chính sách 
phục vụ cho hai mục tiêu chính: Một là, lấp đầy 
thiếu hụt tài chính khởi đầu cho những người khởi 
nghiệp không đạt được tiêu chuẩn về đảm bảo tài 
sản thế chấp của các nhà tài trợ truyền thống; Hai 
là, lấp đầy thiếu hụt tài trợ tổng hợp và vốn hạt 
giống dành cho các công ty có định hướng công 
nghệ và có tiềm năng tăng trưởng cao. 
Các chương trình bảo lãnh cho vay của Chính 
phủ nhằm mục đích làm giảm rủi ro ngân hàng 
cho DN nhỏ vay, hoặc tăng mức độ hiểu biết của 
các ngân hàng về khách hàng và thị trường DN 
nhỏ. Nhờ có sự bảo lãnh của Chính phủ, các DN 
khởi nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn 
vay từ khu vực ngân hàng. Tuy nhiên, để làm điều 
này, cần xem xét và đánh giá các tiêu chuẩn cụ thể 
như tính khả thi của dự án để được bảo lãnh đi 
kèm với các cam kết sử dụng vốn vay hiệu quả và 
các yêu cầu về tỷ lệ vốn đối ứng từ phía DN khởi 
nghiệp, giúp giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách 
trong trường hợp DN không trả được nợ vay.
Thực tế, các quỹ cho vay vi mô thường nhắm 
đến các nhóm cụ thể như: phụ nữ, thanh niên và 
các dân tộc thiểu số hoặc các vùng khó khăn về 
kinh tế. Để khởi nghiệp thành công, vấn đề vốn 
luôn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ một DN 
khởi nghiệp nào. Trong khi với tính chất rủi ro cao, 
các DN khởi nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp 
cận vốn ngân hàng và các kênh cho vay truyền 
thống. Với vai trò quan trọng của các DN khởi 
nghiệp trong việc gia tăng công ăn việc làm, việc 
thành lập các quỹ cho vay hướng đến đối tượng 
khởi nghiệp có ý nghĩa thiết thực.
Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể, minh bạch 
nhằm khuyến khích việc hình thành và phát triển 
các quỹ đầu tư mạo hiểm
Thị trường vốn mạo hiểm chính thức ngày càng 
phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia và là điểm tựa 
an toàn về tài chính cho các doanh nhân khởi 
nghiệp, bên cạnh các kênh huy động vốn truyền 
thống. Các khoản tài trợ và cho vay R&D và các 
quỹ đầu tư mạo hiểm thường được hướng tới các 
công ty tiềm năng có triển vọng giai đoạn đầu, gặp 
khó khăn trong việc thu hút các khoản vay rủi ro. 
Số lượng các quỹ đầu tư trong và ngoài nước 
cho khởi nghiệp ở Việt Nam không nhiều. Trung 
bình mỗi năm chỉ có khoảng 10-20 DN khởi nghiệp 
Việt Nam nhận được đầu tư từ những quỹ đầu tư 
này. Trong khi đó, việc hình thành các quỹ đầu tư 
mạo hiểm cũng đang gặp không ít khó khăn cả về 
khía cạnh quy định pháp luật cũng như trên thực 
tế triển khai. Do đó, để khuyến khích việc thành 
lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, Chính phủ có thể 
tham gia với vai trò góp vốn trong thời gian đầu 
và có kế hoạch thoái vốn phù hợp trong khoảng 
thời gian từ 3 đến 5 năm. Điều này giúp kêu gọi 
vốn từ cộng đồng các nhà đầu tư nhằm đáp ứng 
nhu cầu vốn và hỗ trợ các DN khởi nghiệp.
Xây dựng cơ sở dữ liệu nhà đầu tư “thiên thần” 
để giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp dễ dàng 
trong việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tư khởi sự
Chính phủ các nước Canada, Phần Lan, Ireland, 
Anh, Mỹ và Đài Loan đã hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ 
liệu nhà đầu tư “thiên thần” và các diễn đàn phù 
hợp khác nhằm cải thiện luồng thông tin giữa các 
cá nhân. Đáng chú ý trong số này là Chương trình 
Đầu tư Cộng đồng Canada của Bộ Công nghiệp 
Canada để thử nghiệm các phương pháp tiếp cận 
để xây dựng các dịch vụ hỗ trợ đầu tư ở cấp địa 
ở việt nam, có rất nhiều dự án tiềm năng, tuy 
nhiên việc thiếu thông tin về các nguồn vốn 
cung ứng hay việc không đáp ứng được các 
yêu cầu về tài sản đảm bảo của hệ thống tín 
dụng trong nước cũng như không thể tiếp cận 
các nhà đầu tư có thể cấp vốn khiến các doanh 
nhân khởi nghiệp gặp khó khăn trong triển 
khai ý tưởng khởi nghiệp.
90
chính sách tài chính với doanh nghiệp khởi nghiệp ở việt nam
phương, cộng đồng.
Tại Việt Nam, có rất nhiều dự án tiềm năng, 
tuy nhiên việc thiếu thông tin về các nguồn vốn 
cung ứng hay việc không đáp ứng được các yêu 
cầu về tài sản đảm bảo của hệ thống tín dụng 
trong nước cũng như không thể tiếp cận các nhà 
đầu tư có thể cấp vốn khiến các doanh nhân khởi 
nghiệp gặp khó khăn trong việc triển khai ý tưởng 
khởi nghiệp của mình. Từ kinh nghiệm các nước, 
tác giả cho rằng, cần thiết xây dựng một cơ sở dữ 
liệu và mạng lưới về các nhà đầu tư “thiên thần” 
ở Việt Nam. Đây là các nhà đầu tư sẵn sàng tài 
trợ vốn cho các DN khởi nghiệp. Mạng lưới nhà 
đầu tư này không những là nơi cấp vốn tiềm năng 
cho DN khởi sự mà còn cung cấp những tư vấn 
cần thiết trong quá trình khởi sự cho các DN khởi 
nghiệp. 
