Chế độ tế tự thần linh triều Nguyễn qua bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
Tóm tắt: Chế độ tế tự thần linh là sự thể chế hóa các quan điểm
của nhà nước phong kiến về tế tự, thờ cúng thần linh thành hệ
thống các điển lệ nhằm quản lý toàn diện hoạt động tôn giáo này.
Qua khảo cứu và phân tích bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ”, bài viết khái quát các nội dung cơ bản về chế độ tế tự thần linh
dưới triều Nguyễn.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chế độ tế tự thần linh triều Nguyễn qua bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chế độ tế tự thần linh triều Nguyễn qua bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
78 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014 VŨ THANH BẰNG* CHẾ ĐỘ TẾ TỰ THẦN LINH TRIỀU NGUYỄN QUA BỘ KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ Tóm tắt: Chế độ tế tự thần linh là sự thể chế hóa các quan điểm của nhà nước phong kiến về tế tự, thờ cúng thần linh thành hệ thống các điển lệ nhằm quản lý toàn diện hoạt động tôn giáo này. Qua khảo cứu và phân tích bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, bài viết khái quát các nội dung cơ bản về chế độ tế tự thần linh dưới triều Nguyễn. Từ khóa: Chế độ tế tự, thờ cúng thần linh, chính sách tôn giáo, triều Nguyễn. 1. Đặt vấn đề Dưới triều Nguyễn (1802 - 1945), Nho giáo được đề cao, là nền tảng của hệ tư tưởng trị nước. Vì thế, sự quản lý của nhà nước về tôn giáo nói chung, chế độ tế tự thần linh nói riêng của triều đình chịu ảnh hưởng rõ nét tư tưởng Nho giáo. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản hành chính như chiếu chỉ, tấu sớ, phiến dụ, nghị chuẩn, xác lập nên hệ thống điển lệ nhằm quản lý các vấn đề liên quan tới tế tự thần linh ở trung ương và địa phương. Sự quản lý này mang lại một trật tự tế tự thống nhất trong cả nước, bao gồm các nội dung mang tính quy phạm pháp luật về cơ sở thờ tự, hệ thống thần linh, nghi lễ tế tự của triều đình, nghi lễ tế tự trong dân gian. Thông qua việc khai thác, xử lý và phân tích các cứ liệu lịch sử liên quan đến tế tự thần linh được ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ1, bài viết chỉ ra nội dung cơ bản quy định về chế độ tế tự thần linh của triều Nguyễn, từ đó rút ra một số nhận xét về chính sách tế tự thần linh của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam này. 2. Quy định của triều Nguyễn về tế tự thần linh 2.1. Quy định về cơ sở thờ tự 2.1.1. Phân loại và tu bổ cơ sở thờ tự * ThS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Vũ Thanh Bằng. Chế độ tế tự thần linh 79 79 Dưới triều Nguyễn, cơ sở thờ tự được chia làm ba bậc: đại tự2, trung tự3 và quần tự4. Mỗi loại phải có sự phê duyệt của triều đình. Từ đó, việc tiến hành xây dựng và trùng tu các cơ sở thờ tự đều nằm dưới sự giám quản của triều đình từ trung ương đến địa phương. Theo quy định, việc xây dựng, tu bổ các đại tự như Hưng Miếu, Thế Miếu, Triệu Miếu, Thái Miếu, điện Phụng Tiên, cung Khánh Ninh5, đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc đều do vua trực tiếp ban lệnh thực hiện. Các cơ sở thờ tự nêu trên luôn được các vua triều Nguyễn quan tâm tu bổ, sửa chữa, mở rộng hạng mục hoặc di dời đến địa điểm mới và quản lý sát sao như: lý do tu bổ, hạng mục tu bổ, vật liệu tu bổ, tiền công tu bổ, v.v... Đối với các công trình bị hư hỏng do thời gian hoặc do thiên tai, triều đình nhanh chóng giao cho phủ trực thuộc lĩnh hạng vật thuê dân làm6. Việc xây dựng các lăng tẩm như Trường Nguyên7, Trường Cơ8, Vĩnh Cơ9, Thiên Thụ10, Hiếu Lăng11, Xương Lăng12 đều phải tuân thủ các quy chế cụ thể về số tầng (độ cao), số gian (diện tích), vật liệu (đá, đồng, gạch, gỗ). Các phụ hạng như lan can, nền gạch, bia đá, tường rào, cầu ao, cây trồng cũng được ghi rõ trong thiết kế các công trình này. Quá trình xây dựng, trùng tu phải tuân theo quy chế của Bộ Lễ, không để khinh suất13. Những quy định nêu trên còn được áp dụng trong việc xây dựng và trùng tu lăng mộ của các thân công, tôn thân, hoàng tử, hoàng nữ14. Công trình tôn giáo ở các địa phương nếu xuống cấp cần tu tạo hoặc tân tạo thì triều đình chuẩn y cho các tỉnh, phủ trực thuộc lập dự toán, lĩnh hạng vật và thuê dân công tiến hành. Kinh phí do nội khố cấp, giá nhân công được tính bằng tiền (quan) và gạo (bát) trên đơn vị ngày công15. 