Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước: một số bài học rút ra từ ngân sách năm 2017

Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng

của Nhà nước, qua đó thiết lập cơ chế vận hành, phân chia nguồn lực tài chính theo những nguyên

tắc, tiêu chí, căn cứ, định mức và phương pháp tính toán nhất định. Mục tiêu của chính sách phân

bổ ngân sách là nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính cho các cơ quan, tổ chức hoàn thành nhiệm vụ

được giao, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền.

pdf 4 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước: một số bài học rút ra từ ngân sách năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước: một số bài học rút ra từ ngân sách năm 2017

Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước: một số bài học rút ra từ ngân sách năm 2017
39
nghiÊn CỨU - tRao đỔi
Từ thực tiễn công tác phân bổ NSNN năm 2017 
và những năm gần đây, có thể rút ra một số bài 
học sau:
Thứ nhất, cần đánh giá và xem xét kỹ bối cảnh 
tình hình kinh tế - xã hội. Năm 2017 là năm nền 
kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, 
song vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách 
thức từ trong nước và ngoài nước. Mục tiêu tăng 
trưởng GDP đặt ra trong năm 2017 là 6,7% theo 
Nghị quyết của Quốc hội, nhưng bằng sự nỗ lực 
của cả hệ thống chính trị nên đến cuối năm 2017 
đã vượt mục tiêu (đạt 6,81%), 13/13 chỉ tiêu theo 
Nghị quyết của Quốc hội đều đạt và vượt. Điều đó 
cho thấy, cần phân tích kỹ các yếu tố kinh tế vĩ mô 
tác động đến tăng trưởng kinh tế để có biện pháp 
thu hút và phân bổ nguồn lực một cách hợp lý 
nhất. Đặc biệt, cần chú ý phân tích yếu tố dẫn đến 
sản xuất, kinh doanh trong nước phục hồi chậm, 
dịch bệnh và thiên tai gây thiệt hại về người và 
tài sản; môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh 
chậm cải thiện; quy mô thu NSNN giảm nhanh, cơ 
cấu thu chưa hợp lý, thiếu bền vững; các nguồn 
lực từ đất đai, tài nguyên, công sản chưa được huy 
động và sử dụng có hiệu quả; tình trạng trốn thuế, 
thất thu và nợ thuế còn lớn; nhu cầu chi ngân sách 
không ngừng tăng, vượt khả năng cân đối nguồn 
lực; thu không đủ chi, tích lũy ngân sách cho đầu 
tư phát triển thấp...
Công tác quản lý tài chính – NSNN thời gian 
qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đóng góp 
quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - 
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh 
chính sách an sinh xã hội và thực hiện tiến bộ, công 
Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2017 đã bám sát quan điểm, định hướng chỉ đạo tại Nghị quyết số 07 - 
NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị, cụ thể: 
Cơ cấu lại NSNN theo hướng bảo đảm nền tài chính 
quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh 
tế vĩ mô; tăng cường huy động, quản lý, phân bổ 
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, 
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt các 
nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người, bảo đảm 
an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội 
nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của 
nước ta trong khu vực và trên thế giới.
CHíNH sáCH PHâN Bổ NGâN sáCH NHà NƯớC: 
MộT số BàI HọC rúT rA Từ NGâN sáCH NăM 2017
Ths. NGuYễN MINH TâN - Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội *
Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng 
của Nhà nước, qua đó thiết lập cơ chế vận hành, phân chia nguồn lực tài chính theo những nguyên 
tắc, tiêu chí, căn cứ, định mức và phương pháp tính toán nhất định. Mục tiêu của chính sách phân 
bổ ngân sách là nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính cho các cơ quan, tổ chức hoàn thành nhiệm vụ 
được giao, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền.
Từ khóa: Chính sách phân bổ ngân sách, ngân sách nhà nước, an sinh xã hội, kinh tế vĩ mô
The policy of state budget allocation is one of the 
most important macroeconomic policies of the 
State which, thereby, establishes the operation 
mechanism, financial resources distribution 
by regulations, criteria, rates and methods. 
The goal of state budget allocation policy is 
to ensure the financial resources for the state 
agencies to complete their assignments and to 
minimize the inequality between regions.
