Chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn từ khía cạnh nợ xấu

TÓM TẮT

Nợ xấu là chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất biểu hiện chất lượng của khoản

tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng

thì việc quản lý và xử lý nợ xấu được đặt lên hàng đầu, có tính cấp bách nhất

trong điều kiện nền kinh tế bất ổn như hiện nay. Mục tiêu của nghiên cứu là phân

tích thực trạng chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam

thông qua công tác quản lý và xử lý nợ xấu. Đối tượng nghiên cứu là các ngân

hàng thương mại Việt Nam giai đoạn năm 2018, 2019 và quý I/2020. Tác giả kết

hợp phương pháp nghiên cứu định tính, tổng hợp và xử lý số liệu dựa trên các

báo cáo tài chính của ngân hàng. Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng

giảm trong năm 2018, 2019 và tăng trong quý I/2020. Từ đó tác giả đánh giá kết

quả đạt được và những khó khăn, thách thức đối với các ngân hàng thương mại

trong công tác xử lý nợ xấu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng

Từ khóa: Chất lượng tín dụng; ngân hàng thương mại Việt Nam; nợ xấu

pdf 5 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn từ khía cạnh nợ xấu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn từ khía cạnh nợ xấu

Chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn từ khía cạnh nợ xấu
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 6 (12/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 146
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
VIỆT NAM NHÌN TỪ KHÍA CẠNH NỢ XẤU 
CREDIT QUALITY OF VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS FROM THE PERSPECTIVE 
OF BAD DEBTS 
Dương Thị Hoàn 
TÓM TẮT 
Nợ xấu là chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất biểu hiện chất lượng của khoản 
tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng 
thì việc quản lý và xử lý nợ xấu được đặt lên hàng đầu, có tính cấp bách nhất 
trong điều kiện nền kinh tế bất ổn như hiện nay. Mục tiêu của nghiên cứu là phân 
tích thực trạng chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam 
thông qua công tác quản lý và xử lý nợ xấu. Đối tượng nghiên cứu là các ngân 
hàng thương mại Việt Nam giai đoạn năm 2018, 2019 và quý I/2020. Tác giả kết 
hợp phương pháp nghiên cứu định tính, tổng hợp và xử lý số liệu dựa trên các 
báo cáo tài chính của ngân hàng. Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng 
giảm trong năm 2018, 2019 và tăng trong quý I/2020. Từ đó tác giả đánh giá kết 
quả đạt được và những khó khăn, thách thức đối với các ngân hàng thương mại 
trong công tác xử lý nợ xấu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng 
Từ khóa: Chất lượng tín dụng; ngân hàng thương mại Việt Nam; nợ xấu. 
ABSTRACT 
Bad debt is the most important financial indicator of the quality of bank 
credit to customers. Therefore, in order to improve credit quality, the 
management and handling of bad debts are top priority, most urgent in the 
current unstable economy. The objective of the paper is to analyze the current 
situation of credit quality of Vietnamese commercial banks through the 
management and handling of bad debts. The subjects of study are Vietnamese 
commercial banks in 2018 and 2019. The author combines qualitative research 
methods, aggregates and processes data based on the bank's financial 
statements. The study showed that the bad debt ratio tended to decrease in 
2018, 2019 and forecast that off-balance sheet bad debt at VAMC will return to 
"reunite" with the bank in 2020. From there, the author assessed the results. and 
difficulties and challenges for commercial banks in dealing with bad debts in 
