Chiến lược chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng thuyên tắc tĩnh mạch sâu
Thuyên tắc do huyết khối tĩnh mạch (DVT) là
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở bệnh nhân nội
trú. Tuổi là yếu tố nguy cơ tích lũy, do đó số bệnh
nhân mắc phải huyết khối tĩnh mạch tăng theo độ tuổi.
Cách đây 150 năm, Rudolf Virchow đã mô tả tam
chứng kinh điển các yếu tố dẫn tới huyết khối tĩnh
mạch
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng thuyên tắc tĩnh mạch sâu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến lược chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng thuyên tắc tĩnh mạch sâu
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 18 CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU Trần Minh Bảo Luân* Nguyễn Hoài Nam* Thuyên tắc do huyết khối tĩnh mạch (DVT) là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở bệnh nhân nội trú. Tuổi là yếu tố nguy cơ tích lũy, do đó số bệnh nhân mắc phải huyết khối tĩnh mạch tăng theo độ tuổi. Cách đây 150 năm, Rudolf Virchow đã mô tả tam chứng kinh điển các yếu tố dẫn tới huyết khối tĩnh mạch 1. Tình trạng bất động : Người ta nhận thấy những bệnh nhân trải qua giai đoạn bất động kéo dài có tình trạng ứ trệ tĩnh mạch ở chi dưới. Điều này được xác nhận qua hình ảnh x quang, đo đạc lưu lượng máu tĩnh mạch đùi và các kỹ thuật đồng vị phóng xạ. Những xoang soleal (bên trong các lá van) có tình trạng bất động do nằm sâu nhất, nhiều nghiên cứu phẫu tích cho thấy đây là vị trí chính của huyết khối tĩnh mạch. Khi có sự giảm vận tốc hồi lưu tĩnh mạch sẽ làm kéo dài thời gian tiếp xúc của các tiểu cầu hoạt hóa và yếu tố đông máu với thành tĩnh mạch, cho phép tạo huyết khối. Chỉ riêng yếu tố bất động không là yếu tố nguy cơ độc lập cho huyết khối tĩnh mạch sâu tuy nhiên là yếu tố thuận lợi khi có hiện diện các yếu tố khác. 2. Tình trạng tăng đông : Ảnh hưởng của tình trạng tăng đông và có yếu tố bất động đã được mô tả bởi Stead. Tăng nguy cơ huyết khối có lien quan với tăng hoạt động tiền đông máu trong huyết tương, gồm có tăng số lượng tiểu cầu và chất kết dính, biến đổi trong dòng thác đông máu, và hoạt hóa phân giải fibrin nội sinh. Tình trạng tăng đông và bất động đã được công nhận rộng rãi là một phần trong cơ chế bệnh nguyên của DVT sau mổ. Vai trò của tổn thương thành tĩnh mạch trong việc hình thành huyết khối trước đây lại ít được quan tâm, tuy nhiên những nghiên cứu đã cho thấy tổn thương mô mềm có thể lien quan đến thương tổn thành tĩnh mạch và gây huyết khối. 3. Tổn thương (nội mô) thành tĩnh mạch : Để nghiên cứu thương tổn nội mô tĩnh mạch xuất hiện trên các tịnh mạch xa so với vị trí phẫu thuật, người ta đã thực nghiệm trên động vật trong hai loại phẫu thuật bụng và thay khớp hang toàn phần. Khi quan sát các tĩnh mạch trên động vật được mổ thay khớp toàn phần, người ta thấy các tĩnh mạch gần khi vực phẫu thuật bị tổn thương lớp nội mô nhiều hơn, dường như điều này đã làm tang nồng độ tại chỗ của các amines vận mạch sinh ra tại vết thương. Những quan sát này đưa ra giả thuyết là các chất trong dòng máu được sản sinh tại vị trí phẫu thuật đi vào tuần hoàn qua các mao mạch và hệ bạch huyết, tác động lên các tĩnh mạch xa. Những chất này có thể ảnh hưởng lên tiểu cầu và bạch cầu, cũng như tác động trực tiếp (hay tác động gián tiếp thông qua hóa chất trung gian) lên các cơ trơn mạch máu. Quan điểm này được đánh giá trên người khi tĩnh mạch đầu trên người bệnh nhân thay khớp hang toàn phần được theo dõi bằng siêu âm lên tục sau mổ, và tất ca bệnh nhân sau mổ đều được theo dõi bằng tĩnh mạch đồ hướng lên. Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên để tiêm các yếu tố trợ tĩnh mạch, dihydroergotamine, cộng heparin hay giả dược trước và sau mổ. Nghiên cứu này được mổ rộng ra với bệnh nhân thay khớp gối toàn phần. Những dấu chứng này cho thấy sự dãn tĩnh mạch đầu trên con số quy ước có lien quan với sự hình thành huyết khối tĩnh mạch sâu được theo dõi bằng tĩnh mạch đồ. * Tuy nhiên huyết khối tĩnh mạch sâu thường xuất hiện tại vị trí có phẫu thuật và hiếm khi xuất hiện ở chân đối bên. Các quan sát của Kakkar [1] và cộng sự, trong một thử nghiệm đa trung tâm, đã chứng tỏ khi bổ sung các yếu tố trợ tĩnh mạch, dihydroergotamine, hearin không phân đoạn liều thấp giúp tăng hiệu quả đáng kể phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu. Dù đã 150 năm nhưng tam chứng Virchow vẫn còn giá trị. Tình trạng bất động và tăng đông xảy ra trên bệnh nhân được phẫu thuật, và nay người ta đã * Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS TS Nguyễn Hoài Nam Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014 Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ PGS.TS. Lê Ngọc Thành CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU 19 biết rằng tổn thương nội mô tĩnh mạch cũng xuất hiện trên nhiều bệnh nhân, đặc biết trên nhóm có mổ lớn. CHẨN ĐOÁN: Ơ Mỹ hàng năm có hơn 1 triệu bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch sâu được chẩn đoán, là nguyên nhân của gần 50000 đến 200000 trường hợp tử vong do thuyên tác phổi. Hội chứng hậu huyết khối là biến chứng dài hạn gây tăng bệnh tật và chi phí điều trị, dẫn tới tổn hại van tĩnh mạch và tắc nghẽn dai dẳng. Nguy cơ thuyên tắc phổi và hội chứng hậu huyết khối tăng lên trên những bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch sâu tái diễn. Do huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát có vẻ thường xuất hiện trên những bệnh nhân chưa được điều trị thoả đáng hoặc có huyết khối dai dẳng Khám thực thể : Biểu hiện lâm sàng của huyết khối tĩnh mạch sâu cấp tính rất thay đổi từ không triệu chứng cho đến biểu hiện nặng nề như phlegmasia dolens ( phù tím gây đau) và hoại thư tĩnh mạch. Biểu hiện đa dạng đó là kết quả của nhiều quy trình bệnh lý , với nhiều mốc thời gian và độ nặng khác nhau xuất hiện trong các đợt huyết khối cấp. Sự phân bố của đoạn tĩnh mạch thuyên tắc, mức độ tắc trên mỗi nhánh, thời gian hình thành huyết khối, mức độ trầm trọng của viêm, chức năng của hệ bạch huyết, tình trạng suy tĩnh mạch và bạch huyết tồn tại trước đó và còn nhiều yếu tố khác quyết định biểu hiện triệu chứng tại thời điểm bệnh nhân đến khám. Các triệu chứng có xu hướng trầm trọng hơn khi DVT đoạn gần và nhiều nhánh, ít trầm trọng hơn khi huyết khối tĩnh mạch vùng bắp chân và trên bệnh nhân hậu phẫu và lớn tuổi. Triệu chứng phổ biến nhất của DVT là đau âm ỉ hoăc nhức chân, căng cứng, sưng, hồng ban, tím da, và sốt. Phù, tím da, và đau là các đặc tính của phù tím đau tĩnh mạch ( phlegmasia dolens) Hoại thư tĩnh mạch là tình trạng hiếm, thường xuất hiện trên bệnh nhân ung thư, có thể xuất hiện cùng giảm tiểu cầu do heparin với tình trạng huyết khối, và thường có kèm theo sự thiếu hụt protein C qua trung gian warfarin. Các đặc điểm giúp chẩn đoán DVT và sự kết hợp triệu chứng đã được nghiên cứu kỹ. Triệu chứng phổ biến nhất là đau chân được báo cáo có độ nhạy thay đổi từ 75% đến 91% và độ đặc hiệu giữa 3% và 87%. Báo cáo về độ đặc hiệu của sưng bắp chân trong chẩn đoán DVT từ 8% đến 88%. Sự dao động lớn này do những bệnh nhân không DVT cũng có các triệu chứng tương tự.