Keywords: State budget allocation policy, State budget, 
social security, macroeconomics
Ngày nhận bài: 5/3/2018
Ngày hoàn thiện biên tập: 20/3/2018 
Ngày duyệt đăng: 26/3/2018
*Email: tannm@qh.gov.vn
40
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
bằng xã hội, xử lý các vấn đề cấp bách về thiên tai, 
dịch bệnh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến 
đổi khí hậu và tăng cường hội nhập kinh tế quốc 
tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về tài 
chính – NSNN từng bước được hoàn thiện theo 
hướng công khai, minh bạch, tiếp cận với thông lệ 
và chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, 
điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Thứ hai, cần đánh giá sát thực tế tình hình thu 
NSNN năm hiện hành, chú trọng số thu nội địa, dự 
báo số thu NSNN năm sau một cách chắc chắn và 
thận trọng. Việc thực hiện thu NSNN cả nước năm 
2017 vượt 2,3% dự toán (Chính phủ báo cáo Quốc 
hội tại Kỳ họp thứ 4) đã thể hiện những nỗ lực cao 
trong điều hành của Chính phủ khi mà điều kiện 
kinh tế còn khó khăn, giá dầu thô vẫn ở mức thấp, 
nợ đọng thuế còn khá phổ biến. 
Năm 2018, trong bối cảnh, dự toán thu nội địa 
tăng 12,5%, chiếm 81,5% tổng thu NSNN, thu từ 
khu vực DNNN và thu từ dầu thô chưa tương 
xứng thì việc bảo đảm tỷ lệ huy động GDP 
vào NSNN bình quân khoảng 20-21% GDP, gấp 
khoảng 1,65 lần giai đoạn 2011-2015, là một thách 
thức lớn̉. Mục tiêu đặt ra trong tỷ trọng thu nội địa 
đạt khoảng 84-85% tổng thu NSNN, tỷ trọng thu 
dầu thô và thu xuất nhập khẩu đạt khoảng 14 - 16% 
tổng thu NSNN, tỷ trọng thu ngân sách trung ương 
khoảng 60 - 65%, cần có những giải pháp căn cơ 
đúng hướng, để sau năm 2020 bảo đảm tỷ lệ huy 
động GDP vào NSNN được duy trì ở mức ổn định, 
hợp lý.
Để thực hiện được các mục tiêu trên về thu 
NSNN, cần chú trọng hoàn thiện chính sách thu 
gắn với cơ cấu lại thu NSNN theo hướng bao quát 
toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là 
các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế; 
Tăng tỷ trọng thu nội địa, bảo đảm tỷ trọng hợp 
lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu; Khai thác 
thuế thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường; 
Hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội 
trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn 
thuế, bảo đảm tính trung lập của thuế, góp phần 
tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công 
bằng, khuyến khích đầu tư, điều tiết thu nhập hợp 
lý. Bên cạnh đó, cần tăng cường quản lý, khai thác, 
huy động nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng 
tài sản công; Ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng 
trốn thuế, thất thu và nợ thuế. Phát triển hệ thống 
thu đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc 
tế, bảo đảm huy động đầy đủ, chủ động, hợp lý 
nguồn thu cho NSNN.
Thứ ba, đánh giá tình hình chi NSNN năm hiện 
hành chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả trong phạm vi dự 
toán được Quốc hội quyết định. 
 Qua báo cáo kết quả của Kiểm toán Nhà nước 
cho thấy, chi NSNN còn diễn ra tình trạng lãng 
phí, phô trương hình thức hiệu quả chưa cao. Đối 
với chi đầu tư phát triển, việc triển khai thực hiện 
Kế hoạch đầu tư công trung hạn còn lúng túng, 
phân bổ và giao kế hoạch chậm, do thực hiện các 
Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, 
Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường chưa 
đồng bộ, có quy định mâu thuẫn lẫn nhau. Do đó, 
cần chú trọng công tác phân bổ và giao kế hoạch 
vốn đầu tư, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch 
để triển khai các công trình, dự án, thúc đẩy giải 
ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với chi 
thường xuyên, cần chú trọng tiết kiệm, đảm bảo 
chỉ tăng 1,3% so với dự toán nhưng vẫn đáp ứng 
được các yêu cầu triển khai nhiệm vụ, thực hiện 
các chính sách, chế độ đã ban hành, thực hiện 
chính sách đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số và 
dân tộc rất ít người...
Từ việc đánh giá tình hình chi NSNN, tiến hành 
phân bổ dự toán chi thường xuyên theo các tiêu chí, 
định mức phân bổ được quy định tại Nghị quyết số 
266/UBTVQH ngày 4/10/2016 của Ủy ban Thường 
vụ Quốc hội và Quyết định số 46/QĐ-TTg ngày 
19/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ và khả năng 
của NSNN. Căn cứ vào số lượng biên chế, giao dự 
toán chi lương đi đôi với giao biên chế; thực hiện các 
chính sách, chế độ đã ban hành để đảm bảo nguồn 
lực cho các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp 
trên cơ sở Đề án đối mới các đơn vị sự nghiệp công 
lập, giảm sự phụ thuộc vào NSNN. Phân bổ dự toán 
chi đầu tư phát triển theo các tiêu chí, định mức phân 
bổ được quy định tại Nghị quyết số 1023/UBTVQH 
ngày 28/8/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và 
Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ 
tướng Chính phủ và khả năng của NSNN, trong đó 
chú trọng ưu tiên về vốn đối ứng ODA, dự án hợp 
Chi thường xuyên
Chi trả nợ và viện trợ
Dự phòng
Chi đầu tư phát triển
64,9%
7,3%
2,1%
25,7%
kẾt qUả phÂn BỔ nsnn năm 2017
Nguồn: Tác giả tổng hợp
TÀI CHÍNH - Tháng 4/2018
41
tác công - tư (PPP), dự án chuyển tiếp dở dang kéo 
dài thuộc Kế hoạch đầu tư công trung hạn; hạn chế 
dự án mới khởi công; nâng cao hiệu quả đầu tư theo 
hướng giảm dần hệ số ICOR.
Để khắc phục những bất hợp lý trong phân bổ 
chi NSNN hiện nay, cần đổi mới căn bản công tác 
quản lý NSNN theo kết quả thực hiện các mục tiêu 
phát triển kinh tế - xã hội trong trung, dài hạn và 
hằng năm; Nâng cao hiệu quả công tác lập ngân 
sách, chấp hành kiểm toán, quyết toán, giám sát việc 
thực hiện NSNN; Trao quyền tự chủ đi đôi với trách 
nhiệm giải trình đối với các đơn vị sử dụng ngân 
sách. Bên cạnh đó, từng bước ứng dụng phương 
pháp xây dựng dự toán và phân bổ chi ngân sách 
theo mục tiêu, nhiệm vụ, định mức kinh tế - kỹ 
thuật, đơn giá dịch vụ và kết quả thực hiện nhiệm 
vụ của các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách (kết 
quả đầu ra). Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ 
cấu tổ chức của các bộ, ngành, cơ quan trung ương, 
địa phương theo hướng tinh gọn, gắn trách nhiệm 
quyết định chi ngân sách với trách nhiệm quản lý 
NSNN; Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng chế độ 
công vụ rõ ràng, minh bạch, thường xuyên đào tạo, 
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán 
bộ làm công tác tài chính; Nâng cao năng lực dự báo 
và xây dựng kế hoạch tài chính – NSNN trong trung 
và dài hạn.
Thứ tư, bảo đảm cân đối NSNN và duy trì bội 
chi NSNN ở mức thấp, giảm mức vay của NSNN. 
Thực tế triển khai thực hiện Luật NSNN năm 2015 
(có hiệu lực từ năm ngân sách 2017) cho thấy, sự 
mở rộng phạm vi bội chi NSNN gồm bội chi ngân 
sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương 
cấp tỉnh đã tạo ra cơ hội để các địa phương thu hút 
nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Đồng thời, trong 
công tác hạch toán, kế toán, cân đối NSNN đã loại 
trừ chi trả nợ gốc trong Bảng cân đối NSNN để phản 
ánh đúng thực trạng cân đối NSNN phù hợp với 
thông lệ quốc tế, nên bội chi NSNN chỉ hạch toán 
phần chi trả nợ lãi nên số bội chi NSNN đã giảm 
dần (năm 2017: 3,5% GDP và có xu hướng giảm dần 
đến năm 2020 dưới 4% GDP).
Việc thực hiện mục tiêu siết chặt việc kiểm soát 
bội chi (cả bội chi ngân sách trung ương và bội 
chi ngân sách địa phương) bao gồm cả việc kiểm 
soát giải ngân vốn ODA vì theo nhiều năm, số vốn 
giải ngân ODA thường có phát sinh lớn hơn so với 
dự toán. Đồng thời, xem xét về tổng mức vay của 
NSNN (bao gồm vay để bù đắp bội chi và vay để 
trả nợ gốc) để có biện pháp điều chỉnh kịp thời, giữ 
mức bội chi trong phạm vi dự toán được Quốc hội 
quyết định, giữ mức trần nợ công dưới 65% GDP. 
