Chiến lược tầm soát ca bệnh (Case-Finding) COPD nhìn từ thực tế Việt Nam

Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD đang được xem như mới tiếp cận được phần nổi của khối băng

chìm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó vấn đề phát hiện và chẩn đoán sớm là một yếu

tố then chốt. Một kế hoạch hành động tìm ca bệnh khi có cơ hội và theo dõi ngay sau đợt cấp sẽ giúp tăng

được tỷ lệ chẩn đoán để từ đó tăng hiệu quả quản lý và điều trị. Trong khi chờ các nghiên cứu đánh giá, với

thực tế ở Việt Nam, cách tiếp cận này nên được xem là hợp lý, cụ thể và có tính thực hành hiện nay.

pdf 11 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược tầm soát ca bệnh (Case-Finding) COPD nhìn từ thực tế Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến lược tầm soát ca bệnh (Case-Finding) COPD nhìn từ thực tế Việt Nam

Chiến lược tầm soát ca bệnh (Case-Finding) COPD nhìn từ thực tế Việt Nam
 Hướng dẫn tHực HànH
22
Hô hấp số 17/2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên phạm vi toàn cầu COPD là một trong số ít 
các bệnh lý có tỷ lệ tử vong đang tăng (1). Trong 
COPD, sự suy giảm chức năng và thể chất từ từ 
khiến cho các biện pháp chẩn đoán sớm và điều 
trị trị hỗ trợ dường như không được đặt ra một 
cách tích cực. Gần 50% bệnh nhân xuất viện vì 
đợt cấp COPD sẽ tử vong trong 2 năm (2). Những 
dấu hiệu như mức độ nặng của bệnh, tình trạng 
dinh dưỡng kém, bệnh tim đồng mắc, trầm cảm, 
giảm chất lượng sống, tuổi cao đã cho thấy có kết 
hợp với tiên lượng xấu (3,4). Vấn đề phát hiện sớm, 
chẩn đoán xác định, thực hiện các biện pháp điều 
trị dự phòng và điều trị sớm là giải pháp chìa khóa 
để giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong.
Các nghiên cứu cho thấy chẩn đoán COPD 
trong thực hành hàng ngày (không phải từ các 
nghiên cứu điều tra dịch tễ) thông thường là đã ở 
giai đoạn nặng và rất nặng (5-7). Dữ liệu từ Third 
National Health and Nutrition Examination Study 
(NHANES III)(5) cho thấy 63% bệnh nhân có giảm 
chức năng hô hấp nhưng không được chẩn đoán 
nguyên nhân. Nhiều trường hợp chỉ được chẩn 
đoán COPD khi đến khám vì đợt cấp (8). 
Trên tạp chí ANALSATS tháng 11 năm 
2018 có đăng bài của Ủy ban khoa học ban soạn 
thảo tài liệu GOLD với nội dung “Những tranh 
luận hiện nay về COPD” cho rằng tình trạng 
tắc nghẽn khi đo chức năng hô hấp không phản 
ánh hết bản chất bệnh học không thuần nhất của 
COPD. Hơn nữa, ngưỡng chẩn đoán tắc nghẽn 
theo quy ước có thể đã loại trừ những trường 
hợp cần chẩn đoán và điều trị (9). Với quan điểm 
như vậy, bài viết trên ANALSATS nêu trên 
cũng nhắc lại thuật ngữ “nguy cơ COPD” (pre-
COPD) mà Celli BR và cs (năm 2018) đề xuất 
CHIẾN LƯỢC TẦM SOÁT CA BỆNH (CASE-FINDING) 
COPD NHÌN TỪ THỰC TẾ VIỆT NAM
TS.BS NGUyễN VăN THÀNH 
PCT Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam
E-mail: [email protected] 
Tóm tắt 
Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD đang được xem như mới tiếp cận được phần nổi của khối băng 
chìm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó vấn đề phát hiện và chẩn đoán sớm là một yếu 
tố then chốt. Một kế hoạch hành động tìm ca bệnh khi có cơ hội và theo dõi ngay sau đợt cấp sẽ giúp tăng 
được tỷ lệ chẩn đoán để từ đó tăng hiệu quả quản lý và điều trị. Trong khi chờ các nghiên cứu đánh giá, với 
thực tế ở Việt Nam, cách tiếp cận này nên được xem là hợp lý, cụ thể và có tính thực hành hiện nay.
Abstract 
COPD case-finding strategy from realities in Vietnam
Situation of diagnosis and management of COPD is being considered as a only approach to the floating part 
of the iceberg. There are many reasons for this situation in which early detection and diagnosis are a key 
factors. An action plan to look for cases when there is an opportunity and follow up immediately after the 
acute exacerbation will help increase the diagnostic rate so as to increase the effectiveness of management 
and treatment. While waiting for evaluation studies, with the reality in Vietnam, this approach should be 
considered reasonable, concrete and current practice.