2.1.2. Bảo vệ cơ sở thờ tự Việc bảo vệ cơ sở thờ tự dưới triều Nguyễn tùy thuộc vào quy mô, cấp độ quan trọng của mỗi công trình mà có lực lượng và số lượng nhân lực đảm trách việc bảo vệ, giám sát phù hợp. Đối với Thái Miếu, Thế Miếu: đời vua Gia Long có đội Tư Phụng (Tư Phụng nhất, Tư Phụng nhị), đến đời Minh Mệnh năm thứ 3 (1822) được đổi thành Tả Từ Tế (trực ở Thái Miếu) và Hữu Từ Tế (trực ở Thế Miếu). Đội bảo vệ này còn có thêm biền binh Vệ Thần Sách, Vệ Thân Binh và Vệ Cấm Binh lo trông giữ trong ngoài tường bao. Hằng tháng, mỗi sở phái ra hai suất đội, 50 biền binh, thay đổi nhau ứng trực canh phòng cẩn mật, quét dọn hằng ngày. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), các đội bảo vệ này được cấp thẻ bài khi làm nhiệm vụ: bài sừng khắc chữ Phụng Trực 80 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014 cho biền binh; bài ngà khắc chữ Quản Phụng Trực cho quản vệ; bài ngà khắc chữ Suất Phụng Trực cho suất đội. Đối với điện Phụng Tiên, Minh Mệnh năm thứ 11 (1830) nghị chuẩn phái một quản vệ, hai suất đội, 50 biền binh của các dinh Cấm Binh, mỗi tháng đổi ca ba lần. Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), ban dụ quy định mỗi tháng thay ca một lần, chọn người phải siêng năng và cẩn thận. Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), ban chỉ cho Bộ Binh chọn lấy bốn cựu binh tuổi đã cao ở các vệ Thân Binh, Cấm Binh sung vào làm việc ở Ty Từ Tế và Phủ Tôn Nhân lo quản lý đôn đốc ứng trực tại các tôn miếu để công việc giám sát được chỉn chu, vẹn toàn. Đối với Nguyên Miếu, Hiếu Lăng, lăng Thiên Thụ, điện Minh Thành, đền thờ thần núi Thiên Thụ, Xương Lăng cũng thành lập các bộ phận phụ trách công tác bảo vệ16. Đối với các lăng tẩm, điện thờ, đàn miếu khác ở trong và ngoài Kinh thành, thống nhất lấy dân đinh ở các xã trực thuộc, hoặc dân đinh phụ cận bổ sung vào các đội hộ lăng, thủ hộ. Có trường hợp lại lấy lính của các phủ cho đi phục dịch, bảo vệ nơi thờ tự17. Tùy vào quy mô và địa thế, lễ lạt của từng cơ sở mà số người coi giữ được thêm bớt cho phù hợp, nhưng thường dao động từ 10 đến 50 người. Những người này chuyên bảo vệ, dọn dẹp vệ sinh. Họ được miễn trừ việc vặt, việc binh đinh. Về tên gọi, năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), quy định dân phụ lũy ở hai đàn Nam Giao và Xã Tắc gọi là đàn phu, sái phu; ở các miếu gọi là miếu phu. Đối với vườn cấm, đền thờ, triều đình đặt một viên đội trưởng lo quản lý chung và tuyển dân đinh ở phụ cận làm từ phu và sái phu. Hằng năm đều xem xét giảm bớt số lượng từ phu, sái phu cho phù hợp, cân đối giữa nơi nhiều việc và nơi ít việc18. 2.1.3. Kiểm kê tài sản cơ sở thờ tự Từ quan niệm đồ thờ, bài vị, lễ phẩm là những vật quan trọng thuộc về điển lễ, cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt, chỉnh tề, hợp lễ thể hiện lòng thành kính cẩn với tổ tiên và các bậc thần linh, các vua nhà Nguyễn luôn chú ý tới việc kiểm kê tài sản tại cơ sở thờ tự. Việc lựa chọn người thực hiện công việc kiểm kê cơ sở thờ tự rất nghiêm khắc. Đối với các lăng mộ, tôn miếu thì cử các hoàng tử và người trong Phủ Tôn Nhân. Đối với các miếu thần linh khác có thể cử quan viên của Bộ Lễ hoặc nhân viên của Sở Thượng Tứ, Vệ Cẩm Y, Ty trấn phủ Thừa Thiên đảm trách. Vũ Thanh Bằng. Chế độ tế tự thần linh 81 81 Người được giao trọng trách sẽ tiến hành kiểm kê số lượng đồ thờ, bài vị, lễ phẩm, đồ cúng, xem có đầy đủ, sắp xếp có hợp lý, theo đúng theo điển lệ hay chưa thỏa đáng; sau đó lập sổ sách ghi chép để theo dõi định kỳ. Thông thường, triều đình quy định thời gian cứ 10 ngày/ 1 tháng sẽ thay ca kiểm sát một lần; hoặc phối hợp kiểm tra vào các dịp lễ tiết, tế tự. Bên cạnh đó, triều đình cũng đề ra các biện pháp ngăn chặn mất mát đồ thờ bằng cách hạn chế người vào các cung, lăng, miếu; kết hợp với kiểm tra, giám sát, luân chuyển, thay đổi giám thủ tại các cơ sở thờ tự theo định kỳ một năm19. 2.1.4. Ban tự điền, tự đinh Tự điền, tự đinh là thuế ruộng và thuế thân mà nhà nước dành riêng để lo chi việc thờ cúng, tế tự. Đồng thời còn có các loại ruộng công, ruộng tư của nhà nước chia cho các địa phương cấy trồng thu lợi hoa màu để lo việc thờ cúng trong các đền miếu sở tại. Đối tượng được hưởng các hình thức ưu tế này là địa phương có cơ sở thờ tự và hậu duệ của các dòng họ/ người có công. Vua Gia Long đã ra một loạt các chỉ dụ về tự điền, tự đinh. Năm thứ nhất (1802): miễn thuế cho tư điền để cung vào việc tế tự (miếu Văn Thánh ở Hải Dương); ban tự điền, tự đinh: chiểu thu tiền thóc thuế ruộng và thuế đinh để chi phí đèn hương (con cháu nhà Lê); tha thuế thân và các khoản đóng góp khác, cấp tự điền để thu riêng thóc tô, miễn cho 247 suất thuế thân một đời để lo việc thờ cúng dài lâu (dòng con cả nhà Trịnh là Tư Tuân). Năm thứ 3 (1804): trích các ruộng công ở các hạt chia cho một số công thần làm ruộng thờ tự. Năm thứ 4 (1805): ban tự điền, người quản lý và phu quét dọn cho miếu công thần trung hưng. Năm thứ 5 (1806): lo chọn 100 người hầu phụ trách việc thờ cúng ở miếu nhà Lê (trước ở trấn Sơn Nam, nay dời sang trấn Thanh Hóa); thu riêng tiền thuế thân, tiền sưu để cung vào việc thờ cúng; miễn thuế, ban cho thóc ở ruộng tự điền để lo việc thờ cúng vào ngày giỗ, ngày tết. Sang đời các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, việc cấp tự điền, tự đinh tiếp tục được quan tâm. Triều đình rà soát lại danh sách các công thần, thân thần được xếp vào hạng tế tự để nhằm tri ân cho thỏa vong linh người đã khuất, cho an ủi hậu duệ của họ20. 2.1.5. Xử lý người xâm phạm cơ sở thờ tự Cùng với việc quản lý, kiểm soát tại các cơ sở thờ tự, triều Nguyễn cũng đặt ra những hình luật liên quan đến xâm phạm cơ sở thờ tự. Trong 82 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, các quy định này được xếp vào hệ thống văn bản của Bộ Hình, phần luật dành cho việc Lễ, bao gồm tế tự, nghi chế. Theo đó, trong 10 tội mà triều Nguyễn quy định21, có hai tội liên quan đến xâm phạm cơ sở thờ tự và trộm cắp đồ thờ. Đây là những tội khó có thể tha thứ, bất kể là cố ý hay lầm lỡ đều phải xử phạt nghiêm minh để răn trừng. Cụ thể, tội thứ nhất là tội mưu phản đại nghịch, gồm: mưu phá hủy nhà tôn miếu, lăng tẩm và cung khuyết nhà vua. Tội này bị xử phạt lăng trì, sung tài sản làm của công, tru di dòng họ, bắt những người liên quan cho xử tù, phạt trượng hoặc lưu đày. Tội thứ hai là tội đại bất kính, gồm: trộm cắp đồ thờ, màn trướng, ngọc lụa, đồ thờ, phẩm vật ở các nơi đại tự hoặc mượn đồ thờ về làm của riêng. Hình phạt của tội này nặng là trảm, nhẹ là giảo giam, thích chữ vào mặt, phạt trượng, cho lưu đày22. Bên cạnh đó, triều đình còn quy định hình phạt cụ thể đối với người xâm phạm cơ sở thờ tự: Những kẻ hủy nền đắp ở các đại tự thì phạt đánh 100 trượng, lưu đày 2.000 dặm. Những kẻ phá hủy cửa, tường bao vây xung quanh đàn đại tự thì giảm cho ba bậc, phạt 90 trượng, lưu đày hai năm rưỡi. Những kẻ phá bỏ, hủy hoại đồ thờ bất kể là đồ quan trọng hay đồ xoàng đều phạt 100 trượng, lưu đày ba năm. Những kẻ đánh mất hay lầm lỡ hủy hoại tài sản tôn giáo đều