[2] Sự chênh lệch về chu vi bắp chân dưới 2 cm có giá trị tiên đoán âm là 85% trên bệnh nhân ngoại trú và 93% trên bệnh nhân nội trú trong nghiên cứu của Criado và Burnham. Trên những đối tượng nguy cơ cao thì giá trị của các triệu chứng này cũng cao hơn. Ví dụ, trên bệnh nhân ung thư, giá trị tiên đoán âm khi không có triệu chứng sưng chân là khoảng 97% đối với bn ngoại trú và 92% trên nhóm nội trú [3]. Khi áp dụng cách tiếp cận này theo hướng hồi cứu, các tác giả phát hiện chẩn đoán DVT, hay tình trạng tăng đông có thể đã bị bỏ sót trên 3 trong số 610 bệnh nhân ngoại trú và 15 trong số 916 bệnh nhân nội trú. Một số nghiên cứu khác đã chứng tỏ đau khớp đơn độc và viêm mô tế bào hầu như không hề có liên đới với tình trạng DVT. Bệnh nhân nội trú / Bệnh nhân ngoại trú Tóm lại, nếu chẩn đoán DVT chỉ nhờ triệu chứng, dấu chứng và yếu tố nguy cơ vẫn còn là biện pháp chưa có độ chính xác cao. Với các tiến bộ trong y khoa, khuynh hướng chẩn đoán DVT hiện nay đòi hỏi nhà lâm sang phải có khả năng đề nghị trình tự xét nghiệm sao cho hiệu quả. CẬN LÂM SÀNG D-Dimer Nồng độ D - dimer trong huyết tương được sủ dụng trong chẩn đoán DVT. D-Dimer là một sản phẩm trong quá trình phân giải fibrin bởi plasmin; tăng hàm lượng chất này có ý nghĩa là quá trình phân giải fibrin đang chiếm ưu thế. Nó thường hiện diện trong các tình huống có tổn thương như phẫu thuật hay chấn thương , cũng như trong các tình huống thay đổi sinh lý trong thai kỳ, hay bệnh lý như ung thư hay rối loạn di truyền. Mức độ tăng D- Dimer trong bệnh lý DVT thay đổi tuỳ theo kích thước và mức độ lan rộng của huyết khối, thời điểm từ lúc khởi phát, và việc dùng kháng đông. Độ nhạy của D- Dimer từ 60-96 % [4]. Độ đặc hiệu thấp giới hạn việc sủ dụng D-Dimer trên bệnh nhân nghi ngờ có huyết khối. Tuy nhiên khi nông độ D-Dimer dưới giá trị cut off có ý nghĩa ít nguy cơ DVT, nó không loại trừ hoàn toàn, nhất là trong trường hợp huyết khối xa PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 20 tim, có dung kháng đông, hay khoảng thời gian dài từ lúc khới phát đến khi xét nghiệm. Tương tự với đánh giá lâm sang, nếu chỉ sử dụng D-Dimer để chẩn đoán dễ đưa đến sai lầm trong khoảng 15% bệnh nhân nghi ngờ DVT [5]. Siêu âm Duplex Siêu âm Duplex vẫn là phương tiện được ưu tiên hang đầu trong việc phát hiện DVT. Nó hầu như thay thế hoàn toàn cho venography do độ chính xác cao, không có tia xạ, linh động, không xâm lấn và tương đối rẻ. Ngoài ra siêu âm còn có khả năng phân biệt với các bệnh lý khác như bệnh lý hạch vùng bẹn, nang Baker, áp xe và tụ máu. Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho DVT là tăng phản âm trong long mạch, tang đường kính tĩnh mạch, tĩnh mạch không bị xẹp khi đè vừa phải bằng đầu dò, không có dòng chảy tự phát, không có tang lưu lượng khi ép đầu xa. Giữa các yếu tố này, tiêu chuẩn không đè xẹp được dung rộng rãi để chẩn đoán DVT, riêng đặc điểm này có độ nhạy và độ đặc hiệu là 97% và 94% đối với DVT đoạn gần.[6] Giới hạn của tiêu chuẩn đè xẹp là kém hiệu quả với tĩnh mạch bắp chân. Khi kết hợp đánh giá lưu lượng tĩnh mạch với Doppler màu và Doppler phổ có thể tang độ chính xác của siêu âm có đè xẹp Do nguy cơ lan tràn của huyết khối trên bệnh nhân DVT mặc dù đã được điều trị bằng kháng đông, người ta ủng hộ việc siêu âm lặp lại. Siêu âm kiểm tra lại sau 7 đến 14 ngày sau khi khởi trị có thể làm giảm tỉ lệ biến chứng do huyết khối thuyên tắc còn 1% trong 3 tháng theo dõi so với 2,5% khi không làm thêm xét nghiệm.[7] Sai sót mắc phải khi đọc duplex gồm có : định danh sai tĩnh mạch, bệnh lý hệ thống hay giảm thể tích làm giảm sự giãn nở tĩnh mạch, bệnh nhân béo phì hay bị phù, những vùng khó đè ép như tĩnh mạch chậu, tĩnh mạch đùi ở chỗ vòng gân cơ khép, và tĩnh mạch dưới đòn, ngoài ra còn phụ thuộc tay nghề bác sĩ siêu âm. Dù cho hiệu quả cao, Duplex cũng có những giới hạn. Một phân tích tổng hợp cho thấy độ nhạy của đè ép trên siêu âm để phát hiện DVT đoạn gần và xa là 94.2% và 63.5%, dẫn đến độ nhạy chung là 91% với độ đặc hiệu 93.8% [8]. Trên bệnh nhân có điểm số Wells cao, độ nhạy là 91% với độ đặc hiệu 100%, trong khi đó độ nhạy và đặc hiệu là 61% và 99% trên bệnh nhân