Hướng dẫn tHực HànH
23
Hô hấp số 17/2018
(10). Pre-COPD là nhưng người có triệu chứng 
lâm sàng và/hoặc hình ảnh nhưng không tắc 
nghẽn theo định nghĩa nhưng rõ ràng họ rất cần 
được theo dõi và điều trị. Mặc dù đánh giá thông 
khí phổi (spirometry) là tiêu chuẩn xác định 
COPD nhưng thực hiện thử nghiệm (test) này 
vì nhiều lý do không phải là cách để tầm soát ca 
bệnh (case-finding) nên cũng không thể áp dụng 
thường quy trong điều kiện thực hành ở tuyến 
chăm sóc sức khỏe ban đầu. Trong khi đó, một 
thực tế quan trọng là hầu hết bệnh nhân COPD 
lại có nhu cầu cần được chẩn đoán và chăm sóc 
sớm ở y tế tuyến chăm sóc ban đầu. Vậy đâu là 
giải pháp khả thi nhất với tiêu chí phát hiện và 
chẩn đoán sớm COPD. Rất nhiều nghiên cứu đã 
đi theo hướng đánh giá phương pháp tầm soát 
lâm sàng và xác định COPD bằng spirometry. 
Phương pháp tầm soát lâm sàng ca bệnh cần đơn 
giản, dễ áp dụng và có hiệu quả xác định cao 
(11). Đặc biệt, những trường hợp có triệu chứng 
hô hấp mạn tính, có nguy cơ, cần được xem là 
COPD và cần được xử trí bằng những tư vấn 
cần thiết về bỏ thuốc lá, điều trị không dùng 
thuốc và sử dụng thuốc nhằm cải thiện nhanh 
triệu chứng, được xem là trị liệu không chuyên 
biệt hay là trị liệu cơ bản, trước khi bệnh nhân 
được xác định có tắc nghẽn hay không (12). Hiện 
nay ở Việt Nam, đối với vấn đề chẩn đoán ban 
đầu, chẩn đoán sớm, chúng ta vẫn còn những 
khoảng trống: với ai?, ở đâu?, bằng cách nào? 
rất cần được xác định. Trong bối cảnh như vậy, 
những đề xuất như guideline Nga đã trích dẫn ở 
trên (12) là rất cần được xem xét áp dụng.
2. CHẨN ĐOÁN COPD Ở TUyẾN CHăM 
SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU
Giống như chẩn đoán hen, chẩn đoán COPD 
dường như được xem là công việc của bác sỹ 
chuyên khoa (13) hơn là của các thầy thuốc chăm 
sóc sức khỏe ban đầu, của bác sỹ đa khoa. Ở tuyến 
y tế ban đầu (bác sỹ đa khoa, bác sỹ gia đình) 
spirometry lại ít khi được thực hiện (14). Trong khi 
kết quả đo từ các bác sỹ đa khoa thường có lỗi và 
có khuynh hướng đánh giá dưới mức mức độ giảm 
chức năng hô hấp (15). Nhìn từ một góc độ khác, 
trên những bệnh nhân đã có chẩn đoán COPD và 
điều trị, trong một nghiên cứu ở cộng đồng năm 
2007 ở Bỉ (16), chỉ có khoảng 1/3 số bệnh nhân 
được test spirometry, trong khi các bác sỹ vẫn 
cho rằng chẩn đoán COPD như vậy là không chắc 
chắn trên một nửa số bệnh nhân. Khi phân tích 
nguyên nhân khiến cho thực hành COPD không 
được như các guideline khuyến cáo cần phải đề 
cập tới 2 khía cạnh: 1) Trở ngại thực tế khi triển 
khai spirometry trong thực hành thường quy và 2) 
Giá trị của chẩn đoán COPD không spirometry. 
Trong một nghiên cứu, các bác sỹ đa khoa cho 
rằng việc thực hiện spirometry có những trở ngại 
như sau: thiếu khả năng duy trì chất lượng hoạt 
động tốt trang thiết bị, thiếu kiến thức trong việc 
thực hiện đo, bệnh nhân không sẵn sàng thực 
hiện, tăng chi phí khám và quản lý, tăng thời gian 
khám, không đủ tự tin phân tích kết quả (17). Từ 
đó thái độ ứng xử với thực hành trong COPD như 
sau: miễn cưỡng thực hiện một chẩn đoán chính 
thức, cho rằng thuật ngữ “khí phế thũng” bệnh 
nhân không thích, nghĩ rằng COPD không phải 
là từ dễ hiểu khi giải thích cho bệnh nhân, không 
quan tâm tới sự khác biệt về spirometry giữa hen 
và COPD, lo ngại rằng kết quả sprirometry bình 
thường sẽ không khuyến khích được bỏ thuốc lá, 
xem COPD là trạng thái bệnh mạn tính cũng như 
nhiều bệnh khác và thường không phải là quan 
trọng nhất, chỉ định thuốc dựa trên đáp ứng lâm 
sàng, không cho rằng theo dõi spirometry là hữu 
ích cho bệnh nhân (17). Cũng không thể nói những 
lý giải như trên là hoàn toàn vô lý. Như vậy, nếu 
không có quy trình tiếp cận chẩn đoán một cách 
rõ ràng và hệ thống, việc chẩn đoán quá mức 
hay dưới mức là hoàn toàn có thể xảy ra. Dự án 
PLATINO thực hiện ở các nước Mỹ La-tinh (năm 
2005) phân tích trên 578 bệnh nhân được xác định 
là COPD trong đó 28,3% bệnh nhân COPD chẩn 
đoán trước đó không đúng và 15,8% bệnh nhân 
COPD không được chẩn đoán trước đó. Chỉ có 
khoảng một nửa (52,3%) số bệnh nhân được chẩn 
đoán COPD trước đó là đúng (18) (hình 1). Ở Việt 
Nam, chúng ta cũng không có cơ sở để nói rằng 
thực trạng chẩn đoán, quản lý điều trị COPD ở 
 Hướng dẫn tHực HànH
24
Hô hấp số 17/2018
cộng đồng, nhất là ở y tế tuyến chăm sóc ban đầu, 
có thể tốt hơn. Thí dụ, năm 2012, NV Thành và cs 
trong một nghiên cứu ở cộng đồng ghi nhận 89,1% 
bệnh nhân COPD không biết mình bị COPD và 
100% bệnh nhân vẫn tiếp tục hút thuốc lá (19). 