được giảm xuống ba bậc (phạt 70 trượng, lưu đày một năm rưỡi); trường hợp tài sản quý giá đắt tiền, thì chiểu theo luật “hủy hoại, vứt bỏ đồ vật công” mà bắt tội23. Những trường hợp phá hủy tượng thần; chăn thả trâu bò gia súc, cày cấy, kiếm cói trong khuôn viên cơ sở thờ tự; tự tiện ra vào cửa nhà thế miếu thì tùy theo mức độ nặng nhẹ xử hình nghiêm minh. 2.2. Quy định về phân loại, sắc phong thần linh 2.2.1. Phân loại thần linh Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ không nêu cụ thể việc phân loại thần linh, nhưng cách gọi tên, thần hiệu trong sắc phong của nhà nước cho thấy, các thần linh cũng có những lớp khác nhau. Thứ nhất, theo nguồn gốc gồm: Thân thần là những vị thần vốn là người được nhà nước phong là phúc thần; Thiên thần là những vị thần chỉ nghe nói có sự thiêng liêng nhưng không sinh ra ở đời; Nhân thần là những vị thần có họ tên, công trạng, quan tước rõ ràng; lúc sống có công lao, trung tiết, lúc chết vẫn thiêng liêng phù trợ cho nước, cho dân. Nhân thần gồm có Âm thần (các thần nữ) và Dương thần (các thần nam). Các Vũ Thanh Bằng. Chế độ tế tự thần linh 83 83 thần có nguồn gốc từ núi gọi là Sơn thần; có nguồn gốc từ nước là Thủy thần; có nguồn gốc từ đất hoặc án ngự trên đất gọi là Thổ thần. Các thần được gọi tên gắn với các hiện tượng tự nhiên như: Vân thần (mây), Vũ thần (mưa), Phong thần (gió), v.v Mặt khác, nhà nước còn quy định về Chính thần, tức là những vị thần đáp ứng đủ các tiêu chí thuộc điển lễ theo quy định của triều đình, được coi là chính thống được nhà nước sắc phong. Đối nghịch với Chính thần là Bất chính thần: lúc sống làm sự nhơ nhuốc và tà dâm, những tinh khí ma quỷ gỗ đá, những loài côn trùng quái vật. Ngoài ra, các nhân thần khi sống được ban bằng cấp, khi chết được tặng sắc phong, nhưng xét ra lại là giặc thì xếp vào dạng quỷ bất chính không được thờ tự24. Ngoài ra, các vị thần nghề đắc đạo thành tiên cũng được thờ tự như: Thần Tằm (tiên tàm), Thần Y (tiên y), Thần Hỏa Pháo (hỏa pháo thần). Thứ hai, tùy theo tầm mức quan trọng đối với quốc gia, công trạng hộ quốc tý dân, mức độ linh ứng hiện tại mà bách thần được được phân ra thành ba hạng: Thượng Đẳng Thần, Trung Đẳng Thần, Hạ Đẳng Thần. Gia Long năm thứ ba (1805), xuống chỉ đưa ra tiêu chí đối với ba hạng thần: 1/ Thượng Đẳng Thần: Thân Thần hiện có họ tên, công trạng; Thiên Thần có sự tích rõ rệt và Danh Thần đã có sắc phong, hoặc hiện có sắc phong. 2/ Trung Đẳng Thần: Nhân Thần có họ tên mà công hạng chưa được rõ rệt, sắc phong có công tước mà họ tên thất truyền, hoặc hiện có ghi quan tước mà sắc phong bị thất lạc. 3/ Hạ Đẳng Thần: các thần mà hiện sắc phong vẫn còn, mỹ tự xét ra vẫn là Chính Thần nhưng sự tích mai một. Như vậy, có thể thấy, hệ thống thần linh trong điển lệ nhà Nguyễn vô cùng đa dạng, bao trùm lên mọi khía cạnh của đời sống, mọi sự vật hiện tượng đều có tính thần linh tồn tại. Ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho thấy, các vị thần linh này được nhìn nhận theo lớp lang. Mỗi vị thần linh đều có vị thế riêng trong cấu trúc tôn giáo của triều đình, được phân hạng để có những ứng xử tế tự phù hợp. 2.2.2. Sắc phong thần linh Sắc phong thần linh là một hoạt động thường xuyên trong công tác giám quản bách thần của triều Nguyễn. Triều đình thống kê, sau đó ban sắc phong cho bách thần trong cả nước nhằm xác lập một hệ thống thần linh chính thống, đảm bảo âm phù thịnh vượng. Tuy nhiên, vì bách thần gắn liền với sinh hoạt tôn giáo, thờ cúng trong dân gian nên việc giám quản của nhà nước đối với các đối tượng thần 84 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014 linh gặp không ít khó khăn. Ví dụ, nhiều thần có sắc phong từ các triều trước, nhưng tra ra thì sự tích mờ mịt, công trạng không rõ ràng, lại có hành trạng trái với luân