 Về phía Nhà nước, cần tập trung cơ cấu lại thu, 
chi NSNN theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư, 
giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên gắn với đổi 
mới mạnh mẽ khu vực sự nghiệp công lập theo 
cơ chế tự chủ và tinh giản bộ máy, biên chế, thực 
hiện cải cách tiền lương. Thực hiện chi trong phạm 
vi dự toán được giao; đẩy mạnh thực hiện khoán 
chi và tiền tệ hóa, đưa vào thu nhập một số chính 
sách, chế độ theo tiêu chuẩn, định mức chi. Thực 
hiện nghiêm nguyên tắc vay bù đắp bội chi NSNN 
chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử 
dụng cho chi thường xuyên, từng bước tăng tích 
lũy cho đầu tư phát triển và trả nợ. Bên cạnh đó, 
xây dựng và triển khai Kế hoạch tài chính trung 
hạn gắn với Kế hoạch đầu tư công trung hạn trong 
cùng thời kỳ. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm 
tra, kiểm toán, đề cao trách nhiệm giải trình về 
NSNN của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Bên 
cạnh đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, 
tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn xã hội và 
cộng đồng DN về chấp hành nghĩa vụ nộp thuế, 
thực hành tiết kiệm và phòng, chống tham nhũng, 
lãng phí nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong 
cả hệ thống chính trị.
Thứ năm, quản lý NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, 
hiệu quả trên cơ sở chống thất thu, trốn thuế, giảm 
tỷ lệ nợ đọng thuế dưới mức 5% tổng thu NSNN. 
Không ban hành chính sách làm giảm thu NSNN 
để bảo đảm tính ổn định của chính sách thu và tỷ 
lệ huy động GDP vào NSNN. Cân nhắc việc điều 
chỉnh tăng/giảm thuế suất ở mức hợp lý trong quá 
trình sửa đổi, bổ sung một số chính sách thuế, nhất 
là thuế giá trị gia tăng; tiếp tục rà soát các sắc thuế 
để bảo đảm công bằng, chú trọng hiệu quả thu 
thuế. Không bố trí kinh phí mua sắm trang thiết bị 
đắt tiền; giảm chi khánh tiết, phô trương hình thức; 
hạn chế mua sắm xe công; hạn chế bổ sung chi 
ngoài dự toán Thực hiện Nghị quyết của Quốc 
hội về bố trí vốn chuẩn bị đầu tư các công trình 
quan trọng quốc gia như: Đường bộ cao tốc Bắc - 
Nam phía Đông: Đoạn Cao Bồ (Nam Định) - Bãi 
Vọt (Hà Tĩnh), Dầu Giây (Đồng Nai) – Nha Trang 
(Khánh Hòa), Trung Lương – Cần Thơ; giải phóng 
năm 2018, trong bối cảnh dự toán thu nội 
địa tăng 12,5%, chiếm 81,5% tổng thu nsnn, 
thu từ khu vực dnnn và thu từ dầu thô chưa 
tương xứng, việc bảo đảm tỷ lệ huy động 
gdp vào nsnn bình quân khoảng 20-21% 
gdp, gấp khoảng 1,65 lần giai đoạn 2011-
2015, là một thách thức lớn. 
42
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
mặt bằng Sân bay Long Thành – Đồng Nai; Tiếp 
tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (xây 
dựng nông thôn mới; Giảm nghèo bền vững) cần 
đẩy mạnh tiến trình cơ cấu lại đầu tư công và nâng 
cao hiệu quả đầu tư công. Tập trung nguồn vốn 
NSNN để đầu tư các công trình trọng điểm quốc 
gia, có sức lan tỏa lớn và giải quyết các vấn đề phát 
triển của quốc gia, vùng và liên vùng, tạo điều kiện 
thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp 
nước ngoài (FDI). Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái 
vốn đầu tư ngoài ngành và vốn nhà nước ở các DN 
mà Nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng cho 
đầu tư phát triển và giải quyết các vấn đề kinh tế 
- xã hội cấp bách. Tăng cường đổi mới khu vực sự 
nghiệp công lập, tạo bước đột phá về chất lượng, 
hiệu quả; từng bước tính đúng, tính đủ chi phí vào 
giá dịch vụ công và có chính sách hỗ trợ phù hợp 
cho đối tượng chính sách, người nghèo, người yếu 
thế trong xã hội.