Một nghiên cứu khác ở cộng đồng năm 2016, NĐ 
Thọ ghi nhận đến 91,3% bệnh nhân COPD không 
được chẩn đoán (số liệu cá nhân, luận án tiến sỹ 
năm 2018). Chúng ta còn thiếu dữ liệu đánh giá 
thực trạng chẩn đoán COPD ở cộng đồng. Theo 
NV Nhung (năm 2011): “Chỉ có một số ít bệnh 
nhân được quản lý thích hợp và điều trị hiệu quả” 
mà nguyên nhân được cho là do có những bất cập 
của hệ thống y tế hiện nay trong đó có vai trò 
của Bảo hiểm y tế và những vấn đề giống như đã 
ghi nhận của các nước khác (như hiểu biết của 
người dân về bệnh, kiến thức và năng lực chuyên 
môn của cán bộ y tế, nhất là tuyến y tế cơ sở) (20). 
Một thực tế đáng ngại là ngay cả khi bệnh nhân 
vào đợt cấp cần nhập viện điều trị, khi xuất viện, 
thông thường bệnh nhân không có một kế hoạch 
đặt trong một hệ thống theo dõi, chẩn đoán và có 
các biện pháp điều trị thích hợp (20).
Hình 1. Tỷ lệ bệnh nhân có spirometry và đặc điểm 
chẩn đoán trước nghiên cứu PLATINO (*p <0.0001 so với 
chẩn đoán đúng, †p <0.001 so với chẩn đoán đúng).
Chiến lược tăng cường tầm soát ca bệnh 
(case finding) sẽ làm cho chẩn đoán được bệnh 
sớm, cải thiện tiên lượng điều trị nhưng sẽ làm 
tăng số bệnh nhân được quản lý và điều trị. Liệu 
làm như vậy có làm tăng gánh nặng chăm sóc y 
tế, chi phí bảo hiểm y tế ?. Theo các nghiên cứu 
ở Trung Quốc trong khoảng từ 2002-2015, chỉ 
khoảng <30% số bệnh COPD được chẩn đoán và 
khoảng 50% trong số họ được quản lý điều trị. 
Chí phí điều trị chiếm từ 33,3% tới 118,1% thu 
nhập trung bình, trong đó chủ yếu là chi phí cho 
nhập viện điều trị (21). Trong một nghiên cứu phân 
tích chi phí điều trị khi nhập viện, S.Mulpuru và 
cs (năm 2017) (22) ghi nhận bệnh càng nặng, chi 
phí điều trị càng cao mà trong đó chi phí chăm 
sóc và trị liệu thay thế do giảm chức năng (chi 
phí chăm sóc không phải là thuốc, alternate level 
of care, ALC) làm tăng chi phí nhiều nhất (OR 
23,5; CI 95% 14,1-39,2). Các tác giả này kết 
luận chẩn đoán sớm và cải thiện chăm sóc trên 
bệnh nhân mạn tính là yêu cầu bắt buộc để làm 
tăng chất lượng sống của người bệnh và giảm 
chi phí. Trong một nghiên cứu khác ở Đài Loan 
phân tích khuynh hướng sử dụng nguồn lực y 
tế và thuốc trên bệnh nhân COPD trong khoảng 
thời gian 2004-2010 (23) cho thấy số bệnh nhân 
được quản lý điều trị tăng 296% ở năm cuối 
nghiên cứu so với năm đầu nghiên cứu trong khi 
tổng chi phí điều trị lại giảm ở năm cuối so với 
năm đầu nghiên cứu. Các tác giả kết luận giảm 
chi phí là do tăng hiệu quả quản lý và điều trị ở 
cộng đồng, từ đó làm giảm chi phí nhập viện, 
điều trị ở ICU. Có một thực tế ở Việt Nam là 
tình hình nhập viện do đợt cấp COPD ngày càng 
tăng, ở cả bệnh viện chuyên khoa và đa khoa. Sẽ 
không ngạc nhiên nếu không có những tác động 
căn cơ và hệ thống, các khoa trong bệnh viện 
và ICU sẽ là “túi chứa” COPD giai đoạn cuối, 
đợt cấp COPD và các biến chứng khác trên bệnh 
nhân COPD. Kết cục là chi phí y tế sẽ ngày càng 
tăng, sức khỏe và chất lượng sống của người 
bệnh giảm như sơ đồ minh họa hình 2.