có điểm số Wells trung bình và 67% và 98% ở nhóm điểm số Wells thấp. Trên bệnh nhân không triệu chứng, độ nhạy của duplex trong chẩn đoán DVT gần và xa là 66.7% và 39% với độ đặc hiệu gộp là 96,5%. Những con số này cho thấy sử dụng Duplex trên bệnh nhân nguy cơ thấp có thể dẫn tới kết quả dương giả đáng kể. Trên bệnh nhân có triệu chứng, Duplex có thể tin cậy để loại trừ DVT đoạn gần chứ không phải đoạn xa, và trên bệnh nhân không triệu chứng, dung siêu âm để loại trừ DVT vẫn còn là điều gây tranh cãi [9] Plethysmography : Kỹ thuật này cho phép đánh giá ảnh hưởng của huyết khối trên dòng chảy tĩnh mạch với độ đặc hiệu từ 84% đến 93% và độ nhạy thay đổi từ 69% đến 89%.[10] Kỹ thuật đo sự thay đổi thể tích để đánh giá tắc nghẽn tĩnh mạch được thực hiện bằng cách dung túi hơi bó quanh đùi được bơm lên tới áp lực cao hơn áp lực tĩnh mạch của bệnh nhân, điều này cho phép đổ đầy lòng tĩnh mạch chân. Áp lực tĩnh mạch trung ương ở điểm này xem như bằng zero và áp lực trong tĩnh mạch chân bằng với áp lực trong túi hơi. Khi xả nhanh túi hơi, thay đổi trong thể tích ở chân phản ánh tỉ lệ lưu lượng trong tĩnh mạch. Cùng với độ chênh lệch áp lực đã biết, tỉ lệ này cho phép tính được kháng trở của dòng chảy tĩnh mạch. Do túi hơi được bơm ở đùi, chẩn đoán bằng phương pháp này vẫn còn là một vấn đề đối với huyết khối ở bắp chân. Do đánh giá dòng tĩnh mạch về có thể bị ảnh hưởng bởi mức độ thoát lưu qua bàng hệ, kĩ thuật này vẫn còn chưa đủ nhạy trong việc đánh giá các tĩnh mạch sâu. Tĩnh mạch đồ : Tĩnh mạch đồ cản quang đã từng rất được quan tâm trong việc chẩn đoán DVT, nhưng càng ngày càng ít giá trị trong việc điều trị, do tính hữu ích, chính xác và an toàn ưu thế hơn của siêu âm. Xét nghiệm này tương dối mắc tiền và bất tiện hơn so với các phương pháp khác. Một số biến chứng có thể xảy ra là độc thận, dị ứng cản quang, viêm tĩnh mạch, và phải mở đường truyền tĩnh mạch. Tuy nhiên, tĩnh mạch đồ có thể hữu ích khi các phương tiện chẩn đoán khác vẫn chưa cung cấp bằng chứng vững chắc cho chẩn đoán CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU 21 Dù tĩnh mạch đồ cản quang còn nhiều bất lợi nhưng vẫn đươc xem như tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán DVT. So sánh tĩnh mạch đồ cản quang với Duplex và dùng D-dimer để xác nhận tình trạng huyết khối cho thấy độ nhạy và độ chuyên của tĩnh mạch đồ là 96% và 91%, đối với duplex là 78% và 97% [11]. Hơn nữa, trong một nghiên cứu tương tự, DVT cấp vùng bắp chân được chẩn đoán ra chỉ trong 74% bệnh nhân đã được chẩn đoán dương với tĩnh mạch đồ. Tương tự, Ozbudak và cộng sự cho thấy tĩnh mạch đồ cản quang chẩn đoán được thêm 19% số trường hợp DVT mà Duplex không tìm thấy [12]. de Valois và cộng sự chứng tỏ rằng siêu âm Duplex có độ nhạy và độ chuyên 92% và 90% so với tĩnh mạch đồ cản quang[13]. Điều này cho thấy tĩnh mạch đồ cản quang có thể được xem như tiêu chuẩn vàng để kiểm tra lại các trường hợp chưa rõ rang trên Duplex. CT tĩnh mạch : CTV đặc biệt có khả năng chẩn đoán tốt trong trường hợp huyết khối đùi và chậu so với siêu âm duplex; nó có độ nhạy 98% và đặc hiệu 100% tại đùi, còn ở chậu là 94% và 100%. Giá trị tiên đoán dương và âm toàn bộ là 92% và 100%. Thomas và cộng sự thực hiện một nghiên cứu tổng hợp từ 13 nghiên cứu đánh giá CTV trong chẩn đoán DVT trên bệnh nhân nghi ngờ DVT và thuyên tắc phổi. Độ nhạy từ 71% đến 100% và đặc hiệu từ 93% đến 100%. Độ nhạy tính gộp là 95.5% và độ chuyên tính gộp là 95.2% [13][14]. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Peterson và đồng sự cho thấy dù độ nhạy cao là 93% , với giá trị tiên đoán âm 97% , khả năng chẩn đoán xác định của CTV độ đặc hiệu 71% nên giá trị tiên đoán dương chỉ là 53% [15]. Những nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ dương giả 50% đối với DVT chậu, tương tự với MRi tĩnh mạch cho tỉ lệ dương tính giả là 100%. Hơn nữa, CTV vẫn chưa được nghiên cứu nhiều trên DVT bắp chân để đánh giá hiệu quả thực sự của nó, ngoài ra CTV đắt tiền và phải dùng đến chất cản quang và tia xạ. Cộng hưởng từ tĩnh mạch: MRV ngày càng trở thành một lựa chọn lý tưởng cho chẩn đoán. Kĩ ... ày kết luận rằng MRi có thể là một phương tiện thay thế cho siêu âm trên bệnh nhân có kết quả chưa rõ rang và không thể kết luận PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 22 PET/CT 18F-FDG: Chụp PET/CT với Fluorodeoxyglucose gắn đồng vị phóng xạ 18F có thể phát hiện huyết khối trong DVT cấp, đánh giá tuổi của huyết khối, và phân biệt huyết khối cấp với huyết khối của khối u. 18F-FDG là đồng vận glucose được hấp thu chủ động và hoàn toàn bởi các mô và tế bào có tốc độ chuyển hoá cao. Trong số đó là các tế bào ung thư, tế bào nội mô, thực bào, lymphocytes. Một số nghiên cứu cho thấy khả năng phát hiện DVT cấp của xét nghiệm này, nhưng gần đây, chỉ mới có một nghiên cứu kiểm chứng tính hữu dụng của nó trong việc chẩn đoán DVT cấp. Rondina và cộng sự đã nghiên cứu 12 bệnh nhân có bằng chứng DVT cấp vị trí gần trên siêu âm duplex được làm 18F-FDG PET/CT trong khoảng thời gian 32,5 ngày. Họ đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu là 87.5% và 100% khi áp dụng giá trị hấp thụ chuẩn hoá tối đa là 1,645 hoặc cao hơn. Khi giảm giá trị hấp thu chuẩn hoá tối đa xuống 1.49 hoặc cao hơn làm tăng độ nhạy lên 100% nhưng lại giảm độ chuyên xuống 84.2% [20]. Sharma và cộng sự cho thấy nhờ vào giá trị hấp thụ chuẩn tối đa, 1người ta có thể phân biệt được huyết khối do ung thư và do DVT cấp, khi giá trị cao tương ứng với huyết khối do ung thư và giá trị thấp tương ứng với DVT câp [19] CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN Đánh giá nguy cơ : Do chưa có một xét nghiệm chẩn đoán nào vừa đáng tin cậy, vừa hiệu quả và rẻ tiền nên đánh giá bệnh nhân theo nhóm nguy cơ góp phần đưa ra quyết định. Đối với bệnh nhân nhiều nguy cơ sẽ không cần làm quá nhiều xét nghiệm để chẩn đoán như nhóm nguy cơ thấp và cần khởi trị ngay lập tức, siêu âm Duplex hay các xét nghiệm khác có thể trì hoãn. Các bệnh lý di truyền gây DVT có tần suất tương đối thấp, hơn nữa các công cụ đánh giá khá đắt tiền trong khi khám lâm sàng cũng có thể phát hiện được nên việc áp dụng các xét ngiệm đánh giá nguy cơ trên từng cá nhân riêng lẻ là không thực tiễn. Dù vậy, nếu biết trước được các bất thường đó cũng là một thông tin lâm sàng có giá trị. Nguy cơ DVT trên bệnh nhân có thiếu hụt antithrombin dị hợp tăng từ 5 đến 50 lần. Trên những bệnh nhân có thiếu hụt protein C, con số này tăng 3 lần, tăng 10 lần trong trường hợp thiếu hụt protein S. Xác suất trọn đời của DVT có triệu chứng trên bệnh nhân có đot biến yếu tố V Leiden vào khoang 10%. Nhưng tình trạng thiếu hụt đồng thời sẽ làm tăng nguy cơ này lên đáng kể. Một số tình trạng dễ tạo huyết khối khác như tăng yếu tố VII và IX, tăng Homocystein máu, rối loạn fibrinogen máu, tình trạng giảm ly giải sợi fibrin, làm tăng nguy cơ DVT lên hai lần. Các yếu tố nguy cơ mắc phải gồm có tuổi, bệnh ác tính, bất động, phẫu thuật hay chấn thương, béo phì, mang thai, tiền căn huyết khối tĩnh mạch. Nguy cơ tương đối của từng yếu tố nguy cơ thay đổi nhiều. Khi không phòng ngừa, nguy cơ DVT là 36% sau mổ thay khớp háng, 33% sau phẫu thuật niệu, 25% sau mổ tổng quát, 23% sau mổ thần kinh, 19% sau phẫu thuật bụng, 15% sau phẫu thuật mạch máu ngoại vi [25]. Một nửa số bệnh nhân gãy khớp háng và 1/3 bệnh nhân phỏng có DVT. Nguy cơ này tăng lên sau khi xuất viện. Nguy cơ DVT tăng khi có hiện diện vài yếu tố nguy cơ đặc biệt, điều này giúp đưa ra thang điểm phân loại nguy cơ bằng cách kết hợp một số yếu