Chất lượng cuộc sống của trẻ mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung Ương liên quan đến tình trạng lo âu của bố mẹ
Nghiên cứu được tiến hành trên 112 cặp trẻ bệnh lupus
ban đỏ hệ thống (SLE) và cha mẹ. Với mục tiêu nghiên
cứu: (1) mô tả tình trạng chất lượng cuộc sống (CLCS) của
trẻ bệnh và (2) mối liên quan giữa CLCS của trẻ với tình
trạng lo âu của cha mẹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Có
49,1% trẻ bị giảm CLCS. Chức năng hoạt động thể chất bị
giảm mạnh nhất (68,8).Tỷ lệ lo âu của bố mẹ rất cao: 83%.
Những trẻ có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng, giai đoạn
bệnh nặng với tiến triển bệnh không tốt làm tăng nguy cơ
lo âu của bố mẹ lên từ 3,4 đến 5,3 lần với (p <>
Kết luận: Trẻ bị lupus ban đỏ hệ thống bị suy giảm
chất lượng cuộc sống khá rõ. Có mối liên quan rõ rệt giữa
suy giảm CLCS của con và tình trạng lo âu của bố mẹ
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng cuộc sống của trẻ mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung Ương liên quan đến tình trạng lo âu của bố mẹ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống của trẻ mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung Ương liên quan đến tình trạng lo âu của bố mẹ
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 113 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA TRẺ MẮC BỆNH LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG LO ÂU CỦA BỐ MẸ Nguyễn Thị Dậu1, Lê Đức Sang2, Trương Việt Dũng2 TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành trên 112 cặp trẻ bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và cha mẹ. Với mục tiêu nghiên cứu: (1) mô tả tình trạng chất lượng cuộc sống (CLCS) của trẻ bệnh và (2) mối liên quan giữa CLCS của trẻ với tình trạng lo âu của cha mẹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Có 49,1% trẻ bị giảm CLCS. Chức năng hoạt động thể chất bị giảm mạnh nhất (68,8).Tỷ lệ lo âu của bố mẹ rất cao: 83%. Những trẻ có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng, giai đoạn bệnh nặng với tiến triển bệnh không tốt làm tăng nguy cơ lo âu của bố mẹ lên từ 3,4 đến 5,3 lần với (p < 0,05). Kết luận: Trẻ bị lupus ban đỏ hệ thống bị suy giảm chất lượng cuộc sống khá rõ. Có mối liên quan rõ rệt giữa suy giảm CLCS của con và tình trạng lo âu của bố mẹ. Từ khóa: Lupus ban đỏ hệ thống , CLCS trẻ em, lo âu của bố mẹ. SUMMARY: QUALITY OF LIFE OF CHILDREN WITH SYSTEMIC LUPUS ERYTHEMATOSUS BEING TREATED AT NATIONAL HOSPITAL OF PEDIATRICS AND THE RELATIONSHIP BETWEEN THEIR QOL AND PARENTS’ ANXIETY The study was conducted on 112 pairs of systemic lupus erythematosus (SLE) and parents. The study ojectives: (1) describe the quality of life of the sick child and (2) the relationship between the child’s quality of life and the anxiety of the parents. Research results show that 49.1% of children have a reduced quality of life. Physical activity was the strongest decrease (68.8%). The parent’s anxiety rate is very high: 83%. Children with a period of illness of less than 12 months, a period of severe illness with poor disease progression increase their parents’ anxiety risk from 3, 4 to 5.3 times with (p <0.05). Conclusion: Children with systemic lupus erythematosus have a marked decrease in quality of life. There is a clear relationship between impaired quality of children and parental anxiety. Key words: Systemic lupus erythematosus, CLCS children, parental anxiety. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh tự miễn, hệ thống, mạn tính gây tổn thương nhiều cơ quan và có tỷ lệ tử vong cao[3], [6]. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường xảy ra sau năm tuổi [5]. Đây là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ, thường có thay đổi về thể chất, tâm lý. Trẻ bị mắc SLE thường phải thu mình khỏi cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, trẻ thường phải vào viện điều trị những đợt cấp của bệnh sau đó tái khám định kỳ. Thêm vào đó việc sử dụng thuốc cũng gây nhiều tác dụng phụ khiến trẻ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, lao động, học tập và các mối QHXH. Bố mẹ là người quyết định tiếp cận các dịch vụ y tế, trực tiếp chăm sóc cho trẻ nên cha mẹ phải trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau xen vào đó là nỗi lo bệnh tật của con. Nên cảm xúc của cha mẹ cũng rất cần được quan tâm trong điều trị bệnh cho trẻ. Khoa Thận lọc máu- Bệnh viện Nhi Trung ương cho tới nay chưa có nghiên cứu về các yếu tố tác động từ bệnh tật của con, đặc biệt là CLCS của trẻ bệnh lên tình trạng lo âu của bố mẹ . Để hiểu rõ hơn về tình trạng suy giảm CLCS của trẻ bệnh và cảm xúc của bố mẹ khi có con bị SLE, từ đó có kế hoạch chăm sóc tốt hơn về mặt tâm lý cho bệnh nhi và gia đình bệnh nhi, góp phần nâng cao chất lượng trong chăm sóc và điều trị bệnh cho trẻ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với 2 mục tiêu: 1. Mô tả chất lượng cuộc sống của bệnh nhi mắc bệnh Lupus ban đỏ hệ thống và tình trạng lo âu của bố mẹ trẻ bệnh điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương. 2. Phân tích mối liên quan giữa giảm chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh lên tình trạng lo âu của bố mẹ và một số yếu tố liên quan khác. Ngày nhận bài: 31/10/2019 Ngày phản biện: 07/11/2019 Ngày duyệt đăng: 15/11/2019 1. Bệnh viện Nhi Trung ương 2. Trường ĐH Thăng Long SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn114 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Cha/mẹ có con bị bệnh và trẻ đang điều trị bệnh SLE Tiêu chuẩn lựa chọn: Cha mẹ là người trực tiếp chăm sóc cho trẻ, có khả năng trả lời các câu hỏi và tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu. Trẻ bệnh tuổi từ 5 đến 18 có khả năng tự trả lời các câu hỏi và không từ chối tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: Cha/mẹ đang mắc bệnh cấp tính hoặc mắc các rối loạn tâm thần như lo âu, trầm cảm, stress được chẩn đoán trước khi trẻ mắc bệnh SLE. Trẻ hoặc cha mẹ từ chối để con trả lời các câu hỏi hoặc không đủ nhận thức để giao tiếp. 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ 07/2019 đến 09/2019 tại Khoa Thận lọc máu, Bệnh viện Nhi Trung ương. 2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. 2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện, tất cả cha/mẹ và trẻ bị bệnh SLE đến khám và điều trị trong 03 tháng (01/07/2019 đến 30/09/2019). 2.5. Công cụ đánh giá: Sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc, kết hợp thang đánh giá lo âu và trầm cảm trên bệnh nhân tại bệnh viện (Hospital Anxiety and Depression - HADS - A) [7]. Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu hỏi, chia theo các mức độ: Từ 0 đến 7 điểm: bình thường; từ 8 đến 10 điểm: có thể có triệu chứng của lo âu; từ 11 đến 21 điểm: lo âu thực sự. * Đánh giá về chất lượng cuộc sống của trẻ từ 5 đến 18 tuổi, sử dụng thang điểm đánh giá CLCS tổng quát trẻ em (PedsQLTM 4.0). Thang gồm 23 mục về 4 lĩnh vực: thể lực, cảm xúc,QHXH và học tập của trẻ. Mỗi chức năng có từ 3 đến 5 câu hỏi. Điểm được phân bố từ 0 đến 4. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng điểm cắt từ 20 trở lên được coi là có giảm CLCS. 2.6. Phương pháp thu thập số liệu: Nghiên cứu viên và nhóm nghiên cứu phỏng vấn cha/mẹ và bệnh nhi tại phòng khám và phòng bệnh theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Sau đó cha/mẹ tự trả lời thang đo lo âu HADS- A. Trẻ sẽ tự trả lời về thang điểm CLCS hoặc cha mẹ trả lời (nếu trẻ không tự trả lời được). 2.7. Phân tích số liệu: Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê trong y học SPSS 20.0 2.8. Đạo đức nghiên cứu: Các đối tượng nghiên cứu được giải thích kỹ, chỉ tiến hành phỏng vấn khi được sự đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. Các thông tin và số liệu thu thập được bảo mật và chỉ được sử dụng vào mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm chung của trẻ bệnh và của bố mẹ trẻ nghiên cứu 3.1.1. Đặc điểm trẻ bệnh SLE Trong 112 trẻ tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 5 - 18 tuổi, trong đó chủ yếu là nhóm 13 -18 tuổi chiếm 66,1%. Tuổi trung bình khởi