order to improve credit quality 
Keywords: Credit quality; Vietnam commercial bank; bad debt. 
Khoa Quản lý kinh doanh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 
Email: hoanduonghaui102@gmail.com 
Ngày nhận bài: 18/01/2020 
Ngày nhận bài sửa sau phản biên: 19/6/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 23/12/2020 
CHỮ VIẾT TẮT GIẢI NGHĨA 
CLTD Chất lượng tín dụng 
NHNN Ngân hàng Nhà nước 
NHTM Ngân hàng thương mại 
TCTD Tổ chức tín dụng 
VAMC Công ty Quản lý tài sản các tổ chức 
tín dụng Việt Nam 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chất lượng tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của 
hệ thống ngân hàng. Điều này được thể hiện rõ qua việc 
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam luôn tích cực 
hoàn thiện các quy định pháp lý về phòng ngừa và xử lý nợ 
xấu, thường xuyên ban hành các văn bản chỉ đạo nghiệp vụ 
về nâng cao chất lượng tín dụng, nhờ đó mà tỷ lệ nợ quá 
hạn, nợ xấu đã kiềm chế sự gia tăng 
Trong những năm qua, nợ xấu luôn tồn tại trong bất kỳ 
ngân hàng nào, là một phần tất yếu của hoạt động tín 
dụng. Nợ xấu không chỉ là “căn bệnh” của hệ thống ngân 
hàng Việt Nam nói riêng, mà đã trở thành vấn đề đáng 
quan ngại của nền kinh tế nói chung. Nợ xấu lớn cũng 
đồng nghĩa với chất lượng tín dụng của ngân hàng suy 
giảm kéo theo một loạt hệ lụy tiêu cực như: một lượng vốn 
tương ứng không được quay vòng, dòng tiền trong nền 
kinh tế không lưu thông được và hệ thống ngân hàng sẽ 
gặp khó khăn về thanh khoản, doanh nghiệp không có vốn 
sản xuất kinh doanh. Do đó để nâng cao CLTD thì việc quản 
lý và xử lý nợ xấu được đặt lên hàng đầu, có tính cấp bách 
nhất trong điều kiện nền kinh tế bất ổn như hiện nay. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Nợ xấu thường được xác định căn cứ vào hai yếu tố 
chính là thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách 
hàng. Có thể hiểu một cách khái quát nợ xấu là những 
khoản nợ được đánh giá không có khả năng thanh toán 
đầy đủ, đúng hạn theo cam kết. 
Tại Việt Nam, việc xác định nợ xấu ngân hàng phải 
thông qua việc phân loại nợ. “Nợ xấu” là các khoản nợ 
thuộc các nhóm 3, 4 và 5 bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ 
nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Xét theo thời gian, nợ 
xấu là những món vay khách hàng nợ quá hạn từ 90 ngày 
trở lên [3]. 
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng 
tín dụng của ngân hàng, phản ánh khả năng thu hồi vốn 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 6 (Dec 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 147
khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không còn ở mức độ 
rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn. Hiện nay, 
theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn cho phép là dưới 3%. 
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu được tính toán như sau: 
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ x 100% [3] 
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
- Phạm vi nghiên cứu 
Để có cơ sở đánh giá một cách cụ thể, chi tiết hơn, tác 
giả tập trung thu thập và phân tích số liệu của 24 NHTM 
Việt Nam đã công bố báo cáo tài chính năm 2018, 2019, 
quý I/2020 
- Phương pháp nghiên cứu 
Tác giả kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính 
như phân tích, tổng hợp, so sánh và xử lý số liệu dựa trên 
các báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2018, 
2019 và quý I/2020 của các NHTM Việt Nam 
4. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THÔNG QUA NỢ XẤU 
4.1. Thực trạng nợ xấu nội bảng tại các ngân hàng 
thương mại Việt Nam 