thường, đạo lý. Nhiều loại tà thần có nguồn gốc côn trùng súc vật được dân chúng tự tiện thờ tự. Nhiều thần bất chính nhưng vì quan lại gian dối trục lợi vẫn trình danh sách xin sắc phong. Nhiều thần vốn xuất thân là giặc dã, tiếm quyền, nhưng dân mê muội thờ tự khắp nơi. Nhiều làng thờ tới vài vị thần. Cùng một vị thần nhưng ở các làng khác nhau lại được xếp không cùng hạng, v.v Tất cả gây nên tình trạng nhầm lẫn, tràn lan khó quản lý. Vì thế, Gia Long năm thứ hai (1803), xuống chiếu cho Bắc Kỳ và các trấn Thanh, Nghệ lập danh sách đền thờ các thần có công trạng sự tích rõ rệt, loại bỏ hết các dâm từ25. Nhưng đến năm Gia Long thứ 10 (1812), khi rà soát lại các thần linh ở Bắc Kỳ vẫn ... triều đình sắp xếp theo một hệ thống thứ bậc. Điều này có thể thấy rõ qua thần điện của đàn tế Nam Giao. Tại viên đàn, trên cùng là nơi thờ Trời Đất (Thiên Thượng Đế và Hoàng Địa Kỳ) được coi là các vị chủ tể của đàn tế. Các vị tổ tiên của dòng họ Nguyễn được đưa lên phối tự hai bên tả hữu sánh cùng Trời Đất47. Tại phương đàn thứ hai là tám án thờ lần lượt các vị: Mặt Trời (Đại Minh Chi Thần), Mặt Trăng (Dạ Minh Chi Thần), các tinh tú/ vì sao (Châu Thiên Tinh Tú Chi Thần), Thần Núi, Thần Biển, Thần Sông, Thần Hồ (Sơn Hải Giang Trạch Chi Thần), Thần Mây, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Sấm (Vân Vũ Phong Lôi Chi Thần), Thần Gò, Thần Đống, Thần Cồn, Thần Bãi (Khưu Lăng Phần Diễn Chi Thần), các thần tháng năm (Thái Tuế Nguyệt Tương Chi Thần), các thần kỳ trong thiên hạ (Thiên Hạ Thần Kỳ Chi Thần). Việc phối thờ các bậc tiên đế của triều đại lên đàn tròn trong lễ tế Nam Giao là một truyền thống của các triều đại quân chủ. Xuất phát từ quan niệm về đạo hiếu, cùng với tư tưởng Thiên Mệnh trong Nho giáo, các vị vua đời sau đều tôn sùng tổ tiên đời trước. Họ cho rằng, tổ tiên là người có công lớn với nước với dân. Vì thế, đức của tổ tiên sánh ngang với Trời, công của tổ tiên sánh ngang với Đất, nên được phối thờ cùng Trời Đất. 3.4. Từ sự phân loại, sắp xếp thần linh trong cả nước, triều Nguyễn đã đưa ra hệ thống nghi lễ nhằm chuẩn mực hóa thực hành tôn giáo từ trung ương tới địa phương. Trong đó, tế tự được phân thành ba bậc: đại tự (tế Trời Đất và tôn miếu), trung tự (tế Khổng Tử, Tiên Nông, đế vương đời trước), quần tự (tế các thần kỳ được ghi chép trong điển lệ). Bên cạnh đó, triều Nguyễn còn giao cho Bộ Lễ sắp xếp, củng cố thần tích, sắc phong đối với hệ thống thần linh trong cả nước theo thứ hạng (Thượng đẳng, Trung đẳng, Hạ đẳng). Tùy vào chức năng ban phúc, ủng trợ cho vua và thần dân của vua, mà mức độ thụ hưởng nghi lễ tế tự của các thần có sự hơn kém. Vũ Thanh Bằng. Chế độ tế tự thần linh 95 95 Những quy định về nghi lễ tế tự đã xác lập nên một trật tự, thống nhất thực hành từ trung ương tới địa phương. Trật tự đó không chỉ quy định mối quan hệ giữa Người với Thần, mà còn quy định vị thế xã hội của mỗi người trong tương quan với thần linh và với nhau. Theo đó, vua là chủ tôn có quyền tế Trời Đất, tôn miếu, Khổng Tử, bách thần; quan là thứ tôn được thay vua tế trong các dịp trung tự và quần tự, được thờ tổ tiên; sau cùng là dân chúng chịu sự giám quản của triều đình về tế tự. Người nào vượt qua vị thế xã hội và quyền hạn của mình, tức là vi phạm pháp luật. 3.5. Sinh hoạt nghi lễ trong dân chúng được nhà nước quy định rất rõ ràng. Những vấn đề phát sinh liên quan đến tế tự thần linh như cúng bái, tà thuật, đồng cốt đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm minh. Việc sát sao sắc phong thần linh của triều Nguyễn đã hình thành nên hệ thống thần linh, phân loại bách thần và thanh trừ những thần bất chính. Nhà nước quản lý thông qua tự điển, chỉ chấp nhận những tế tự dành cho chính thần được Bộ Lễ ghi trong tự điển. 3.6. Chế độ tế tự thần linh của triều Nguyễn