Chính sách huy động và đầu tư nguồn lực tài chính cho đội ngũ trí thức - Thực trạng và giải pháp

Đội ngũ trí thức là nguồn lực quan

trọng và đặc biệt quan trọng trong

cuộc cách mạng khoa học - kỹ

thuật, trong sự nghệp công nghiệp

hóa và hiện đại hóa đất nước, đặc

biệt là trong Cuộc Cách mạng

Công nghiệp 4.0, cách mạng công

nghệ số, tạo nên sức mạnh của

quốc gia trong việc hoạch định và

triển khai chiến lược phát triển đất

nước. Vấn đề đặt ra là, để phát huy

vai trò, tăng cường sự đóng góp

của trí thức khoa học công nghệ,

cần có những chính sách, giải

pháp đầu tư và huy động nguồn

lực tài chính để xây dựng và phát

triển đội ngũ trí thức Việt Nam.

Từ khóa: Chính sách tài chính, trí

thức, huy động nguồn lực, Đặng

Văn Thanh

pdf 5 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách huy động và đầu tư nguồn lực tài chính cho đội ngũ trí thức - Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách huy động và đầu tư nguồn lực tài chính cho đội ngũ trí thức - Thực trạng và giải pháp

Chính sách huy động và đầu tư nguồn lực tài chính cho đội ngũ trí thức - Thực trạng và giải pháp
N
hà nước luôn luôn coi
trọng và đánh giá cao
vai trò, vị trí của đội
ngũ trí thức trong sự
nghiệp xây dựng đất nước và bảo
vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Trí thức là vốn
liếng quý báu của dân tộc ". Thấm
nhuần lời dạy đó, Nhà nước đã có
những chủ trương, ban hành nhiều
chính sách phù hợp trong từng giai
đoạn phát triển của đất nước để xây
dựng và phát triển đội ngũ trí thức
cả về số lượng và chất lượng. Trên
thực tế, đội ngũ trí thức khoa học -
công nghệ của Việt Nam đã được
xây dựng với số lượng ngày càng
đông đảo, chất lượng ngày càng
nâng cao, phát huy mạnh mẽ vai trò
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội. Nghị quyết số 27-
NQ/TW, ngày 06/8/2008 về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước (gọi tắt là NQ 27)
nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức
vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí
tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng và chất lượng hoạt động
của hệ thống chính trị. Đầu tư xây
dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho
phát triển bền vững,... Xây dựng
đội ngũ trí thức là trách nhiệm
chung của toàn xã hội, của cả hệ
thống chính trị, trong đó trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ
vai trò quyết định”. 
Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XII đã nêu quan điểm: “Xây
dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn
mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước. Tôn
trọng và phát huy tự do tư tưởng
trong hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở
đánh giá đúng phẩm chất, năng lực
và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh
xứng đáng những cống hiến của trí
thức. Có cơ chế, chính sách đặc
biệt để thu hút nhân tài của đất
nước”. Đây không chỉ là phương
hướng nhiệm vụ phát triển đội ngũ
trí thức trong giai đoạn 2016 - 2020
mà còn là quyết tâm, là hành động
cụ thể để xây dựng và phát huy vai
trò đội ngũ trí thức của Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, bên cạnh
nhiều kết quả nổi bật, vẫn còn
không ít tồn tại, hạn chế, vướng
mắc. Đặc biệt là vấn đề đầu tư, huy
động và sử dụng nguồn lực, trong
đó có chính sách đầu tư và huy
động nguồn lực tài chính để phát
triển đội ngũ trí thức trong yêu cầu
mới của cách mạng khoa học -
công nghệ và hội nhập.
Thực trạng huy động và đầu
tư nguồn lực tài chính để xây