4.1.1. Tỷ lệ nợ xấu 
Theo số liệu từ NHNN năm 2018, toàn hệ thống ngân 
hàng đã xử lý được 149,22 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ 
xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng là 1,89%, giảm so 
với mức 2,46% cuối năm 2016 và mức 1,99% cuối năm 
2017. Đây là mức thấp nhất kể từ năm 2012 đến nay và đã 
nằm sâu dưới ngưỡng 2%. Nhờ hoạt động xử lý nợ xấu 
được đẩy nhanh hơn, giá trị nợ xấu xử lý trong năm 2018 
tăng gần 30% so với năm 2017 [2]. Mặc dù đạt được kết 
quả như vậy nhưng nợ xấu còn tiềm ẩn ở các khoản mục 
nợ cơ cấu, trái phiếu doanh nghiệp cơ cấu nợ, các khoản 
ủy thác, phải thu khó đòi... Nợ xấu ở nhóm ngân hàng 
mua bắt buộc, ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, ngân 
hàng yếu kém chậm cải thiện. 
Kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng bị ảnh hưởng 
dịch Covid-19 là điều không tránh khỏi, đại dịch gây ảnh 
hưởng đến mọi lĩnh vực của các nước trên thế giới và Việt 
Nam từ những ngày đầu năm 2020. Dư nợ tín dụng toàn hệ 
thống bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 cũng là một trong 
những nguyên nhân làm tăng nợ xấu của các ngân hàng 
trong quý 1/2020. Các doanh nghiệp gặp khó khăn, không 
thể hoạt động, ảnh hưởng đến thu nhập, cũng không thể 
thanh toán nợ cho ngân hàng. Trong bối cảnh giãn cách xã 
hội do dịch bệnh, doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn 
để mở rộng kinh doanh, cho nên ngân hàng không thể 
tăng trưởng tín dụng, trong khi phải triển khai các chương 
trình hỗ trợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh 
như giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại nợ. Do đó, nhiều NHTM 
sẽ bị ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng nợ vay. Từ đó, 
dẫn đến nợ xấu tăng cao hơn mức tăng của tín dụng làm 
cho tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ tăng so với đầu năm. 
Chi tiết thông tin về tỉ lệ nợ xấu của 24 ngân hàng cuối 
năm 2018, 2019 và đến hết quí I/2020 cụ thể theo bảng 1. 
Bảng 1. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam từ năm 2018 - Qúy I/2020 
STT Ngân hàng Năm 2018 Năm 2019 Quý I/2020 (+/-) QI 2020/2019, % 
1 ABBank 1,89% 2,31% 2,58% 11,69 
2 ACB 0,70% 0,54% 0,65% 20,37 
3 BacABank 76,00% 0,69% 0,79% 14,49 
4 BIDV 1,90% 1,75% 1,74% (0,57) 
5 Eximbank 1,85% 1,71% 1,85% 8,19 
6 HDBank 1,53% 1,36% 1,47% 8,09 
7 KienlongBank 0,94% 1,02% 6,62% 549,02 
8 LPBank 1,40% 1,44% 1,44% 0,00 
9 MBBank 1,33% 1,16% 1,62% 39,66 
10 MSB 2,23% 2,04% 2,18% 6,86 
11 NamABank 1,54% 1,97% 1,98% 0,51 
12 OCB 2,29% 1,84% 1,64% (10,87) 
13 PGBank 2,96% 3,16% 3,29% 4,11 
14 Sacombank 2,11% 1,94% 1,97% 1,55 
15 SCB 0,42% 0,49% 0,57% 16,33 
16 SeABank 1,51% 2,31% 2,34% 1,30 
17 SHB 2,40% 1,91% 2,17% 13,61 
18 Techcombank 1,75% 1,33% 1,09% (18,05) 
19 TPBank 1,10% 1,29% 1,87% 44,96 
20 VIB 2,52% 1,96% 2,19% 11,73 
21 VietBank 1,25% 1,09% 1,10% 0,92 
22 Vietcombank 0,98% 0,79% 0,82% 3,80 
23 VietinBank 1,60% 1,16% 1,58% 36,21 
24 VPBank 3,51% 3,42% 3,03% (11,40) 
(Nguồn: [1] và tính toán của tác giả) 
Theo báo cáo tài chính của 24 NHTM Việt Nam vào cuối 
quí I/2020, tỉ lệ nợ xấu nội bảng (tỉ lệ nợ từ nhóm 3 đến 
nhóm 5) các ngân hàng từ 0,57% đến 6,62%. Trong đó, 
Kienlongbank là ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu cao nhất là 
6,62%, tăng 5,49% so với con số hơn 1,02% vào cuối năm 
2019. Nguyên nhân do hạch toán gần 1.896 tỉ đồng dư nợ 
các khoản cho vay của nhóm khách hàng có tài sản đảm 
bảo là cổ phiếu STB của Sacombank vào nợ nhóm 5 theo 
quyết định chỉ đạo của NHNN. Ngoài Kienlongbank, hai 
ngân hàng khác cũng có tỉ lệ nợ xấu trên mức 3% là PG 