với những quy định nghiêm ngặt về trật tự thần linh, chuẩn mực nghi lễ từ trung ương tới địa phương đã mang lại một thực hành đời sống tôn giáo nền nếp. Nghiên cứu chế độ tế tự thần linh triều Nguyễn có thể đóng góp cho việc xây dựng nguyên tắc ứng xử đối với vấn đề tế tự thần linh ở Việt Nam trong bối cảnh đời sống tôn giáo ngày càng trở nên phát triển đa dạng như hiện nay./. CHÚ THÍCH: 1 Hội điển của triều Nguyễn được Nội Các tiến hành ghi chép lại các công văn và sự kiện chính, các sinh hoạt lớn từ Gia Long năm thứ nhất (1802), đến Duy Tân năm thứ 8 (1914). Hội điển gồm có ba phần: Phần chính biên: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi chép từ năm 1802 đến năm 1851 (Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức). Phần tục biên: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên ghi chép từ 1852 đến năm 1889 (Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh). Phần tục biên hậu thứ: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên hậu thứ ghi chép từ năm 1890 đến năm 1914 (Thành Thái, Duy Tân). Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ được biên soạn bằng chữ Hán trong vòng 13 năm, từ năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) đến năm Tự Đức thứ 8 (1855), gồm 262 quyển, ghi chép những thông tin về thiết chế và hoạt động của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam từ năm Gia Long thứ nhất (1802) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), gồm các chiếu chỉ, tấu sớ, phiến dụ của bốn vị vua đầu triều Nguyễn về việc ban hành, sửa đổi hoặc giải quyết các vấn đề cụ thể trong nước, cũng như các vấn đề mà Lục Bộ và các cơ quan chuyên trách đề xuất. Nội dung bao quát hầu hết các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, hình luật, văn hóa. Bộ sử này cũng cung cấp nhiều thông tin quan trọng về các điển lễ và nghi thức tôn giáo của bốn vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Nguồn 96 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014 tư liệu chủ yếu được chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này là bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993. 2 Đại tự gồm đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, tôn miếu, lăng Phụng Tiên (thờ các vua và hoàng hậu triều Nguyễn, cho phép nữ giới trong triều được phép đến cúng tế), cung Khánh Ninh (cung điện riêng của vua Minh Mệnh, xây dựng vào năm 1825). 3 Trung tự gồm Lịch Đại Đế Vương Miếu, Văn Miếu, đàn Tiên Nông. 4 Quần tự gồm Võ Miếu, Khải Thánh Miếu, Lê Thánh Tông Miếu, Đô Thành Hoàng Miếu, Khai Quốc Công Thần Miếu, Trung Hưng Công Thần Miếu, Trung Tiết Công Thần Miếu, Quốc Vương Chiêm Thành Miếu, Quốc Vương Chân Lạp Miếu, Hội Đồng Miếu, Hà Bá Miếu,; đền thờ các sơn thần tại các lăng tẩm như thần Thiên Thụ, thần Khải Vận, thần Hưng Nghiệp,...; Ân Đàn tế người có công, đàn Sơn Xuyên tế núi sông,v.v... Xem: Phan Thanh Hải (2010), “Hệ thống đàn miếu tại kinh đô Huế thời Nguyễn”, Nghiên cứu và Phát triển, số 1: 29-46. 5 Hưng Miếu thờ thế tử Nguyễn Phúc Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn, song thân vua Gia Long. Thế Miếu ban đầu thờ Thế tổ Gia Long, về sau hợp tự các vua triều Nguyễn, cấm phụ nữ đến làm lễ. Triệu Miếu thờ Nguyễn Kim, thân sinh chúa Nguyễn Hoàng. Thái Miếu thờ Thái tổ Nguyễn Hoàng. Lăng Phụng Tiên thờ các vua và hoàng hậu triều Nguyễn, cho phép nữ giới trong triều đến cúng tế. Cung Khánh Ninh là cung điện riêng của vua Minh Mệnh, xây dựng vào năm 1825. Sau khi Minh Mệnh mất, đây trở thành nơi thờ riêng vị vua này. 6 Ví dụ như Minh Mệnh năm thứ 13 (1832); Thiệu Trị năm thứ 1 (1841), thứ 5 (1845), thứ 6 (1846); Tự Đức năm thứ 1 (1848), thứ 2 (1849) đều chuẩn y lời tâu cho tu bổ lại các hạng mục Trai Cung, Thần Khố, Thần Trù ở đàn tế Nam Giao. Gia Long năm thứ 2 (1803) cho dựng Nguyên Miếu ở Thanh Hóa, sau đó đến thời Minh Mệnh các năm thứ 2 (1821), thứ 14 (1833), thứ 16 (1835) nghị chuẩn cho sửa lại các tòa bên đông, bên tây và nghi môn, tường ngăn. 7 Lăng Triệu tổ Tĩnh Hoàng đế, Tĩnh Hoàng hậu ở núi Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa. 8 Lăng Thái tổ Gia dụ Hoàng đế ở núi Khải Vận, phủ Thừa Thiên. 