dựng và phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam 
Phải thấy rằng, trong 35 năm cải
cách và đổi mới kinh tế, nhiều chủ
trương, chính sách về khoa học
công nghệ, về đội ngũ trí thức đã
được ban hành và thực thi rất hiệu
quả, trong đó có chủ trương, chính
sách về xây dựng đội ngũ trí thức;
về phát triển khoa học và công
nghệ; về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo; về xây dựng
Chính sách huy động và đầu tư nguồn lực tài chính 
cho đội ngũ trí thức - Thực trạng và giải pháp
* Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
Đội ngũ trí thức là nguồn lực quan
trọng và đặc biệt quan trọng trong
cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật, trong sự nghệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước, đặc
biệt là trong Cuộc Cách mạng
Công nghiệp 4.0, cách mạng công
nghệ số, tạo nên sức mạnh của
quốc gia trong việc hoạch định và
triển khai chiến lược phát triển đất
nước. Vấn đề đặt ra là, để phát huy
vai trò, tăng cường sự đóng góp
của trí thức khoa học công nghệ,
cần có những chính sách, giải
pháp đầu tư và huy động nguồn
lực tài chính để xây dựng và phát
triển đội ngũ trí thức Việt Nam. 
Từ khóa: Chính sách tài chính, trí
thức, huy động nguồn lực, Đặng
Văn Thanh
PGS.TS Đặng Văn Thanh*
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/2020 11
Nghiên cứu trao đổi
và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam; về tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược; về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; về chính sách thu hút, tạo
nguồn cán bộ. Nhà nước đã đổi mới
cơ chế quản lý hoạt động khoa học
công nghệ, thực hiện nhiều chính
sách huy động, bồi dưỡng, động
viên, đãi ngộ, khích lệ và tôn vinh
trí thức, tổ chức các giải thưởng
quốc gia, phong tặng các chức
danh khoa học và các danh hiệu
cao quý. Nhờ vậy, đội ngũ trí thức
của Việt Nam đã phát triển nhanh
về số lượng và nâng cao về chất
lượng, phát huy vai trò trên mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội. Đội ngũ trí thức đã đóng góp
tích cực vào xây dựng những luận
cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước; trực tiếp
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
cho đất nước, nâng cao dân trí và
bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu,
sáng tạo ra những công trình có giá
trị về tư tưởng và nghệ thuật; từng
bước nâng cao trình độ khoa học
và công nghệ (KH&CN) của đất
nước, vươn lên tiếp cận với trình
độ của khu vực và thế giới, tạo ra
nhiều sản phẩm có chất lượng cao.
Đặc biệt, số trí thức trẻ năng động,
sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng nhiều. Cùng với
trí thức trong nước, có hàng nghìn
trí thức Việt kiều đang sinh sống và
làm việc ở hơn 100 quốc gia, vùng
lãnh thổ hướng về Tổ quốc, trong
đó nhiều người đã về nước làm
việc, đóng góp tích cực, có hiệu
quả vào sự phát triển đất nước. Tuy
nhiên, so với yêu cầu còn tồn tại
một số hạn chế. Chỉ số Kinh tế tri
thức (KEI) và Chỉ số tri thức (KI);
năng suất lao động của người Việt
Nam còn thấp. 
Về nguồn lực Ngân sách Nhà
nước (NSNN) đầu tư cho KH&CN
đã có những chuyển động tích cực
hơn theo hướng tăng đầu tư cho
các đề tài cấp quốc gia; tăng đầu tư
vào khu vực trọng điểm. Bên cạnh
đó, sự tham gia của xã hội, huy
động nguồn lực xã hội cho phát
triển KH &CN cũng được quan
tâm nhiều hơn.
Mặc dù, phải ưu tiên ngân sách
cho nhiều nhiệm vụ khác nhau
nhưng riêng chi cho KH&CN cơ
bản luôn được đảm bảo theo nghị
quyết của Quốc hội là khoảng
2%/năm/ dự toán chi NSNN. Trong