Bank (3,29%) và VPBank (3,03%). VPBank là một trong số ít 
ngân hàng có nợ xấu giảm trong 3 tháng đầu năm 2020. 
Theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay giảm từ mức 
3,42% năm 2019 xuống còn 3,03% quý I/2020 
Nhìn chung, nợ xấu có tăng lên ở nhiều ngân hàng 
trong quý I/2020 (20/24 ngân hàng tăng), tuy nhiên hầu hết 
mức tăng chưa phải là mạnh. Lý do vì các ngân hàng cơ cấu 
lại thời hạn trả nợ, chưa chuyển nhóm nợ cho các khách 
hàng bị ảnh hưởng bởi Covid-19. Theo báo cáo của NHNN 
vào cuối tháng 3, các NHTM đã bước đầu cơ cấu lại thời 
gian trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho trên 52.000 khách 
hàng với dư nợ 17.927 tỷ đồng 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 6 (12/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 148
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
4.1.2. Nợ xấu và phân loại nợ xấu 
Các NHTM đẩy mạnh xử lý nợ xấu, rà soát, đánh giá, 
phân loại cụ thể từng khoản nợ xấu để nhận diện đầy đủ 
thực trạng nợ xấu, đặc biệt là các khoản nợ xấu lớn. Chi tiết 
như bảng 2. 
Báo cáo tài chính năm 2019 và quý I/2020 của nhiều 
ngân hàng cho thấy, nợ nhóm 3, 4, 5 đều tăng. Điều này 
thể hiện ở chuyển biến cơ cấu nợ xấu với mức tăng mạnh 
của nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn. Trong tổng nợ 
xấu của các ngân hàng thì nợ nhóm 5 chiếm tỷ trọng 
nhiều nhất. Quý I/2020, TPBank có 1.884 tỷ đồng nợ xấu, 
tăng gần 52,55% so với đầu năm, chủ yếu do tăng nợ nghi 
ngờ (+64%). VietinBank tăng đến 56,44% nợ xấu so với 
đầu năm lên mức gần 16.917 tỷ đồng, trong đó nợ nghi 
ngờ tăng 67% (2.589 tỷ đồng). Tại MBBank khi tăng 
38,25% nợ xấu lên 4.005 tỷ đồng, dịch chuyển nhiều sang 
nợ có khả năng mất vốn (+47%). Tại KienlongBank, tính 
đến cuối quý I/2020, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) 
tăng từ 239 tỷ đồng đầu năm lên 2.127 tỷ đồng, chiếm 
93% giá trị nợ xấu. 
Tuy nhiên, hết quý I/2020, nợ 
xấu vẫn chưa phản ánh được đầy 
đủ hệ lụy do dịch bệnh gây ra, mà 
có thể đến quý II hoặc thậm chí là 
quý III mới thấy được tác động rõ 
nét từ dịch bệnh. Sang quý 
2/2020 dự báo sẽ tăng cao hơn 
bởi hoạt động sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp, việc 
làm của người lao động còn chịu 
ảnh hưởng tiêu cực kéo dài cả sau 
khi hết dịch. Do đó, nguy cơ 
khách hàng không có khả năng 
trả nợ đúng hạn, vẫn tiềm tàng. Vì 
vậy, các NHTM cần theo dõi chặt 
chẽ chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu. 
4.2. Thực trạng nợ xấu ngoài 
bảng đã bán cho VAMC bằng trái 
phiếu đặc biệt tại các ngân hàng 
thương mại Việt Nam 
Ngày 27/6/2013, Công ty Quản 
lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt 
Nam (VAMC) được thành lập và đi 
vào hoạt động một tháng sau đó. 
VAMC đã mua hàng chục nghìn tỷ 
đồng nợ xấu mỗi năm và thanh 
toán bằng trái phiếu đặc biệt. Bên 
cạnh đó, các NHTM cũng đẩy 
mạnh nợ xấu vào VAMC giúp kéo 
tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống 
ngân hàng về mức an toàn dưới 
3% vào cuối năm 2015 và duy trì 
dưới mức này kể từ đó đến nay. 
Chi tiết như bảng 3. 
Bảng 3. Trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành tại một số NHTM năm 2018, 
2019 
Đơn vị tính: tỷ đồng 
STT Ngân hàng Năm 2018 Năm 2019 Tăng/giảm % 
1 Sacombank 43.266,7 40.233,2 -7,0% 
2 BIDV 19.348,0 14.138,0 -26,9% 
3 Vietinbank 2.471,6 13.426,8 443,2% 
4 SHB 8.118,8 7.501,2 -7,6% 
5 Eximbank 5.991,6 5.487,4 -8,4% 
6 HDBank 1.838,9 1.407,8 -23,4% 
7 LienVietpostbank 1.715,7 1.175,2 -31,5% 
8 MSB 837,4 1.263,3 50,9% 
9 ACB 40,4 40,4 0,0% 
(Nguồn: [1] và tính toán của tác giả] 
Bán nợ cho VAMC là một phương thức chủ yếu của các 