tố nguy cơ với các triệu chứng và dấu chứng lâm sàng. Thang điểm được sử dụng rộng rãi nhất trên Bệnh nhân có triệu chứng là thang Wells. Thang điểm Wells đã được đánh giá như một phương tiện hiệu quả và dễ áp dụng để phân tầng nguy cơ bệnh nhân vào nhóm nguy cơ DVT thấp, trung bình và cao. Thang điểm này đã được kiểm định trên nhiều dân số bệnh nhân khác nhau. Một nghiên cứu tổng hợp 24 nghiên cứu đã dùng thang điểm Wells cho thấy trong một dân số có tỉ lệ lưu hành DVT là 15%, bảng Wells đã phân tầng 18% bệnh nhân nguy cơ cao có tỉ lệ lưu hành DVT là 47%, 40% bệnh nhân nguy cơ trung bình có tỉ lệ lưu hành 12% và 42% nguy cơ thấp có tỉ lệ lưu hành là 4% [21]. CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU HỆ THỐNG: Cách tiếp cận tối ưu hiện nay dựa trên thang điểm Wells và xét nghiệm D-Dimer, sau đó làm các xét nghiệm chẩn đoán tiếp tục cho nhóm nguy cơ cao và bệnh nhân cần được điều trị Trên nhóm bệnh nhân nguy cơ thấp, kết hợp thang Wells và D-dimer âm tính cho giá trị tiên đoán âm đạt gần 100% [22]. Do hầu hết các nghiên cứu trên nhóm nguy cơ thấp được thực hiện trên bệnh nhân ngoại trú CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU 23 và đã loại trừ bệnh nhân có tiền căn DVT, bệnh nhân nghi ngờ thuyên tắc phổi, bệnh nhân dùng kháng đông, nên các yếu tố này cần được cân nhắc khi sử dụng thang Wells. Các kết quả tương tự được thực hiện trên nhóm nguy cơ trung bình khi kết hợp Wells và D-dimer để chẩn đoán DVT cấp. Khi không điều trị, tỉ suất của DVT cấp trong vòng 3 tháng trên những bệnh nhân được phân tầng trung bình và D-dimer âm tính là 0,6% [24], cho thấy không cần phải làm thêm xét nghiệm nào nữa cho nhóm này bởi nó không làm cải thiện thêm kết cục lâm sàng. Đánh giá nguy cơ cho nhóm nguy cơ cao là một vấn đề đáng bàn cãi. Giá trị D-dimer âm tính trên nhóm này có tỉ lệ thuyên tắc phổi lên tới 15%. Tỉ lệ cao không thể giải thích này cho thấy việc điều trị nên được khổi động trước khi có kết quả các xét nghiệm bổ sung. Khi bắt đầu dùng kháng đông, việc trì hoãn làm các xét nghiệm chẩn đoán xác định vẫn được đánh giá là an toàn. Đa số bệnh nhân nội trú rơi vào nhóm nguy cơ cao, và tỉ suất DVT được báo cáo là 10%, hơn nữa độ nhạy cũng như độ chuỷên của xét nghiệm D-dimer cũng tương đối thấp hơn so với nhóm ngoại trú. Không giống bệnh nhân ngoại trú, hầu hết bệnh nhân khi nhập viện có nghi ngờ DVT cần thiết phải làm các xét nghiệm để chẩn đoán. [25] Chẩn đoán DVT trong thai kỳ lại còn phức tạp hơn nữa, nguy cơ biến chứng chảy máu làm hạn chế việc dùng kháng đông trên những trường hợp đã chẩn đoán DVT. Nồng độ D-Dimer bình thường cũng tăng cao trong thai kỳ và chưa cho thấy hữu ích trong chẩn đoán. Vì những lý do đó, siêu âm vẫn là xét nghiệm được ưu tiên. Trên sản phụ nghi ngờ có DVT, khuyến cáo là nên cho siêu âm lại dù cho những dấu chứng ban đầu là bình thường. Một số lưu đồ chẩn đoán để lượng giá DVT trên bệnh nhân có triệu chứng đã được công bố. Tuy nhiên khi những dòng kháng đông mới ra đời thì việc áp dụng những lưu đồ này cũng phải thay đổi theo. Trên bệnh nhân ngoại trú, kết hợp thang điểm Wells thấp và D-dimer âm là đủ để loại trừ DVT. Kết quả D- dimer dương trên nhóm nguy cơ trung bình và cao là chỉ định cho việc dùng kháng đông ngay lập tức và siêu âm duplex tĩnh mạch sau đó. Chẩn đoán huyết khối tái phát và tuổi của huyết khối : Sự hình thành huyết khối và tái cấu trúc thành tĩnh mạch xuất hiện trong khoảng thời gian thay đổi, từ 7 đến 10 ngày, huyết khối bám thành tĩnh mạch, khiến việc điều trị bằng ly giải huyết khối hay lấy huyết khối trở nên ít hiệu quả, và không thể trên 30% bệnh nhân.Do đó phải chẩn đoán DVT trong giai đoạn cấp và đánh giá tuổi của huyết khổi. Khởi phát biểu hiện lâm sàng của DVT là dấu chỉ điểm không đáng