9 Lăng Gia dụ Hoàng hậu ở phần núi xã Hải Cát, phủ Thừa Thiên. 10 Lăng Thế tổ Cao Hoàng đế, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu ở xã Định Môn, phủ Thừa Thiên. 11 Lăng Thánh tổ Nhân Hoàng đế ở núi Hiếu Sơn, phủ Thừa Thiên. 12 Lăng Hiến tổ Chương Hoàng đế (Xương Lăng) ở núi Thuận Đạo, phủ Thừa Thiên. 13 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, sđd: 317-337. 14 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, sđd: 340-342. 15 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, sđd: 95-115. 16 Đối với Nguyên Miếu (ở Thanh Hóa), Bộ Lễ chọn lấy nguyên dịch ở làng Quý Hương làm từ tế, bổ sung dân đinh ở các xã lân cận làm miếu phu. Đối với Hiếu Lăng: Thiệu Trị năm thứ 1 (1841), đặt thêm hai vệ Thủ hộ tả và Thủ hộ hữu coi giữ Hiếu Lăng và Hiếu Đông Lăng; Thiệu Trị năm thứ 6 (1846), ban sắc quy định tên gọi cho biền binh coi giữ các sở là điển hộ, để tránh nhầm lẫn với biền Vũ Thanh Bằng. Chế độ tế tự thần linh 97 97 binh tại các cơ sở thờ tự là thủ hộ. Đối với lăng Thiên Thụ, điện Minh Thành và đền thờ thần núi Thiên Thụ: Thiệu Trị năm thứ 7 (1847) đặt hai vệ là Thủ hộ trung và Thủ hộ tiền lo canh giữ, quản lý. Đối với Xương Lăng: Tự Đức năm thứ 1 (1848), năm thứ 2 (1849), quy định lấy người ở Điển Ty, Vệ Nhất Quân Kỳ ứng trực ở Xương Lăng và các cơ sở liên quan. Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 10, sđd: 89-96. 17 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 10, sđd: 96-100. 18 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 10, sđd: 100-101. 19 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 1, sđd: 164-167; tập 14, sđd: 71. 20 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, sđd: 97-103. 21 Mười tội ác gồm: mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn. 22 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 11, sđd: 36; tập 12, sđd: 14-15 và 26-27. 23 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 11, sđd: 371. 24 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8, sđd: 173. 25 Dâm từ là đền thờ bất chính thần. 26 Giấy ghi sắc phong cho bách thần cũng có ba hạng, trong đó, Thượng Đẳng Thần xung quanh in triện hoa chanh, phía trước vẽ một con rồng, ở giữa in hình Ngũ Tinh, bốn góc in hình Thất Tinh, mặt sau vẽ hình Tứ Linh. Trung Đẳng Thần mặt trước giống như sắc Thượng Đẳng Thần, mặt sau vẽ lá và bầu rượu, giữa vẽ hai chữ thọ liền nhau, gọi là song thọ. Hạ Đẳng Thần mặt trước giống như hai hạng trên, mặt sau không vẽ. 27 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8, sđd: 173-192. 28 Nguyên Miếu thờ gốc tổ triều Nguyễn, tại Thanh Hóa. 29 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, sđd: 15 và 338 - 339; tập 11, sđd: 369. 30 Gia Long năm thứ 6 (1807) và năm thứ 15 (1816), Minh Mệnh năm thứ 19 (1838) ra các sắc dụ quy định các hoàng tử, hoàng tôn đều theo thứ tự thay vua làm chủ tế và bồi tế dài lâu. Đến đời Thiệu Trị, năm thứ hai (1842), ra dụ về việc nhiều hoàng tử còn ít tuổi chưa lo liệu hoàn toàn được việc chủ tế, nên chuẩn cho Thân Đài và Bộ Lễ lựa chọn hoàng tử và thân công thay vua tế ở Thế Miếu; thân công thay vua tế Thái Miếu; quốc công, quận công thay vua tế Triệu Miếu, Hưng Miếu; còn phân hiến, bồi tế hai bên tả hữu vẫn giữ lệ cũ. Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 1, sđd: 161-164. 31 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, sđd: 353-354. 