ngân hàng để được hỗ trợ trong quá trình xử lý nợ xấu, đồng 
thời cũng là một cách làm đẹp bảng cân đối kế toán. Tuy 
nhiên, bán nợ cho VAMC cũng không đồng nghĩa các ngân 
hàng sẽ thoát khỏi gánh nặng từ các khoản nợ xấu này. 
Bảng 2. Phân loại nợ xấu tại các NHTM năm 2019 và quý I/2020 
Đơn vị tính: tỷ đồng 
Ngân hàng Phân loại nợ xấu 31/12/2019 Phân loại nợ xấu 31/3/2020 Nợ xấu 
Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Năm 2019 QI/2020 (+/-)% 
ABBank 292 423 597 376 478 592 1.312 1.446 10,21 
ACB 235 311 903 442 386 964 1.449 1.792 23,67 
BacABank 265 18 216 271 33 276 499 580 16,23 
BIDV 3.850 4.393 11.209 4.327 4.510 10.453 19.452 19.290 (0,83) 
Eximbank 973 145 815 1.030 181 807 1.933 2.018 4,40 
HDBank 484 584 929 643 643 958 1.997 2.244 12,37 
KienlongBank 38 65 239 45 69 2.127 342 2.241 555,26 
LPBank 280 324 1.426 404 356 1.320 2.030 2.080 2,46 
MBBank 1.380 899 618 1.365 1.734 906 2.897 4.005 38,25 
NamABank 532 537 265 543 474 384 1.334 1.401 5,02 
OCB 351 225 732 269 331 700 1.308 1.300 (0,61) 
PGBank 45 138 480 94 122 552 663 768 15,84 
Sacombank 298 431 5.022 418 397 5.232 5.751 6.047 5,15 
SCB 301 274 1.069 399 397 1.176 1.644 1.972 19,95 
SeABank 417 757 1.105 374 461 1.437 2.279 2.272 (0,31) 
SHB 888 470 3.498 1.700 754 3.683 4.856 6.137 26,38 
Techcombank 218 305 2.555 405 294 1.830 3.078 2.529 (17,84) 
TPBank 481 305 449 776 500 608 1.235 1.884 52,55 
VietBank 87 98 354 68 160 344 539 572 6,12 
Vietcombank 610 585 4.529 904 837 4.451 5.724 6.192 8,18 
VietinBank 2.063 1.547 7.204 9.703 2.589 4.625 10.814 16.917 56,44 
VPBank 5.312 1.447 2.038 4.825 1.560 1.598 8.797 7.983 (9,25) 
(Nguồn: [1] và tính toán của tác giả) 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY 
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 6 (Dec 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 149
Tính đến hết quý I/2020, có 14 ngân hàng đã tất toán 
trái phiếu và xóa nợ xấu tại VAMC gồm: Kienlongbank, 
Vietcombank, VIB, Techcombank, TPBank, NamABank, OCB, 
Agribank, SeABank, MB và VPBank, ACB, NamABank, BIDV, 
VietCapital Bank. Đây được xem là tín hiệu tích cực trong 
quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống. Khi các ngân hàng 
mua lại nợ xấu tại VAMC để tự xử lý, cho thấy các ngân 
hàng đã đủ nguồn lực tài chính để xử lý nợ xấu. Bởi chỉ có 
bản thân các ngân hàng mới hiểu rõ từng khoản nợ xấu để 
có hình thức xử lý cũng như thu hồi sớm nhất và đúng đắn 
như: bán, thanh lý Khi các khoản nợ xấu này được xử lý 
xong sẽ được hoàn nhập dự phòng, góp phần làm tăng lợi 
nhuận thực sự của ngân hàng. 
4.3. Công tác xử lý nợ xấu 
NHNN đã xây dựng Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 
21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu và Đề án “Cơ cấu lại hệ 
thống các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-
2020”. Trên cơ sở đó, NHNN chủ động, tích cực triển khai 
quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp được giao, cụ thể: 
(1) Yêu cầu các tổ chức tín dụng rà soát, đánh giá toàn 
bộ danh mục tín dụng, thực trạng nợ xấu sửa đổi các quy 
định nội bộ liên quan quy trình, hướng dẫn công tác thu 
giữ tài sản được xác định theo các quy định tại Nghị quyết 
42; thành lập Ban chỉ đạo, các tổ công tác xử lý nợ xấu và 
ban hành văn bản chỉ đạo các đơn vị phổ biến, hướng dẫn, 
tập huấn nội dung Nghị quyết cho cán bộ từ Hội sở đến các 
chi nhánh trong toàn hệ thống; phối hợp với VAMC, các 
đơn vị liên quan, chính quyền các cấp để tranh thủ sự chỉ 
đạo, hỗ trợ trong quá trình xử lý nợ xấu 
 (2) NHNN cũng chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành 
phố yêu cầu các chi nhánh TCTD trên địa bàn chấp hành 