giai đoạn 2011 – 2015, tổng chi
ngân sách là 4.760.500 tỷ đồng;
trong đó, chi trực tiếp từ NSNN
cho KH&CN là 77.342 tỷ đồng; chi
KH&CN cho quốc phòng an ninh
là 7.750 tỷ đồng và từ nguồn ưu đãi
thu nhập tính thuế của các DN là
18.470 tỷ đồng. Tổng số chi cho
KH&CN là 95.812 tỷ đồng, bằng
2,01% chi NSNN. (tương đương
khoảng 0,5% GDP). Xét cả giai
đoạn 2011 - 2015, tổng chi NSNN
cho KH&CN cao gấp 5,6 lần so với
giai đoạn 2001 - 2005 và gấp 2,2
lần, so với giai đoạn 2006 - 2010.
Tương tự, các năm 2016, 2017 và
2018, mức chi đều được bố trí
tương đương 2% tổng chi ngân
sách, đảm bảo theo nghị quyết của
Quốc hội.
Về cơ chế tài chính cho
KH&CN đã thường xuyên đổi mới,
đặc biệt là cơ chế tài chính cho các
đề tài dự án. Với sự đổi mới này, 3
năm gần đây, cơ chế thanh toán,
quyết toán kinh phí KH&CN đã có
tiến bộ rất lớn. Những khó khăn,
vướng mắc trong thanh toán, quyết
toán các đề tài KH&CN thường
được nhắc đến trước đây hầu như
không còn. Các Thông tư 55, 27
(Thông tư liên tịch số:
55/2015/TTLT-BTC-BKHCN và
27/2015/TTLT-BKHCN-BTC)
trong lĩnh vực tài chính cho
KH&CN đã có bước đổi mới toàn
diện, theo tinh thần khoán và khoán
tới sản phẩm cuối cùng. Theo tinh
thần đổi mới này, người giao nhiệm
vụ phải tự tuyển chọn, tự chịu trách
nhiệm với kết quả đầu ra. Các quy
định mới rất đề cao trách nhiệm của
các cơ quan tuyển chọn đề tài, dự
án, chủ đề tài dự án, chú trọng đơn
giản hóa thủ tục hành chính, đặt
niềm tin nhất định, trách nhiệm
nhất định vào các cơ quan, chủ đề
tài dự án. Tuy nhiên, đầu tư cho
KH&CN, việc huy động nguồn lực
cho KH&CN, cho phát triển đội
ngũ trí thức còn nhiều hạn chế cả
về nguồn lực, về chính sách và còn
không ít vướng mắc về cơ chế,
trong đó có cơ chế tài chính.
Những hạn chế của đội ngũ trí
thức, của đầu tư và huy động nguồn
lực cho phát triển đội ngũ trí thức
do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân chủ yếu do thiếu
chiến lược phát triển đội ngũ trí
thức, một số chủ trương, chính sách
về công tác trí thức, trong đó có
chính sách đầu tư, chính sách huy
động nguồn lực chậm đi vào thực
tiễn, hành lang pháp lý bảo đảm
môi trường dân chủ và tự do học
thuật chưa đồng bộ, công tác tuyển
chọn, đánh giá, công tác tập hợp,
huy động và sử dụng đội ngũ trí
thức chưa thật sự hợp lý, thiếu
chính sách và cơ chế để trí thức
chuyên tâm cống hiến, phát triển và
được xã hội tôn vinh bằng chính
kết quả hoạt động chuyên môn,
nghề nghiệp. Về chính sách tài
chính trong một số lĩnh vực như
khoa học công nghệ, hợp tác quốc
tế, văn học, nghệ thuật,... còn bất
cập, dẫn đến một số trí thức làm
việc còn đối phó, chất lượng, hiệu
quả công việc chưa cao. Chính sách
và giải pháp thu hút trí thức người
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/202012
Nghiên cứu trao đổi
Việt Nam ở nước ngoài, tham gia
giải quyết những vấn đề của đất
nước chưa đủ mạnh. 
Chính sách huy động, đầu tư
nguồn lực tài chính cho đội ngũ
trí thức để đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng nền kinh
tế thị trường mở cửa và hội nhập
quốc tế
Để xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và phát triển kinh
tế xã hội trong nền kinh tế thị
trường, mở cửa hội nhập, cần triển
khai nhiều giải pháp, trước hết cần
tập trung huy động mọi nguồn lực,
tăng cường đầu tư tài chính. Muốn
vậy, cần triển khai đồng bộ các giải
pháp sau:
Thứ nhất: Tăng cường đầu tư
từ NSNN, từ nguồn quỹ công để
xây dựng các trung tâm nghiên cứu
và chuyển giao khoa học - công
nghệ hiện đại, các khu công nghệ
cao quốc gia. Tập trung đầu tư, xây