Hình 2. Sơ đồ minh họa tác động giữa chăm sóc y tế 
và chi phí trong COPD
Hướng dẫn tHực HànH
25
Hô hấp số 17/2018
3. BỆNH HọC COPD, TRIỆU CHỨNG VÀ 
CHẨN ĐOÁN SỚM
Bệnh học nền tảng COPD là viêm mạn tính, rối 
loạn chức năng bảo vệ đặc hiệu và không đặc hiệu 
dẫn đến phá hủy cấu trúc và suy giảm chức năng 
sinh lý phổi. Tình trạng bệnh diễn biến chậm, 
tăng dần nên triệu chứng thường được xem là 
bình thường, không khiến bệnh nhân quan tâm 
và đi khám bệnh cho đến khi có đợt cấp, với các 
triệu chứng nặng hơn. Tình trạng viêm tạo nên 
triệu chứng rất thay đổi, không giống nhau giữa 
người này với người khác (heterogeneous). Trên 
nền bệnh học như vậy, tính đặc hiệu của triệu 
chứng là thấp, kể cả triệu chứng khó thở gắng sức 
và khò khè (24-26) hay kết hợp nhiều triệu chứng hô 
hấp (24). Nhiều nghiên cứu đã đi theo hướng tầm 
soát những bệnh nhân có nguy cơ cao để từ đó 
xác định chẩn đoán bằng spirometry. Các yếu tố 
xác định nhóm người cần tầm soát bao gồm tuổi 
(thường từ 35-40 trở lên), hút thuốc hay có nguy 
cơ phơi nhiễm bụi nghề nghiệp, có ít nhất một 
trong các triệu chứng hô hấp kéo dài (ho, khạc 
đàm, khó thở) và thường đi khám bệnh vì nhiễm 
trùng hô hấp (27,28). Năm 2005, D.B. Price và cs (29) 
trên cơ sở một khảo sát ở cộng đồng trên những 
người hút thuốc lá chưa từng được chẩn đoán 
bệnh hô hấp, chưa từng sử dụng thuốc hô hấp đã 
xác định có 8 yếu tố có giá trị hồi quy đa biến có 
ý nghĩa trong tầm soát COPD là tuổi, số thuốc lá 
đã hút, ho, khạc đàm, ho đàm về sáng, khò khè, 
BMI và tiền sử dị ứng. Theo các tác giả giá trị 
tầm soát (diện tích dưới đường cong, AUC) của 
8 yếu tố này 0,81 với độ nhậy là 0,82 và độ đặc 
hiệu là 0,72 (hình 3). Cũng trong một khảo sát ở 
cộng đồng, NV Thành và cs (năm 2012) (19) nhận 
định cùng với các yếu tố lâm sàng như trên, nếu 
có thêm các yếu tố đã từng nhập viện cấp cứu 
vì bệnh phổi, đã sử dụng thuốc hô hấp (dãn phế 
quản, corticosteroid) thì AUC rất cao, 0,95. Trong 
nghiên cứu này các tác giả cũng đề xuất việc sử 
dụng dụng cụ đo lưu lượng đỉnh (PEF). Nếu giá 
trị PEF giảm <70% giá trị ước tính kết hợp triệu 
chứng lâm sàng AUC lên tới 0,99 (bảng 1). 
Hình 3. Đường cong ROC đối với bảng câu hỏi cuối cùng (n 
= 246). AUC=0,8158 (theo DB. Price 2005) (29)
 Bảng 1. Bảng điểm chẩn đoán COPD: CT- COPD-S (NV 
Thành và cs 2012) (19)
Câu hỏi Trả lời Điểm 
1. Từ 60 tuổi trở lên Có
Không
69
0
2. Hút thuốc lá (hoặc đã ngưng hút) từ 
15 gói-năm trở lên 
Có
Không
15
0
3. Khạc đàm (cảm giác đàm từ trong 
phổi) hàng ngày 
Có
Không
13
0
4. Mệt hơn khi gắng sức so với người 
cùng tuổi
Có
Không
31
0
5. Đã được sử dụng thuốc dãn phế quản Có
Không
23
0
6. Đã được sử dụng thuốc kháng viêm 
steroid cho bệnh phổi
Có
Không
16
0
7. Đã đi khám bệnh cấp cứu vì triệu 
chứng bệnh phổi
Có
Không
25
0
8. Đã đi nhập viện cấp cứu vì triệu 
chứng bệnh phổi
Có
Không
28
0
9. Nói ngắn hơi Có
Không
15
0
10. Thở co kéo cơ hô hấp phụ Có
Không
26
0
11. Nghe phổi thông khí giảm Có
Không
37
0
12. PEF <70% giá trị lý thuyết Có
Không
72
0
13. Xquang ngực thường quy có hình 
ảnh khí phế thũng 
Có
Không
88
0
Chẩn đoán COPD khi:
- Từ 1-11: 114 điểm 
- Từ 1- 11 + 12 hoặc 13: 210 điểm