nghiêm túc quy định của pháp luật về cấp tín dụng, bảo 
đảm tiền vay, các quy định an toàn trong hoạt động; có văn 
bản cảnh báo nợ xấu đối với các ngân hàng có nợ xấu vượt 
mức cho phép; đồng thời thanh tra, giám sát công tác tín 
dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, xử lý thu hồi 
nợ, phát hiện và xử lý kịp thời các TCTD và cá nhân có hành 
vi vi phạm nhằm nâng cao chất lượng tín dụng; 
 (3) Đồng thời, giao VAMC hoàn thiện việc sửa đổi và 
ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với 
các quy định mới; ký thỏa thuận hợp tác, phối hợp với một 
số TCTD (6 TCTD: Agribank, BIDV, Vietinbank, ACB, 
Sacombank, Techcombank) thí điểm triển khai đẩy mạnh 
xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42; hoàn thiện phương án 
mua nợ xấu theo giá thị trường, phối hợp chặt chẽ với các 
cơ quan có thẩm quyền và khách hàng vay để hoàn thiện 
thủ tục, hồ sơ pháp lý và đề nghị được áp dụng thủ tục rút 
gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao và xử lý 
tài sản bảo đảm; đánh giá thực trạng các khoản nợ, nợ xấu 
và tài sản đảm bảo cho các khoản nợ xấu đã mua để xác 
định khả năng thu hồi nợ, từ đó, có biện pháp xử lý phù 
hợp; tích cực tìm kiếm các đối tác mua nợ đối với các khoản 
nợ đã bán cho VAMC và được VAMC ủy quyền bán nợ. 
Kết quả cho thấy, sau khi Nghị quyết 42 và Đề án 1058 
được ban hành và có hiệu lực, tính đến cuối năm 2019, nợ 
xấu của toàn hệ thống TCTD được xử lý tăng lên đáng kể 
và bước đầu đã đạt được những thành quả tích cực. Chủ 
yếu là từ phía các TCTD tự xử lý, bình quân xử lý được 
khoảng gần 14 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 4 
nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi Nghị quyết 
42 có hiệu lực năm 2012-2017 (khoảng 10,1 nghìn tỷ 
đồng/tháng). Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 70,23 
nghìn tỷ đồng (chiếm 50,78%% tổng nợ xấu đã xử lý), xử 
lý các khoản hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác 
định theo Nghị quyết 42 là 21,59 nghìn tỷ đồng (bằng 
15,61%), xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 
42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc 
biệt là 46,46 nghìn tỷ đồng (bằng 33,59%). Bên cạnh đó, 
đến thời điểm cuối tháng 6/2019, các TCTD đã sử dụng 
61,04 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội 
bảng [2]. 
5. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA 
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THÔNG QUA 
NỢ XẤU 
5.1. Kết quả đạt được 
Thứ nhất, kể từ khi VAMC ra đời đã hỗ trợ các NHTM rất 
nhiều trong quá trình xử lý nợ xấu. Và thực tế, trong 2 năm 
trở lại đây, các NHTM đã có xu hướng hạn chế đẩy nợ xấu 
sang VAMC, thay vào đó tích cực xử lý nợ xấu qua các hình 
thức như bán nợ, phát mại tài sản bảo đảm, sử dụng dự 
phòng rủi ro tín dụng, Việc bán nợ xấu cho VAMC đã 
giúp nhiều NHTM có thêm thời gian để tích tụ tài chính, 
cũng như tập trung nguồn lực xử lý những khoản nợ có vấn 
đề khác cấp thiết hơn. Kết quả là sau vài năm kinh doanh 
hiệu quả trở lại, không ít ngân hàng đã mua lại toàn bộ nợ 
xấu đã bán cho VAMC hoặc đủ sức trích lập 100% dự phòng 
và tất toán trái phiếu đặc biệt với VAMC. 
Thứ hai, mặt khác sau khi triển khai Nghị quyết số 
42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của 
các TCTD và Quyết định số 1058/QĐ-TTg, các chính sách 
này đã tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ 
xấu, tài sản bảo đảm của các TCTD. Nhờ những thay đổi về 
hành lang pháp lý đó mà nhiều khoản nợ xấu tại ngân hàng 
được xử lý, góp phần củng cố năng lực tài chính, cải thiện 
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nhiều NHTM đã thành 