Thứ sáu, đẩy mạnh công khai NSNN. Đây là một 
nguyên tắc trong quản lý NSNN, thể hiện ý thức 
trách nhiệm của Nhà nước trước công dân, đồng 
thời tạo điều kiện cho sự giám sát của người dân 
đối với các hoạt động NSNN. Công khai ngân sách 
là việc cung cấp thông tin một cách rõ ràng, đáng 
tin cậy, dễ hiểu và kịp thời về ngân sách theo các 
nội dung được pháp luật quy định. Đối tượng phải 
thực hiện công khai ngân sách gồm: (i) Các cấp 
ngân sách; (ii) Đơn vị dự toán ngân sách; (iii) Tổ 
chức được ngân sách hỗ trợ; (iv) Chương trình, dự 
án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân 
sách. Việc công khai ngân sách được ngoại trừ đối 
với các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh, 
bí mật quốc gia.
Các đối tượng có trách nhiệm phải thực hiện 
công khai ngân sách theo quy định, nếu không 
thực hiện công khai đầy đủ, đúng hạn sẽ bị xử lý vi 
phạm theo quy định của pháp luật. Hình thức công 
khai bao gồm: Công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ 
sở làm việc của cơ quan, đơn vị; phát hành ấn phẩm; 
thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, đơn vị, cá 
nhân có liên quan; thông báo trên các phương tiện 
thông tin đại chúng. Nội dung công khai NSNN 
phải bảo đảm đầy đủ theo các chỉ tiêu, biểu mẫu 
do Bộ Tài chính quy định tại Thông tư số 343/2016/
TT-BTC ngày 30/12/2016 của Bộ Tài chính (hướng 
dẫn thực hiện công khai NSNN đối với các cấp 
ngân sách). Theo đó, tài liệu công khai NSNN bao 
gồm: (i) Số liệu, thuyết minh dự toán NSNN trình 
Quốc hội và trình HĐND (chậm nhất là 5 ngày, kể 
từ ngày Chính phủ gửi đại biểu Quốc hội, UBND 
gửi đại biểu HĐND); (ii) Số liệu, thuyết minh dự 
toán NSNN được Quốc hội và trình HĐND quyết 
định (chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày văn bản được 
ban hành); (iii) Số liệu, thuyết minh tình hình thực 
hiện thu, chi NSNN hàng quý, 6 tháng (chậm nhất 
15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 6 tháng); (iv) 
Số liệu, thuyết minh quyết toán NSNN được Quốc 
hội và trình HĐND quyết định (chậm nhất 30 ngày 
kể từ ngày văn bản được ban hành); (v) Kết quả 
thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước 
(chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày văn bản được ban 
hành). Ngoài ra, các đơn vị dự toán ngân sách, các 
tổ chức được NSNN hỗ trợ cũng phải thực hiện 
công khai các khoản đóng góp, cơ sở xác định mức 
hỗ trợ của NSNN 
Bên cạnh đó, cần công khai đầy đủ các thủ tục 
NSNN, bao gồm các quy trình, thủ tục kê khai, 
thu, nộp, miễn giảm, gia hạn, hoàn lại các khoản 
thu; tạm ứng, cấp phát, thanh toán NSNN. Thủ tục 
hành chính của Kho bạc Nhà nước bao gồm thủ tục 
mở và sử dụng tài khoản tại Kho bạc, thu nộp các 
khoản thu NSNN, kiểm soát thanh toán các khoản 
chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước các cấp. 
Công khai NSNN là bài học quan trọng trong 
quản lý và giám sát NSNN của các cơ quan quản lý 
nhà nước có thẩm quyền. Luật NSNN năm 2015 đã 
có bước tiến đáng kể về công khai ngân sách (so với 
Luật NSNN năm 1996 và Luật NSNN năm 2002), 
trong đó đã đưa ra khá đầy đủ các quy định về nội 
dung, thủ tục, thời hạn, đối tượng và tài liệu công 
khai, nhằm phát huy sự phản biện của người dân 
cho các cơ quan dân cử khi quyết định dự toán, theo 
dõi và giám sát các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có 
sử dụng vốn NSNN theo quy định của Luật NSNN 
năm 2015, Luật Đầu tư công năm 2014 và các văn 
bản pháp luật có liên quan. 
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 (có hiệu lực 1/1/2014);
2. Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2017);
3. Luật Đầu tư công năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2015);
4. Nghị quyết số 07 -NQ/TƯ ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về cơ cấu lại 
NSNN và nợ công;
5. Các báo cáo NSNN của Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4.
Công khai nsnn là bài học quan trọng trong 
quản lý và giám sát nsnn của các cơ quan 
quản lý nhà nước có thẩm quyền. Luật nsnn 
năm 2015 đã có bước tiến đáng kể về công khai 
ngân sách (so với Luật nsnn năm 1996 và Luật 
nsnn năm 2002).

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_phan_bo_ngan_sach_nha_nuoc_mot_so_bai_hoc_rut_ra.pdf