dựng và phát triển một số trường
đại học trọng điểm quốc gia theo
mô hình tiên tiến của thế giới để
thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí
thức trong và ngoài nước, để đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng
cao. Nhà nước cần giành sự quan
tâm đặc biệt và tăng cường đầu tư
phát triển nâng cao vị thế của Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam (VUSTA). Cần đảm bảo
để VUSTA là tổ chức tập hợp, là
diễn đàn, là mái nhà chung của trí
thực Việt Nam. VUSTA cần đổi
mới mạnh mẽ nội dung, phương
thức hoạt động tạo môi trường lành
mạnh, thuận lợi để phát huy năng
lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất
đạo đức của đội ngũ trí thức.
Thứ hai: Huy động nguồn lực
và tăng thêm nguồn lực tài chính
đầu tư để đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng
lực đội ngũ trí thức. Xây dựng và
triển khai chiến lược, quy hoạch
phát triển nhân lực Việt Nam, giai
đoạn 2021 - 2030. Hướng dẫn và
tổ chức triển khai Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo
dục (năm 2018) và Luật Giáo dục
đại học (năm 2018). Khắc phục có
hiệu quả những vướng mắc trong
quá trình chuyển đổi mô hình các
trường công lập và tư thục. Tăng
cường phân cấp quản lý Nhà nước
về giáo dục; thực hiện trao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các
cơ sở giáo dục và đào tạo. Cần rà
soát, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở
giáo dục, nghiên cứu gắn với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực. Xây dựng một số trường đại
học ngang tầm các nước tiên tiến
trong khu vực và thế giới. Tạo điều
kiện để các trường đại học, Viện,
Học viện nghiên cứu của nước
ngoài mở cơ sở đào tạo, nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ tại
Việt Nam.
Cần rà soát, xây dựng và ban
hành hệ thống tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp; vị trí việc làm,
định mức lao động, chế độ làm
việc; nội dung và hình thức thi, xét
nâng hạng chức danh nghề nghiệp.
Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí
thức trẻ, trí thức là những người đã
có cống hiến trong hoạt động thực
tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số
và trí thức nữ. Sử dụng hiệu quả đội
ngũ sinh viên, nghiên cứu sinh,
thực tập sinh học tập và nghiên cứu
ở nước ngoài. 
Thứ ba: Đổi mới các kênh huy
động nguồn lực và phân bổ nguồn
lực cho xây dựng và phát triển tri
thức. Cùng với các quy định: Áp
dụng cơ chế khoán chi đến sản
phẩm cuối cùng; Cấp kinh phí thực
hiện nhiệm vụ KHCN sử dụng
NSNN thông qua hệ thống Quỹ
Phát triển KH&CN, cần có các quy
định khuyến khích và buộc DN
Nhà nước hàng năm phải trích từ
3% - 10% thu nhập tính thuế thu
nhập DN, để lập Quỹ Phát triển
KH&CN của DN. Ngoài các quy
định, chi phát triển tiềm lực
KH&CN, đầu tư và hỗ trợ xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
các tổ chức KH&CN, không phân
biệt thành phần kinh tế theo các nội
dung: Xây dựng mới, nâng cấp,
tăng cường năng lực nghiên cứu
của các tổ chức KH&CN; Xây
dựng khu nghiên cứu và phát triển
cho các khu công nghệ cao; Xây
dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ
liệu quốc gia và thống kê về
KH&CN; Các hoạt động đầu tư
khác phục vụ phát triển KH&CN.
Cần triển khai các chính sách Chi
sự nghiệp KH&CN: Chi thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN; Chi thường
xuyên và các nhiệm vụ thường
xuyên theo chức năng của các tổ
chức KH&CN công lập theo quy
định pháp luật về cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN công lập; Tuyên truyền,
phổ biến kiến thức, hoạt động