công trong việc xử lý và bán đấu giá nhiều tài sản lớn tồn 
đọng nhiều năm. Có những khoản nhiều năm không xử lý 
được đồng nào, nay giải quyết được trên 90%. 
5.2. Những hạn chế, khó khăn còn vướng mắc 
Một là, theo NHNN Việt Nam [3], tổng dư nợ bị ảnh 
hưởng bởi dịch Covid-19 theo thống kê sơ bộ từ các TCTD 
ước tính lên tới khoảng 900 ngàn tỷ đồng. Đại dịch Covid-
19 bùng phát làm hàng hóa trở nên ách tắc, sản xuất kinh 
doanh đình trệ, hàng xuất đi không bán được hoặc nếu có 
đầu ra thì lại thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào do các thị 
trường nhập khẩu nguyên vật liệu đều dừng hoạt động. 
Như vậy, có thể thấy, với việc nền kinh tế rơi vào tình trạng 
trì trệ, chuỗi cung ứng bị gián đoạn thì doanh nghiệp là 
những đối tượng sẽ gặp khó khăn đầu tiên, từ đó, ảnh 
hưởng đến năng lực trả nợ vay cho các ngân hàng. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 6 (12/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 150
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 
Tính đến thời điểm hiện tại, số lượng doanh nghiệp tạm 
ngừng kinh doanh và chờ giải thể tăng vọt so với cùng kỳ 
năm ngoái, dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ 
đúng hạn và từ đó gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn, gia tăng nợ 
xấu. Nhiều ngành như nông, lâm nghiệp và thủy sản, 
doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu, dịch vụ lưu 
trú, ăn uống, thực phẩm, đồ uống, vận tải, dệt may, da giầy, 
điện tử, điện lạnh, dầu khí, du lịch, giáo dục, cùng các 
doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu và nguồn nguyên 
liệu nhập khẩu chính từ Trung Quốc đều là những nhóm 
chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh. Những doanh 
nghiệp trong các lĩnh vực này chiếm lượng khá lớn trong số 
các khách hàng của các ngân hàng, do đó, nguy cơ gia tăng 
nợ xấu là khó tránh khỏi. Đây là các vướng mắc chưa tháo 
gỡ được làm cho dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong 
quý 1/2020 tăng trưởng chậm, vì vậy cũng khiến cho tỷ lệ 
nợ xấu tính trên tổng dư nợ tăng. 
Hai là, vào giai đoạn 2014-2015, Công ty VAMC đã mua 
số lượng lớn nợ xấu từ các NHTM. Thời gian đáo hạn của trái 
phiếu VAMC là 5 năm, nghĩa là các trái phiếu này sẽ đáo hạn 
vào năm 2019 và 2020. Năm 2020 là thời điểm nhiều ngân 
hàng phải nhận lại những khoản nợ xấu đã bán cho VAMC 
mà không xử lý được. Điều đó sẽ khiến tỷ lệ nợ xấu của các 
ngân hàng còn tăng. Trong các biện pháp giải quyết nợ xấu 
của các NHTM thì chủ yếu vẫn là bán nợ cho VAMC, trích lập 
dự phòng rủi ro đưa ra ngoại bảng, còn số nợ xấu thu 
được từ bán tài sản đảm bảo, từ khách hàng chiếm tỷ trọng 
thấp. Nợ xấu vẫn có khả năng quay lại ngân hàng nếu sau 5 
năm (thời hạn của trái phiếu đặc biệt) vẫn chưa được xử lý. 
Hơn nữa, tuy đã bán nợ cho VAMC, các ngân hàng vẫn phải 
tiếp tục trích lập dự phòng với chi phí khá cao ở mức 20% đối 
với mệnh giá trái phiếu trong vòng 5 năm (chỉ trừ vài trường 
hợp đặc biệt dạng tái cơ cấu được trích lập dự phòng ở mức 
10% theo thời hạn trái phiếu 10 năm). 
Ba là, công tác xử lý nợ xấu vẫn tồn tại nhiều khó khăn 
do chưa có thị trường mua bán nợ thật sự chuyên nghiệp, 
dẫn đến việc mua bán nợ xấu chưa sôi động, các thương vụ 
lớn chưa phát sinh nhiều do quy định pháp luật về các 
ngành, lĩnh vực khác nhau còn thiếu đồng bộ, dẫn đến việc 
không đồng nhất ở các lĩnh vực. Mặt khác, cách tiếp cận 
cũng như cách hiểu của các cơ quan khác nhau về xử lý nợ 
xấu, xử lý tài sản bảo đảm còn chưa nhất quán làm cho quá 
trình thực thi bị cản trở. Hoặc pháp luật đã cho phép ngân 
hàng tự xử lý tài sản bảo đảm, nhưng do các cơ quan chức 