PEF: Peak expiratory flow
 Hướng dẫn tHực HànH
26
Hô hấp số 17/2018
Những nghiên cứu đầu tiên về COPD vào 
những năm thập niên 50-60 thế kỷ 20 đã ghi nhận 
các biến đổi bệnh học, nhất là những thay đổi có 
khuynh hướng mạn tính trên đường thở và phổi 
ở người hút thuốc lá. Một kết luận quan trọng là 
đặc điểm tổn thương trên đường thở xuất hiện 
sớm và toàn bộ, trong khi khí phế thũng xuất hiện 
muộn hơn, không phải trường hợp nào cũng có và 
đặc tính khí phế thũng cũng khác so với những 
trường hợp khí phế thũng do thiếu hụt anpha
1
-
antitrypsin (30-32). Sau đó, khoảng thập niên 60 -70, 
những nghiên cứu sinh lý chức năng hô hấp của 
người hút thuốc lá đã xác định tình trạng thông 
khí tắc nghẽn và vị trí tăng trở kháng đường thở 
đưa đến triệu chứng hô hấp. Cũng vào thời điểm 
đó, COPD được định nghĩa là tình trạng tắc nghẽn 
với hình ảnh chức năng đặc biệt là giảm FEV
1
 và 
giảm tỷ lệ FEV
1
/FVC (33,34). Macklem PT và cs 
(năm 2010) (35) cho rằng những thay đổi sớm nhất 
trong COPD là giảm FVC do hiện tượng khí cạm 
hơn là giảm FEV 
1
. Hiện tượng này gây ra do thu 
hẹp c ... gay từ đợt cấp đầu 
tiên: Như vậy, để tầm soát ca bệnh cơ hội, với 
triệu hô hấp cấp tính đi khám hoặc nhập viện cấp 
cứu ở những bệnh nhân có nguy cơ cao COPD, 
thầy thuốc cần sử dụng bảng câu hỏi hoặc tối thiểu 
là xác định các yếu tố nguy cơ, khám và thực hiện 
các xét nghiệm có sẵn để chẩn đoán COPD. Sẽ có 
2 tình huống: 1) Ở các phòng khám chuyên khoa 
hoặc nhập viện điều trị và 2) Ở các phòng khám 
đa khoa và ngoại trú. 
Hình 6. Sơ đồ tiếp cận phát hiện và chẩn đoán sớm COPD từ 
đợt cấp ở các cơ sở y tế chuyên khoa hoặc nhập viện cấp cứu 
Ở các phòng khám chuyên khoa, hoặc bệnh viện, 
bằng khám và xét nghiệm nếu không có một chẩn 
đoán nào cần phân biệt (nhất là suy tim, lao phổi, 
hen) thì bệnh nhân cần được chẩn đoán lâm sàng 
COPD khi tuổi từ 40 trở lên, hút thuốc lá, có 
triệu chứng hô hấp mạn tính. Các hướng dẫn điều 
trị không sử dụng thuốc (như tư vấn bỏ thuốc lá, 
dinh dưỡng, vận động, vaccin, tránh phơi nhiễm) 
cần thực hiện ngay khi có chẩn đoán lâm sàng. 
Ngay sau trị liệu đợt cấp (5-7 ngày điều trị) hay 
khi xuất viện, cần thực hiện spirometry để xác 
định chẩn đoán COPD này. Nếu spirometry có 
tình trạng tắc nghẽn cố định (FEV
1
/FVC <70% 
sau thuốc dãn phế quản), cần có kế hoạch quản lý 
và điều trị COPD duy trì trong 12 tháng tiếp theo. 
Trong trường hợp như vậy việc quản lý và điều 
trị cần theo hướng bệnh nhân COPD có nhiều đợt 
cấp như GOLD đề xuất (56). Spirometry cần thực 
hiện lại sau mỗi 3 tháng quản lý và điều trị. Nếu 
bệnh nhân vẫn tiếp tục hút thuốc lá và/hoặc phơi 
nhiễm với khói bụi thì dù giá trị FEV
1
/FVC ≥70% 
cũng nên theo dõi đến hết 12 tháng mới xác định 
nên hay không nên tiếp tục điều trị duy trì COPD 
vì nhiều trường hợp tình trạng tắc nghẽn có thể 
đạt điểm cắt sau nhiều lần spirometry nếu bệnh 
nhân tiếp tục hút thuốc lá và/hoặc phơi nhiễm (57). 
Hình 6 thể hiện sơ đồ quản lý và điều trị để phát 
hiện và chẩn đoán sớm COPD ngay sau đợt cấp ở 
các phòng khám chuyên khoa hoặc bệnh viện cho 
những bệnh nhân chưa được chẩn đoán COPD 
trước đó.