Chính sách miễn giảm và ưu đãi thuế 
đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp
Các chương trình tín dụng, thuế, đầu tư là một 
chiến lược nằm trong bộ các chính sách tài chính hỗ 
trợ khởi nghiệp ở hầu hết các quốc gia nhằm khuyến 
khích các khoản đầu tư vào các DNNVV trong khu 
vực tư nhân. Ở Việt Nam, những ưu đãi thuế cũng 
đã được áp dụng đối với thuế thu nhập DN ở các 
DN khởi nghiệp có dự án đầu tư tại các địa bàn kinh 
tế khó khăn, hoặc lĩnh vực được ưu tiên, mức độ ưu 
đãi cao nhất cho áp dụng mức thuế suất 10% trong 
vòng 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế 
phải nộp trong vòng 9 năm tiếp theo đối với dự án 
đầu tư mới của DN khởi nghiệp tại các địa bàn đặc 
biệt khó khăn, khu kinh tế hoặc thuộc các lĩnh vực 
khuyến khích đầu tư như nghiên cứu khoa học và 
phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao. Bên 
cạnh những ưu đãi trên, chính sách thuế cần xem xét 
áp dụng mức thuế ưu đãi hơn nữa nhằm kích thích 
đổi mới sáng tạo trong khởi nghiệp, điều mà vẫn 
còn yếu trong hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam.
Chính sách hỗ trợ gián tiếp thông qua mô hình vườn ươm
Nhiều Chính phủ đã tài trợ cho quỹ vườn ươm 
dựa vào trường đại học để kích thích việc thương 
mại hoá đầu ra R&D. Mục tiêu của các quỹ vườn 
ươm này là để vượt qua “khoảng cách của sự sáng 
tạo và đổi mới”. 
Ở Việt Nam, mô hình vườn ươm cũng được 
triển khai áp dụng, trong đó Nhà nước hỗ trợ kinh 
phí thành lập, hoạt động các vườm ươm công lập 
Vườn ươm Phú Thọ (Đại học Bách khoa TP. Hồ 
Chí Minh); Vườn ươm CRC (Đại học Bách khoa 
Hà Nội); Vườn ươm khu Công nghệ cao Hòa Lạc; 
Vườm ươm DN (Công viên phần mềm Quang 
Trung TP. Hồ Chí Minh) và các ưu đãi về thuế 
(thuế thu nhập DN, thuế nhập khẩu, thuế giá trị 
gia tăng, thuế thu nhập cá nhân) đối với các 
vườn ươm. Để mô hình vườn ươm phát huy hiệu 
quả hơn nữa, Chính phủ có thể xem xét gia tăng 
các ưu đãi như hỗ trợ cơ sở hạ tầng vườn ươm 
trong giai đoạn đầu hình thành và sau đó thực 
hiện theo cơ chế tự chủ. Ngoài ra, cần có cơ chế, 
chính sách để khuyến khích việc hình thành các 
vườn ươm tư nhân, vừa kêu gọi vốn trong cộng 
đồng hỗ trợ sự phát triển đổi mới, sáng tạo, vừa 
giảm gánh nặng ngân sách và áp lực quản lý cho 
các cơ quan nhà nước.
Xây dựng sàn giao dịch chứng khoán 
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các DN khởi 
nghiệp có nhu cầu về vốn rất cao, tuy nhiên, khả 
năng tiếp cận vốn hạn chế do những “thất bại 
của thị trường” như: Bất cân xứng thông tin về 
các nguồn vốn, các định chế cho vay ưa thích cho 
vay đối với các DN lớn để giảm thiểu rủi ro và 
một kênh huy động vốn khả thi mà các quốc gia 
hướng tới là thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, 
các DN khởi nghiệp có thể không đủ khả năng để 
được niêm yết và giao dịch trên các sàn giao dịch 
chính thức và tập trung. Vì vậy, một số quốc gia 
đã thành lập sàn giao dịch riêng cho các DNNVV, 
mang tính chất của một sàn OTC với các quy định 
lỏng lẻo hơn, ví dụ sàn TIGER của Đài Loan, sàn 
First North của Đan Mạch... Điều này hoàn toàn có 
thể áp dụng tại Việt Nam nhằm giúp các DN khởi 
nghiệp dễ dàng huy động vốn trực tiếp từ xã hội và 
góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn trong thời gian 
khởi sự và phát triển. 
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Thị Tư (2016), Cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc biệt cho DN khởi 
nghiệp, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 9/2016;
2. Nguyễn Viết Lợi (2016), “Bệ đỡ” cho các DN khởi nghiệp từ chính sách tài 
chính, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 9/2016;
3. Acs, Zoltan, J., Bo Carlsson & Charlie Karlsson (1999), The Linkages Among 
Entrepreneurship, SMEs and the Macroeconomy. In Entrepreneurship, 
Small & MediumSized Enterprises and the Macroeconomy, eds Z. Acs, 
B. Carlsson and C. Karlsson, pp. 3- 42. UK: Cambridge University Press;
4. Audretsch, David & Roy Thurik (2001) What’s New about the New 
Economy? Sources of Growth in the Managed and Entrepreneurial 
Economies. Industrial and Corporate Change, 10 (1), pp. 267-315;
5. Australian Bureau of Statistics (1999), Small and Medium Enterprises: 
Business Performance Survey. Canberra, September;
6. Baljé, Sander & Pieter Waasdorp (2001), Entrepreneurship in the 21st 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_tai_chinh_ho_tro_khoi_nghiep_kinh_nghiem_quoc_te.pdf