tin cậy cho tuổi huyết khối, các phương tiện hình ảnh hiếm khi có ích trong việc xác định tuổi. Các kết quả siêu âm đàn hồi được thử nghiệm trên động vật và ex vivo. Sử dụng các dấu chỉ điểm gắn phóng xạ, như yếu tố hoạt hoá plasmin mô tái tổ hợp, cho thấy khả năng xác định tuổi của huyết khối có trên 30 ngày hay chưa, và MRI có thể cho thấy thời gian khởi phát huyết khối có quá 6 tháng không. Các xét nghiệm này thường phù hợp để chẩn đoán huyết khối tái phát hơn là đánh giá tuổi Nếu huyết khối không ly giải tự phát hay bị loại thải nhờ điều trị, các tiến trình bệnh lý sẽ tiếp diễn, dẫn tới bệnh lý hậu huyết khối trên một số bệnh nhân và có nguy cơ huyết khối tái phát. Các dữ liệu gần đây từ các nhóm giả dược trong nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cho thấy huyết khối tái phát xuất hiện trên 11%-18% bệnh nhân trong năm đầu bị DVT [26] Chẩn đoán DVT cùng bên tái phát là một thử thách. Các phương tiện đánh giá như thang Wells, không hữu ích khi nó phân chia bệnh nhân có tiền căn DVT vào nhóm nguy cơ cao. Biểu hiện lâm sàng của huyết khối tái phát thường đồng thời với biểu hiện của bệnh lý hậu huyết khối. các phýõng tiện hình ảnh không thể xác định một cách đáng tin cậy huyết khối cấp khi nhũng thay đổi hậu huyết khối hiện diện trên thành và trong lòng tĩnh mạch. Các biến đổi hậu huyết khối dẫn tới không đè xẹp tĩnh mạch một phần hay hoàn toàn. Trong một nghiên cứu, 70% bệnh nhân tại thời điểm 3 tháng và 40% ở thời điểm 12 tháng có xét nghiệm đè xẹp bất thường sau đợt huyết khối cấp đoạn gần. Điều này có thể làm tăng tần số kết quả dương giả khi tiêu chí này được dùng cho DVT tái phát Kết quả dương giả được báo cáo là 5% trên bệnh PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014 24 nhân nghi ngờ DVt tái phát. Tính hữu dụng của siêu âm có được trước khi có đợt tái phát, tuy nhiên, diễn giải kết quả hình ảnh cho thấy có sự đồng thuận kém đến trung bình giữa hai người cùng đọc MRI có thể phân biệt huyết khối với mô xơ trên thành tĩnh mạch ở thời điểm 6 tháng sau DVT cấp. Dù gia trị tiên đoán âm cao nhưng D-dimer lại không có ý nghĩa rõ ràng trên bệnh nhân có DVT tái phát. Trong 46% bệnh nhân có ngừng warfarin, D-dimer vẫn giữ mức cao ít nhất 3 tháng. Những nguyên nhân khác của tăng D-dimer góp phần làm tăng chỉ số này thấm chí còn cao hơn do DVT làm hạn chế việc áp dụng D- dimer để loại trừ tái phát chỉ trong 15% đến 18% bệnh nhân thậm chí khi được dùng kết hợp với các công cụ đánh giá nguy cơ [28]. Do không có bằng chứng gợi ý bất kỳ xét nghiệm nào là hữu ích để đánh giá tuổi của huyết khối, và không có chứng cứ tồn tại nào cho thấy tiếp cận chẩn đoán tái huyết khối cần khác hơn so với DVT lần đầu nên việc thực hành lâm sàng còn phụ thuộc vào các xét nghiệm và khả năng phán đoán lâm sàng. REFERENCE 1. Kakkar VV, et al: Prevention of fatal postoperative pulmonary embolism by low doses of heparin. Reappraisal of results of international multicentre trial. Lancet 1: 567– 569, 1977. 2. Anand SS, et al: Does this patient have deep vein thrombosis? JAMA 279:1094–1099, 1998. 3. Criado E, et al: Predictive value of clinical criteria for the diagnosis of deep vein thrombosis. Surgery 122:578–583, 1997. 4. Brotman DJ, et al: Limitations of D-dimer testing in unselected inpatients with suspected venous thromboembolism. Am J Med 114:276–282, 2003. 5. Larsen TB, et al: Validity of D-dimer tests in the diagnosis of deep vein thrombosis: a prospective comparative study of three quantitative assays. J Intern Med 252:36–40, 2002. 6. Kearon C, et al: Noninvasive diagnosis of deep venous thrombosis. McMaster Diagnostic Imaging Practice Guidelines Initiative. Ann Intern Med 128:663–677, 1998. 