Đối với bệnh nhân đến khám ngoại trú vì 
triệu chứng hô hấp tại các cơ sở y tế không chuyên 
khoa, bằng khám và ít nhất với hình ảnh Xquang 
ngực nếu không có một chẩn đoán nào cần phân 
biệt (nhất là suy tim, lao phổi, hen) thì bệnh nhân 
cần được chẩn đoán lâm sàng COPD khi: Từ 
40 tuổi trở lên, hút thuốc lá, có triệu chứng hô 
hấp mạn tính. Các hướng dẫn điều trị không sử 
dụng thuốc (thí dụ như dinh dưỡng, vận động, 
vaccin, tránh phơi nhiễm) cần thực hiện ngay khi 
có chẩn đoán lâm sàng. Ngay sau trị liệu đợt cấp 
(5-7 ngày) cần đo lưu lượng đỉnh (PEF) (hoặc 
spirometry nếu có thể) để xác định chẩn đoán 
COPD. Nếu PEF (hoặc spirometry) có tình trạng 
tắc nghẽn (PEF <70% hoặc FEV
1
/FVC <70%), 
cần có kế hoạch quản lý và điều trị COPD duy trì 
 Hướng dẫn tHực HànH
30
Hô hấp số 17/2018
trong 12 tháng tiếp theo. Trong trường hợp này 
việc quản lý và điều trị cần theo hướng bệnh nhân 
COPD có nhiều đợt cấp như GOLD đề xuất (56) 
nếu bệnh nhân có ít nhất 1 lần đi khám trong 3 
tháng trước hoặc 1 lần phải vào nhập viện điều trị 
vì triệu chứng hô hấp trong 12 tháng trước. Hình 
4 thể hiện sơ đồ quản lý và điều trị để phát hiện và 
chẩn đoán sớm COPD ngay sau đợt cấp ở các cơ 
sở y tế không chuyên khoa cho những bệnh nhân 
chưa được chẩn đoán COPD trước đó.
KẾT LUẬN
Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD đang 
được xem như mới tiếp cận được phần nổi của 
khối băng chìm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến 
tình trạng này trong đó vấn đề phát hiện và chẩn 
đoán sớm là một yếu tố then chốt. Một kế hoạch 
hành động tìm ca bệnh khi có cơ hội và theo dõi 
ngay sau đợt cấp sẽ giúp tăng được tỷ lệ chẩn 
đoán để từ đó tăng hiệu quả quản lý và điều trị. 
Trong khi chờ các nghiên cứu đánh giá, với thực 
tế ở Việt Nam, cách tiếp cận này nên được xem là 
hợp lý, cụ thể và có tính thực hành hiện nay.
Hình 4. Sơ đồ tiếp cận phát hiện và chẩn đoán sớm COPD từ đợt cấp đến khám ngoại trú ở các cơ sở y tế không chuyên khoa 
Tài liệu tham khảo
1. Mannino DM, Buist AS. Global burden of COPD: 
risk factors, prevalence, and future trends. Lancet 
2007;370:765-73.
2. Connors AF, Dawson NV, Thomas C, Harrell F, Desbiens 
N,Fulkerson WJ, et al. Outcomes following acute 
exacerbation of chronic obstructive lung disease. The 
SUPPORT investigators. Am J Respir Crit Care Med 
1996;154:959-67.
3. Connors AF, Dawson NV, Thomas C, Harrell F, Desbiens 
N, Fulkerson WJ, et al. Outcomes following acute 
exacerbation of chronic obstructive lung disease. The 
SUPPORT investigators. Am J Respir Crit Care Med 
1996;154:959-67.
4. Almagro P, Calbo E, de Echagüen AO, Quintana BBS, 
Heredia JL, Garau J. Mortality after hospitalization for 
COPD. Chest 2002;121;1441
5. Mannino DM, Gagnon RC, Petty TL, Lydick E. 
Obstructive lung disease and low lung function in 
adults in the United States: data from the National 
Health and Nutrition Examination Survey, 1988-
1994. Arch Intern Med. 2000;160(11):1683-1689. 
6. Hvidsten SC, Storesund L, Wentzel-Larsen T, Gulsvik 
A and Lehmann S. Prevalence and predictors of 
undiagnosed chronic obstructive pulmonary disease 
in a Norwegian adult general population. The Clinical 
Respiratory Journal 2010; 4: 13–21.
Hướng dẫn tHực HànH
31
Hô hấp số 17/2018
7. Hvidsten SC, Storesund L, Wentzel-Larsen T, Gulsvik 
A and Lehmann S. Prevalence and predictors of 
undiagnosed chronic obstructive pulmonary disease 
in a Norwegian adult general population. The Clinical 
Respiratory Journal 2010; 4: 13–21.
8. Roche N, Gaillat J, Garre M, et al. Acute respiratory 
illness as a trigger for detecting chronic bronchitis 
in adults at risk of COPD: a primary care survey. 
Prim Care Respir J. 2010;19(4):371- 377. Doi: 
9. Gerard J. Criner, Fernando J. Martinez, Shawn Aaron 
et al. Current Controversies in Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease: A Report from the GOLD Scientific 
Committee. ANNALSATS Articles in Press. Published 
on 14-November-2018 as 10.1513/AnnalsATS.201808-
557PS
10. Bartolomé R. Celli, Alvar Agustí.COPD: time to improve 
its taxonomy?. ERJ Open Res 2018; 4: 00132-2017 
[https://doi.org/10.1183/23120541.00132-2017].
11. Han MK, Steenrod AW, Bacci ED, et al for the High-
Risk-COPD Screening Study Group. Identifying 
patients with undiagnosed COPD in primary 
care settings: Insight from screening tools and 
epidemiologic studies. J COPD F. 2015; 103-121. 