năng vẫn quen xử lý các giao dịch chủ sở hữu tài sản mua 
bán, chuyển nhượng với bên mua, nên khi ngân hàng là 
bên bán/chuyển nhượng thì cơ quan chức năng không 
đồng ý. Thực trạng này làm cho quá trình ngân hàng xử lý 
tài sản bảo đảm rất vướng mắc bởi kể cả khi đã bán đấu giá 
tài sản, bên mua vẫn không hoàn thành được thủ tục sang 
tên và ngân hàng vẫn phải tham gia vào quá trình xử lý mà 
không thu được nợ. 
Do đó, để xử lý nợ xấu không còn là bài toán khó, đòi 
hỏi phải hình thành được thị trường mua - bán nợ với sự 
tham gia của các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài. 
Cùng với đó, thị trường mua - bán nợ phải được đa dạng 
với nhiều đối tượng, thành phần khác nhau, ngay cả người 
dân cũng có thể tham gia thị trường này. Sàn giao dịch 
phải có đủ hạ tầng cơ sở, có thông tin đầy đủ về những 
món nợ xấu được đưa lên sàn và giao dịch buôn bán như 
món hàng hóa. Điều quan trọng là những quy định về 
chuyển nhượng tài sản từ bất động sản, đất đai nhà cửa 
phải được thông thoáng hơn. Bởi hiện tại vẫn còn nhiều 
vướng mắc trong vấn đề chuyển giao, bán đấu giá, chuyển 
nhượng, công chứng Nếu các quy định về pháp luật còn 
khó khăn, còn nhiều ràng buộc thì vấn đề xử lý nợ không 
dễ thực hiện một cách nhanh chóng. 
5.3. Các giải pháp từ phía ngân hàng thương mại 
Trước tác động của dịch bệnh, các NHTM cần có các 
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân như: chính 
sách cơ cấu nợ, giãn nợ, giảm lãi vay 1 - 1,5%/năm để góp 
phần giảm khó khăn cho khách hàng và giữ cho nợ xấu 
không bị đẩy lên cao. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải 
chấp nhận giảm lợi nhuận, tăng trích lập dự phòng rủi ro. 
Đồng thời, phải siết chặt chất lượng tín dụng các khoản vay 
mới, tránh làm nợ xấu phát sinh thêm. Việc hỗ trợ tín dụng 
kỳ vọng sẽ giúp doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh 
doanh trước mắt. Vài tháng nữa mọi chuyện sẽ trở lại bình 
thường và các doanh nghiệp được hỗ trợ sẽ đủ khả năng 
trả nợ. 
Như vậy, để giảm thiểu nợ xấu, các ngân hàng cần kiên 
trì tuân thủ các chỉ đạo của NHNN trong việc cơ cấu lại thời 
gian trả nợ, miễn giảm lãi vay cho khách hàng vay vốn tại 
ngân hàng. Việc này sẽ khiến các ngân hàng phải hi sinh 
mục tiêu lợi nhuận đã đặt ra, nhưng chung lưng cùng 
doanh nghiệp và cá nhân đang gặp khó khăn vì Covid-19 
sẽ giúp họ sớm phục hồi hoạt động, từ đó, không chỉ khách 
hàng mà cả ngân hàng và nền kinh tế sẽ hồi phục bền 
vững. Ngược lại, nếu ngân hàng theo đuổi mục tiêu lợi 
nhuận, không duy trì những chính sách hỗ trợ khách hàng 
khi họ đang gặp khó khăn thì có thể ngân hàng và cả nền 
kinh tế sẽ bị ảnh hưởng nhiều khi giải quyết bài toán phải 
xử lý nợ xấu trong nhiều năm sau đại dịch. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2018, 2019 và quý I/2020 của các 
ngân hàng thương mại Việt Nam. 
[2]. Báo cáo thường niên của ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2018. 
[3]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2013. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN 
ngày 21/01/2013 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích 
lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ 
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 
[4] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2020. Báo cáo số 67/BC-NHNN, Báo cáo 
tác động của dịch Covid-19 lên kinh tế, tiền tệ; định hướng giải pháp thời gian tới. 
AUTHOR INFORMATION 
Duong Thi Hoan 
Faculty of Business Administration, Hanoi University of Industry 

File đính kèm:

  • pdfchat_luong_tin_dung_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_nh.pdf