thông tin và thống kê, KH&CN,
Hiện nay, mức chi từ NSNN
cho KH&CN, nhìn chung còn thấp
so với các nước. Vì vậy có thể nói,
do quy mô NSNN hạn chế nên chi
NSNN cho hỗ trợ đổi mới công
nghệ còn khiêm tốn. Việc phân bổ
NSNN phát triển các yếu tố của thị
trường KHCN còn dàn trải và phân
tán từ các bộ, ngành tới các địa
phương và điều đó đang trở thành
rào cản lớn, hạn chế phát triển
nguồn cung công nghệ trên thị
trường. Việc phân bổ chưa đảm bảo
theo những tiêu chí rõ ràng, thiếu
cơ chế cạnh tranh minh bạch, phân
tán nên hiệu quả đầu tư thấp, chế
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/2020 13
Nghiên cứu trao đổi
độ lương bổng không cao, cơ sở vật
chất thiếu hụt, tác động làm kìm
hãm phát triển của thị trường
KHCN thời gian qua. 
Những tồn tại về sử dụng các
công cụ tài chính trong các kênh
dẫn vốn cần phải được khắc phục
và có giải pháp, để phục vụ mục
tiêu phát triển thị trường KH&CN.
Vì thế, cần có những giải pháp, kịp
thời nhằm thúc đẩy việc sử dụng
hiệu quả các công cụ tài chính, huy
động vốn cho việc phát triển thị
trường KH&CN.
Trước bối cảnh hoạt động cải
cách, chuyển đổi mô hình và cơ cấu
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
tiếp tục được đẩy mạnh và hoàn
thiện theo hướng phát triển bền
vững, từ tăng trưởng theo chiều
rộng, dựa chủ yếu vào lợi thế sẵn
có như tài nguyên thiên nhiên và
lao động trình độ thấp sang khai
thác các yếu tố cạnh tranh trên cơ
sở công nghệ cao, nhân lực chất
lượng cao và tính hiện đại của cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội. 
Cần sớm thiết lập mạng lưới sàn
giao dịch công nghệ kèm theo hệ
thống tổ chức dịch vụ KHCN hỗ
trợ, trọng tâm là TP. Hồ Chí Minh,
Hà Nội và Đà Nẵng. Để thực hiện
mô hình phát triển bền vững phải
dựa vào phát triển KH&CN, do đó
cần tạo ra nhiều cơ hội cho
KH&CN và thị trường KH&CN
phát triển.
Thứ tư: Tạo lập môi trường
phát huy vai trò của trí thức. Định
kỳ kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quy chế dân chủ trong hoạt
động KH&CN, giáo dục và đào
tạo, văn hóa và văn nghệ. Bảo đảm
vấn đề tự do học thuật của đội ngũ
trí thức tại các cơ sở giáo dục và
viện nghiên cứu. Không nên thành
kiến, định kiến và quy chụp đối
với những ý kiến phản biện rất
thẳng thắn, trực diện, hàm chứa
nhiều tri thức khoa học, mang tính
xây dựng của đội ngũ trí thức.
Trong không ít trường hợp những
ý kiến, mới nghe rất khó chấp
nhận, rất trực diện, thẳng thắn,
chứa đựng những luận cứ chắc
chắn, hàm chứa những giá trị khoa
học mang tính chuyên môn sâu,
không dễ nhận ra ngay. 
Tăng cường thực thi việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, nhằm bảo
đảm lợi ích của trí thức khi chuyển
giao phát minh, sáng chế và khuyến
khích đội ngũ trí thức gia tăng sự
cống hiến. 
Thứ năm: Cần hoàn thiện hơn
nữa chính sách tài chính về sử
dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức.
Cơ chế, chính sách tài chính của
Nhà nước cần hoàn thiện, đổi mới
để đội ngũ trí thức có thể sống, hoạt
động và phát triển nghề nghiệp,
phát triển khả năng sáng tạo bằng
chính công sức, lao động, trình độ,
tài năng, phẩm chất và uy tín của
mình và tổ chức khoa học, tổ chức
nghề nghiệp của mình. Trí thức cần
được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất,
tinh thần tương xứng với công sức,
với giá trị lao động sáng tạo, giá trị
từ kết quả hoạt động, kết quả lao
động độc lập, sáng tạo của mình
hoặc của tập thể mà mình là thành
viên. Đổi mới, nâng cao chất lượng
xét chọn và nâng mức khen,
thưởng đối với các danh hiệu cao