12. Russian guidelines for the management of COPD: 
algorithm of pharmacologic treatment. International 
Journal of COPD 2018:13 183–187
13. MJ Abramson et al. Accuracy of asthma and COPD 
diagnosis in Australian general practice: a mixed 
methods study. Prim Care Respir J 2012; 21(2): 167-173
14. Matheson MC, Abeysena C, Raven JM, et al. How 
have we been managing chronic obstructive pulmonary 
disease in Australia? Intern Med J 2006;36(2):92-9.
15. den Otter JJ, de Bruyn-Schmidt MA, Wolters MJ, et 
al. Lung function measurement in general practice. 
General practice measurements compared with 
laboratory measurements during the DIMCA trial. Fam 
Pract 2000; 17(4):314-16. 
fampra/17.4.314
16. Buffels J, Degryse J, Liistro G. Diagnostic certainty, co-
morbidity and medication in a primary care population 
with presumed airway obstruction: the DIDASCO2 study. 
Prim Care Respir J 2009;18(1):34-40.  
10.3132/pcrj.2008.00047
17. Julia AE Walters, Emily Hansen, Peter Mudge et al. 
Barriers to the use of spirometry in general practice. 
Australian Family Physician Vol. 34, No. 3, March 2005
18. Menezes AM, Perez-Padilla R, Jardim JB, et al. Chronic 
obstructive pulmonary disease in five Latin American 
cities (the PLATINO study): a prevalence study. Lancet 
2005; 366:1875–1881
19. Nguyễn Văn Thành, Cao Thị Mỹ Thúy, Võ Phạm Minh 
Thư và cs. Xây dựng mô hình hệ thống quản lý và điều 
trị hiệu quả COPD và Hen phế quản trong bệnh viện và 
ở cộng đồng. NXB Y Học 2012, tr. 57-69
20. NV Nhung. Giải pháp cho quản lý hen và bệnh phổi tắc 
nghẽn mạn tính ở Việt Nam. Tạp chí Lao và bệnh phổi 
số 3. 4/2011
21. Bifan Zhu, Yanfang Wang, Jian Ming et al. Disease 
burden of COPD in China: a systematic review. 
International Journal of COPD 2018:13 1353–1364
22. Sunita Mulpuru, Jennifer McKay, Paul Eronksley et 
al. Factors contributing to high-cost hospital care for 
patients with COPD. International Journal of COPD 
2017:12 989–995
23. Ying-Huang Tsai, Tsung-Ming Yang, Chieh-Mo Lin 
et al. Trends in health care resource utilization and 
pharmacological management of COPD in Taiwan from 
2004 to 2010. International Journal of COPD 2017:12 
2787–2793
24. Nathalie Saad, Maria Sedeno, KatrinaMetz et al. Early 
COPD Diagnosis in Family Medicine Practice: How to 
Implement Spirometry? International Journal of Family 
Medicine Volume 2014, Article ID 962901, 
org/10.1155/2014/962901
25. Hani A. Jokhdar, Mohammed A. Garout, Mohammad 
M. Alkot et al. Early Detection of Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease (COPD) in Family Practice. Journal 
of Family Medicine and Health Care 2017; 3(1): 1-5 
26. Keiichiro Akamatsu, Toshiyuki Yamagata, Yohei Kida 
et al. Poor Sensitivity of Symptoms in Early Detection 
of COPD. COPD: Journal of Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease, 2008, 5:269–273
27. Ulla Borup Hemmingsen, Margit Stycke, Jens Dollerup 
et al. Guideline-Based Early Detection of Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease in Eight Danish 
Municipalities: The TOP-KOM Study Hindawi Pulmonary 
Medicine Volume 2017, Article ID 7620397.
28. Janelle M. Guirguis-Blake, Caitlyn A. Senger, Elizabeth 
M. Webber et al. Screening for Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease: A Systematic Evidence Review 
for the U.S. Preventive Services Task Force. AHRQ 
Publication No. 14-05205-EF-1 April 2016
29. David B. Price, David G. Tinkelman, R.J. Halbert et al. 
Symptom-Based Questionnaire for Identifying COPD in 
Smokers
30. Anderson DO, Ferris BG. Role of Tobacco Smoking 
in the Causation of Chronic Respiratory Disease. N 
Engl J Med 1962;267:787-94.
31. Dunnill MS. The classification and quantification of 
emphysema. Proceedings of the Royal Society of 
Medicine 1969;62:1024-7. 
 Hướng dẫn tHực HànH
32
Hô hấp số 17/2018
32. Flotte TR, Mueller C. Gene therapy for alpha-1 
antitrypsin deficiency. Hum Mol Genet 2011;20:R87-92.
33. Macklem PT. The physiology of small airways. Am 
J Respir Crit Care Med 1998;157:S181-3. 
34. Macklem PT. A Century of the Mechanics of 
Breathing. Am J Respir Crit Care Med 2004;170:10-
5.
35. Macklem PT. Therapeutic implications of 
the pathophysiology of COPD. Eur Respir J 
2010;35:676-80.
36. Schermer TR, Quanjer PH. COPD screening in 
primary care: who is sick? Prim Care Respir J 
2007;16:49-53.