98 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014 32 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, sđd: 348-350. 33 Biên đan bằng tre để đựng hoa quả. Đậu làm bằng gỗ để đựng các thứ dưa tương và đồ nấu. Đăng là vật để đựng canh. Hình là cái chum để đựng nước. Phủ là cái giỏ đựng xôi, ngoài vuông trong tròn. Quỷ là vật cũng để đựng xôi cúng tế. 34 Cái nậm hình con trâu. 35 Cái nậm hình con voi. 36 Cái nậm không có chân để dưới đất. 37 Cái nậm hình quả bầu. 38 Cái nậm hình ngọn núi. 39 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, sđd: 342-345. 40 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 7, sđd: 73-113. 41 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 7, sđd: 113-118. 42 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 14, sđd: 255-266. 43 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 11, sđd: 376. 44 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 11, sđd: 373-378; tập 12, sđd: 25-26 và 316-317. 45 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 11, sđd: 373. 46 Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 14, sđd: 128. 47 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi lại nhiều chỉ dụ của triều đình về việc phối thờ các thần trên đàn Nam Giao, cụ thể: Gia Long năm thứ 6 (1807), rước Thái tổ Gia dụ Hoàng đế lên phối hưởng. Minh Mệnh năm thứ 2 (1822), chuẩn đưa Thế tổ Cao Hoàng đế phối hưởng với Trời; lấy thần núi Triệu Tường, thần núi Khải Vạn, thần núi Hưng Nghiệp tòng tự. Minh Mệnh năm thứ 8 (1827), ra chỉ dụ thỉnh Thái tổ và Thế tổ là các thần phối vị trong tế Nam Giao. Thiệu Trị năm thứ nhất (1841), nghị chuẩn cho thần núi Hiếu Sơn vào phối hưởng. Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), dụ thăng Thánh tổ Nhân Hoàng đế lên phối thờ. Tự Đức năm thứ nhất (1848), nghị chuẩn cho phối tự thần núi Thuận Đạo. Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, sđd: 358-367. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 2. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 1: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Vũ Thanh Bằng. Chế độ tế tự thần linh 99 99 3. Nguyễn Kim Hiền, Một số đặc điểm của các nhu cầu tôn giáo và tín ngưỡng hiện nay ở Việt Nam, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, kí hiệu TL.908. 4. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn minh Việt Nam, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội. 5. Võ Phương Lan (2009), “Thờ bách thần, thanh trừng thần linh thời vua Thiệu Trị”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 11: 39 - 48. 6. Leopold Cadiere (Đỗ Trinh Huệ dịch, 2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, 3 tập, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 7. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2010), Chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848 - 1883), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Nội các triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế. Abstract THE REGULATIONS OF DIVINE WORSHIP IN NGUYEN DYNASTY THROUGH THE HISTORICAL WORKS “KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ” The regulations of divine worship that became a rule of law system was an institutionalisation of the feudal state’s views on worshiping and the cult of the genius (Divine Service) in order to absolutely manage these religious activities. Through researching and analyzing the historical works “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, this article generalizes the main contents on the regulations of divine worship in Nguyen dynasty. Keywords: Regulations of divine worship, cult of the genius, religious policy, Nguyen Dynasty.
File đính kèm:
- che_do_te_tu_than_linh_trieu_nguyen_qua_bo_kham_dinh_dai_nam.pdf