quý và các giải thưởng Nhà nước
dành cho trí thức. có chính sách đãi
ngộ, trọng dụng, tôn vinh đối với trí
thức đầu ngành, những người được
giao chủ trì nhiệm vụ KH&CN
quan trọng của quốc gia, trí thức trẻ
tài năng, Có chính sách đãi ngộ,
khen thưởng đối với tác giả các
công trình được công bố quốc tế,
các sáng chế được bảo hộ trong và
ngoài nước.
Thứ sáu: Thực hiện chủ trương
phân cấp và trao quyền tự chủ, tự
quản lý, tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức KH&CN, các cơ sở đào
tạo trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo và các chức danh khoa học trên
cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước;
trong việc sử dụng nhân lực và tài
chính theo nhu cầu của đơn vị. Trên
cơ sở phân cấp, các tổ chức
KH&CN cần chủ động xây dựng
và triển khai chính sách tài chính,
tổ chức, huy động và sử dụng
nguồn lực, có chính sách chăm lo,
động viên, khích lệ và sử dụng có
hiệu quả đội ngũ trí thức ở mọi độ
tuổi có trình độ cao, có nhiều kinh
nghiệm, nhiều tâm huyết và có đủ
sức khoẻ cần thiết cho từng loại
công việc, từng loại nghề nghiệp,
từng loại hoạt dộng khoa học, đặc
biệt là trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực, lĩnh
vực nghiên cứu khoa học, phổ biến
và triển khai các kết quả nghiên
cứu KH&CN. 
Cần quan tâm, tạo điều kiện làm
việc, sinh hoạt, quan tâm đổi mới
các chính sách ưu đãi,... đối với đội
ngũ trí thức làm việc ở các vùng
kinh tế - xã hội khó khăn, trí thức
là người dân tộc thiểu số, người
khuyết tật,... Các tổ chức KH&CN,
các tổ chức nghề nghiệp cần xây
dựng cơ chế hoạt động, tổ chức các
diễn đàn để khuyến khích và bảo
đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí
thức khi tham gia các hoạt động tư
vấn, phản biện và giám định các
chủ trương, chính sách, các dự án
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ bảy: Đổi mới hơn nữa cơ
chế và quy trình giao và đánh giá
nghiệm thu các nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học. Đối với các nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học nên thực
hiện nhiều hơn theo cơ chế khoán
kinh phí đến sản phẩm KH&CN
cuối cùng, theo kết quả đầu ra. Đổi
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/202014
Nghiên cứu trao đổi
mới cách thức đánh giá và nghiệm
thu kết quả nghiên cứu; giảm bớt
tối đa thủ tục hành chính trong hoạt
động KH&CN. Cần có cơ chế và
phương thức giúp doanh nghiệp
xác lập một cách có hệ thống về
quyền sở hữu, sử dụng các kết quả
nghiên cứu khoa học có sử dụng
NSNN. Đồng thời, xác định quyền
sở hữu các dự án nghiên cứu liên
quan đến việc xử lý hai loại tài sản
hữu hình và vô hình, tạo cơ sở để
các tổ chức KH&CN tiếp tục phát
triển, thương mại hoá, tạo điều kiện
cho các tổ chức này phát huy thế
mạnh, từ đó có thể tự chủ mạnh mẽ
hơn trong thời gian tới.
Thứ tám: Đổi mới chính sách
tài chính cho phát triển thị trường
KH&CN. Cần tạo dựng và tăng
cường phát triển thị trường
KH&CN trên cả 5 yếu tố cơ bản,
Khung pháp lý cho các giao dịch
trên thị trường, bên mua, bên bán,
cơ sở hình thành giá cả và các hoạt
động hỗ trợ dịch vụ xúc tác giữa
người mua và người bán.
Tạo lập và vận hành chính sách
phát triển thị trường KH&CN là thể
hiện thái độ, trách nhiệm và những
hành động ứng xử của Nhà nước
với những quá trình xây dựng và
phát triển thị trường KH&CN, bao
gồm hệ thống các chính sách
hướng tới mục tiêu tạo động lực
khuyến khích thị trường KH&CN
phát triển, thỏa mãn nhu cầu
KH&CN trình độ cao của nhân dân
và yêu cầu phát triển đất nước.
Chính sách tài chính cũng nằm