37. Toelle BG, Xuan W, Bird TE, et al. Respiratory 
symptoms and illness in older Australians: the 
Burden of Obstructive Lung Disease (BOLD) study. 
Med J Aust 2013;198:144-8.
38. Walters JA, Walters EH, Nelson M, et al. Factors 
associated with misdiagnosis of COPD in primary 
care. Prim Care Respir J 2011;20:396-402. 
39. Zwar NA, Marks GB, Hermiz O, et al. Predictors 
of accuracy of diagnosis of chronic obstructive 
pulmonary disease in general practice. Med J Aust 
2011;195:168-71.
40. David P. Johns, Julia A.E. Walters, E. Haydn Walters. 
Diagnosis and early detection of COPD using spirometry. 
J Thorac Dis 2014;6(11):1557-1569
41. Van Schayck CP, Loozen JM, Wagena E, et al. 
Detecting patients at a high risk of developing 
chronic obstructive pulmonary disease in general 
practice: cross sectional case finding study. BMJ 
2002;324:1370. 
42. Sichletidis L, Spyratos D, Papaioannou M, Chloros D, 
Tsiotsios A, Tsagaraki V, Haidich A. A combination of the 
IPAG questionnaire and PiKo-6® flow meter is a valuable 
screening tool for COPD in the primary care setting. Prim 
Care Respir J 2011;20(2):184-189
43. Haroon S, Adab P, Griffin C, et al. Case finding for 
chronic obstructive pulmonary disease in primary 
care: a pilot randomised controlled trial. Br J Gen 
Pract 2013;63:e55-62.
44. Frith P, Crockett A, Beilby J, et al. Simplified COPD 
screening: validation of the PiKo-6 in primary care. 
Prim Care Respir J 2011;20:190-8.
45. Guirguis-Blake JM, Senger CA, Webber EM, Mularski 
R, Whitlock EP. Screening for Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease: A Systematic Evidence Review 
for the U.S. Preventive Services Task Force. Evidence 
Synthesis No. 130. AHRQ Publication No. 14-05205-EF-
1. Rockville, MD: Agency for Healthcare Research and 
Quality; 2016. 
46. Kaplan A, Thomas M. Screening for COPD: the gap 
between logic and evidence. Eur Respir Rev 2017; 26: 
160113 [https://doi.org/10.1183/16000617.0113-2016].
47. Prieto Centurion et al.: Confirmatory spirometry for 
adults hospitalized with a diagnosis of asthma or chronic 
obstructive pulmonary disease exacerbation. BMC 
Pulmonary Medicine 2012 12:73.
48. Pozo-Rodrı´guez F, Lo´pez-Campos JL, A´ lvarez-
Martı´nez CJ, Castro-Acosta A, Agu¨ ero R, et al. (2012) 
Clinical Audit of COPD Patients Requiring Hospital 
Admissions in Spain: AUDIPOC Study. PLoS ONE 7(7): 
e42156. doi:10.1371/journal.pone.0042156
49. Alexandra Enocson, Kate Jolly, Rachel Elizabeth Jordan 
et al. Case-finding for COPD in primary care: a qualitative 
study of patients’ perspectives. International Journal of 
COPD 2018:13 1623–1632
50. Anamika Jithoo, Paul L. Enright, Peter Burney et al. 
Case-finding options for COPD: results from the Burden 
of Obstructive Lung Disease Study. Eur Respir J 2013; 
41: 548–555 
51. Shamil Haroon, Peymane Adab, Carl Griffin and Rachel 
Jordan. Case finding for chronic obstructive pulmonary 
disease in primary care: a pilot randomised controlled 
trial. Br J Gen Pract 2013; DOI: 10.3399/bjgp13X660788
52. Rachel E Jordan, Kin-bong Hubert Lam, Kar Keung 
Cheng et al. Case finding for chronic obstructive 
pulmonary disease: a model for optimising a targeted 
approach. Thorax. 2010 June ; 65(6): 492–498. 
doi:10.1136/thx.2009.129395
53. Vaya Konstantikaki , Konstantinos Kostikas, Markos 
Minas et al. Comparison of a network of primary care 
physicians and an open spirometry programme for 
COPD Diagnosis. Respiratory Medicine (2011) 105, 
274e281
54. Rachel E Jordan, Peymané Adab, Alice Sitch, Alexandra 
Enocson et al. Targeted case fi nding for chronic 
obstructive pulmonary disease versus routine practice in 
primary care (TargetCOPD):
a cluster-randomised controlled trial. Lancet Respir Med 
2016; 4: 720–30
55. Homer Boushey, Paul Enright, Jonathan Samet. 
Spirometry for Chronic Obstructive Pulmonary Disease 
Case Finding in Primary Care?. Am J Respir Crit Care 
Med Vol 172. pp 1481–1486, 2005
56. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease 
(report 2019)
57. Tjard R Schermer, Bas Robberts, Alan J Crockett et al. 
Should the diagnosis of COPD be based on a single 
spirometry test?. npj Primary Care Respiratory Medicine 
(2016) 26, 16059

File đính kèm:

  • pdfchien_luoc_tam_soat_ca_benh_case_finding_copd_nhin_tu_thuc_t.pdf