7. Birdwell BG, et al: The clinical validity of normal compression ultrasonography in outpatients suspected of having deep venous thrombosis. Ann Intern Med 128:1–7, 1998. 8. Goodacre S, et al: Measurement of the clinical and cost-effectiveness of non-invasive diagnostic testing strategies for deep vein thrombosis. Health Technol Assess 10:1–168, iii–iv, 2006. 9. Wells PS, et al: Accuracy of clinical assessment of deep-vein thrombosis. Lancet 345:1326–1330, 1995 10. Locker T, et al: Meta-analysis of plethysmography and rheography in the diagnosis of deep vein thrombosis. Emerg Med J 23:630–635, 2006. 11. Terao M, et al: Diagnosis of deep vein thrombosis after operation for fracture of the proximal femur: comparative study of ultrasonography and venography. J Orthop Sci 11:146–153, 2006. 12. Ozbudak O, et al: Doppler ultrasonography versus venography in the detection of deep vein thrombosis in patients with pulmonary embolism. J Thromb Thrombolysis 21:159–162, 2006. 13. de Valois JC, et al: Contrast venography: from gold standard to ‘golden backup’ in clinically suspected deep vein thrombosis. Eur J Radiol 11:131–137, 1990. 14. Begemann PG, et al: Evaluation of the deep venous system in patients with suspected pulmonary embolism with multi-detector CT: a prospective study in comparison to Doppler sonography. J Comput Assist Tomogr 27:399– 409, 2003. 15. Homans J: Thrombosis of the deep leg veins due to prolonged sitting. N Engl J Med 250:148–149, 1954. 16. Carpenter JP, et al: Magnetic resonance venography for the detection of deep venous thrombosis: comparison with contrast venography and duplex Doppler ultrasonography. J Vasc Surg 18:734–741, 1993. 17. Laissy JP, et al: Assessment of deep venous thrombosis in the lower limbs and pelvis: MR venography versus duplex Doppler sonography. AJR Am J Roentgenol 167:971–975, 1996. CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU 25 18. Stern JB, et al: Detection of pelvic vein thrombosis by magnetic resonance angiography in patients with acute pulmonary embolism and normal lower limb compression ultrasonography. Chest 122:115–121, 2002 19. Sampson FC, et al: The accuracy of MRI in diagnosis of suspected deep vein thrombosis: systematic review and meta-analysis. Eur Radiol 17:175–181, 2007. 20. Rondina MT, et al: 18F-FDG PET in the evaluation of acuity vein thrombosis. Clin Nucl Med 37:1139–1145, 2012. 21. Goodacre S, et al: Measurement of the clinical and cost-effectiveness of non-invasive diagnostic testing strategies for deep vein thrombosis. Health Technol Assess 10:1–168, iii–iv, 2006. 22. Shields GP, et al: Validation of the Canadian clinical probability model for acute venous thrombosis. Acad Emerg Med 9:561–566, 2002. 23. International Consensus Statement: Prevention and treatment of venous thromboembolism. Int Angiol 32:111–260, 2013. 24. Schutgens RE, et al: Combination of a normal D- dimer concentration and a non-high pretest clinical probability score is a safe strategy to exclude deep venous thrombosis. Circulation 107:593–597, 2003. 25. Brown MD, et al: The accuracy of the enzyme- linked immunosorbent assay D-dimer test in the diagnosis of pulmonary embolism: a meta-analysis. Ann Emerg Med 40:133–144, 2002.2 26. Brighton TA, et al: Low-dose aspirin for preventing recurrent venous thromboembolism. N Engl J Med 367:1979–1987, 2012. 27. Stiegler H, et al: Thrombectomy, lysis, or heparin treatment: concurrent therapies of deep vein thrombosis: therapy and experimental studies. Semin Thromb Hemost 15:250–258, 1989. 28. Heijboer H, et al: Clinical utility of real-time compression ultrasonography for diagnostic management of patients with recurrent venous thrombosis. Acta Radiol 33:297–300, 1992.
File đính kèm:
chien_luoc_chan_doan_lam_sang_va_can_lam_sang_thuyen_tac_tin.pdf