trong hệ thống các chính sách được
Nhà nước ban hành, để thực hiện
mục tiêu này.
Chính sách tài chính cho thị
trường KH&CN là chính sách của
Nhà nước nhằm huy động, quản lý
và sử dụng tiền tệ để phát triển thị
trường KH&CN theo các mục tiêu
và định hướng phát triển của Nhà
nước đặt ra. Nhà nước ban hành
chính sách tài chính, nhằm tạo điều
kiện thuận lợi và khuyến khích các
thành phần kinh tế ngoài Nhà nước
tham gia đóng góp các nguồn tài
chính cho phát triển thị trường
KH&CN. Đồng thời, tạo cơ chế tài
chính hợp lý cho thị trường
KH&CN, đảm bảo chất lượng và
hiệu quả phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia. 
Cần phải sử dụng có hiệu quả
các công cụ tài chính để tác động
đến thị trường KH&CN, đó là chi
NSNN (đầu tư, đặt hàng), thuế, phí,
ưu đãi thuế, tín dụng, lãi suất, quỹ
đầu tư, quỹ chuyên dùng. Cần phải
sử dụng các công cụ tài chính phải
hướng tới mục tiêu rõ ràng và tăng
cường sự phối hợp giữa các công
cụ tài chính, nhằm thúc đẩy sự phát
triển đồng bộ các yếu tố của thị
trường KH&CN.
Có thể thấy, hệ thống văn bản
pháp luật hiện hành về thuế đã có
những ưu đãi nhất định về mặt
chính sách thuế dành cho thị trường
công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế
thị trường vẫn chưa phát triển được
như kỳ vọng. Cơ chế để tiếp cận
nguồn vốn đầu tư nghiên cứu và
phát triển công nghệ còn nhiều khó
khăn do quy định vay vốn, hỗ trợ
lãi suất hoặc bảo lãnh tín dụng còn
nhiều bất cập. 
Các quỹ KHCN cấp quốc gia,
tỉnh/thành, bộ/ngành được sử dụng
chủ yếu là để tài trợ, cho vay với lãi
suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất, bảo
lãnh,... đối với các tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động phát triển công
nghệ. Thực tế, mức trích lập các
quỹ còn thấp chưa đạt quy định. 
Thứ chín: Có chính sách, trong
đó có chính sách tài chính tăng
cường thu hút nguồn lực, nguồn trí
tuệ, thu hút đội ngũ trí thức người
Việt Nam ở nước ngoài. Nhà nước
Việt Nam luôn khẳng định: “Người
Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận
không tách rời và là một nguồn lực
của cộng đồng dân tộc Việt Nam,
là nhân tố quan trọng góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu
nghị giữa nước ta với các nước”.
Cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
chính sách thu hút, chế độ đãi ngộ
đối với những trí thức là người Việt
Nam ở nước ngoài có trình độ
chuyên môn cao, có năng lực quản
trị, điều hành, khả năng chuyển
giao công nghệ, kỹ thuật cho Việt
Nam. Có cơ chế, chính sách
khuyến khích các cơ sở KH&CN,
giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa,
nghệ thuật,... ở trong nước hợp tác,
trao đổi với chuyên gia, thu hút trí
thức là người Việt Nam ở nước
ngoài. Tạo điều kiện thuận lợi, để
trí thức Việt kiều sinh sống và làm
việc tại Việt Nam. Tăng cường
biểu dương, khen thưởng các tổ
chức và cá nhân người Việt Nam ở
nước ngoài có thành tích trong vận
động xây dựng cộng đồng, đóng
góp xây dựng đất nước. 
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần XII.
3. Luật Khoa học công nghệ. số
29/2013/QH13.
4. Nghị quyết 27-NQ/TW, ngày
06/8/2008.
5. Bộ Tài chính (2012), Chiến lược Tài
chính đến năm 2020, NXB Tài chính, 2012.
6. GS.TS Đinh Xuân Khoa: Cần có cơ
chế chính sách cho đội ngũ trí thức. Tạp
chí Cộng sản.
7. Trần Thị Thu Hà, Cơ chế tài chính
với KH&CN- Luận án.
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/2020 15
Nghiên cứu trao đổi

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_huy_dong_va_dau_tu_nguon_luc_tai_chinh_cho_doi_ng.pdf