phát bệnh là 12,77 ± 2,91. Trẻ nữ là chủ yếu chiếm 81,3%, tỷ lệ nam/nữ là 1/4,3. Đa số trẻ đang ở giai đoạn bệnh trung bình chiếm 71,4%. Thời gian mắc bệnh trung bình là 25,71 ± 19,76, trong đó chủ yếu là nhóm trên 12 tháng chiếm 66,1%. Đa số trẻ có tiến triển bệnh là tốt chiếm 50% và chỉ có 9,8% trẻ có tiến triển bệnh là xấu đi. 3.1.2. Đặc điểm của cha mẹ trẻ bệnh SLE Tại thời điểm nghiên cứu tuổi trung bình của cha mẹ bệnh nhi là 40,8 ± 6,62. Trong đó các bà mẹ là đa số chiếm 69,6%. Với nghề nghiệp chủ yếu là nông dân và lao động tự do. Số cha mẹ không đủ khả năng chi trả viện phí cho con phải vay nợ một phần hoặc toàn bố chiếm 53,6%. 3.2. Ảnh hưởng của bệnh lupus ban đỏ đến CLCS của trẻ Bảng 1. Chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh Chất lượng cuộc sống Nhóm tuổi (%) 5 – 7 tuổi (n=48) 8 -12 tuổi (n=56) 13 -18 tuổi ( n=8) Chung (n=112) Chất lượng cuộc sống chung Có giảm 24 ( 50,0) 28 (50,0) 3 (37,5) 55 ( 49,1) Không giảm 24 (50,0) 28 (50,0) 8 (62,5) 57 ( 50,9) Giảm chất lượng cuộc sống theo lĩnh vực Thể chất 32 (66,7) 42 (75,0) 3 (37,5) 77 (68,8) Cảm xúc 19 (39,6) 24 (42,9) 4 (50,0) 47 (42,0) Quan hệ xã hội 3 (6,2) 6 (10,7) 1 (12,5) 10 (8,9) Học tập 30 (62,5) 35 (62,5) 3 (37,5) 68 (60,7) SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 115 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 2. Mức độ lo âu của bố mẹ theo thang điểm HADS-A ( n = 112) Mức điểm Tình trạng lo âu n % Lo âu thực sự 55 49,1 Có triệu chứng lo âu 38 33,9 Bình thường 19 17 Bảng 3. Tỷ lệ lo âu của bố mẹ theo đặc điểm bệnh của con ( n= 112) Đặc điểm bệnh Lo âu Có n (%) Không n (%) Giai đoạn bệnh ≥ Trung bình 80 (87%) 12 (13%) < Trung bình 13 (65%) 7 (35%) Thời gian được chẩn đoán (tháng) ≤ 12 tháng 36 (94,7%) 2 (5,3%) > 12 tháng 57 (77%) 17 (23%) Tiến triển bệnh Không tốt 51 (91,1%) 5 (8,9%) Tốt 42 (75%) 14 (25%) Tác dụng phụ khi điều trị Trung bình, nhiều 41 (85,4%) 7 (14,6%) Ít 52 (81,2%) 12 (18,8%) Nhận xét: Có 49,1% trẻ bệnh bị suy giảm CLCS. CLCS liên quan đến hoạt động thể chất bị giảm nhiều nhất (68,8%), tiếp đến là CLCS liên quan đến việc học tập ở trường (60,7%) và CLCS liên quan đến cảm xúc (42%). Trẻ bệnh chưa bị ảnh hưởng nhiều đến các QHXH (gần 9%). 3.3. Tình trạng lo âu của bố mẹ trẻ nghiên cứu Nhận xét: Trong 112 cha mẹ tham gia nghiên cứu tỷ lệ lo âu chiếm 83%, trong đó lo âu thực sự là 49,1%, có triệu chứng lo âu là 33,9%. Nhận xét: Các cha mẹ có con bệnh ở giai đoạn nặng và trung bình, có thời gian điều trị dưới 12 tháng, với tiến triển bệnh không tốt có tỷ lệ lo âu cao hơn các cha mẹ có con giai đoạn bệnh dưới trung bình, thời gian điều trị trên 12 tháng có tiển triển bệnh tốt. 3.4. Mối liên quan giữa CLCS của trẻ bệnh ảnh hưởng lên tình trạng lo âu của bố mẹ SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn116 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 Bảng 4. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu của bố mẹ trẻ bệnh (phân tích đơn biến n = 93) Đặc điểm đối tượng NC Lo âu n (%) p OR 95%CI Nghề nghiệp CBNN,CN,ND 66 (89,2%) 0,015 3,36 ( 1,22- 9,27)Tự do 27 (71,1%) Kinh tế gia đình Có 83 (83,8%) 0,023 3,4 ( 1,13- 10,21)Không 10 (76,9%) Khả năng chi trả Không đủ khả năng 55 (91,7%) 0,009 4,05 ( 1,35- 12,2)Đủ khả năng 38 (73,1%) Giai đoạn bệnh ≥ trung bình 80 (87%) 0,028 3,59 ( 1,19- 10,8)< trung bình 13 (65%) Thời gian chẩn đoán ≤ 12 tháng 36 (94,7%) 0,018 5,37 ( 1,17- 24,63)>12 tháng 57 (77%) Tiến triển bệnh Không tốt 51 (91,1% 0,023 1,35 ( 0,49- 3,74)Tốt 42 (75%) Bảng 5. Mối liên quan giữa tình trạng lo âu của bố mẹ và CLCS của trẻ bệnh CLCS của con Tình trạng lo âu của bố/mẹ OR (95%CI) p Có Không Giảm sút chức năng hoạt động thể chất Có Không 69 ( 89,6%) 8 ( 10,4%) 3,95 <0,05 24 (68,6%) 11 ( 31,4%) (1,4 – 10,9) Giảm sút chức năng cảm xúc Có Không 40 ( 85,1%) 7 ( 14,9%) 1,3 >0,05 53 (81,5%) 12 (0,4 – 3,5) Giảm sút chức năng xã hội ( giao tiếp, hòa nhập) Có Không 9 ( 90,0%) 1 (10,0%) 1,9 >0,05 84 ( 82,4%) 17 (0,2 – 16,2) Giảm sút học tập ở trường Có Không 60 ( 82,2%) 8 2,5 >0,05 33 ( 75,0%) 11 (0,9 – 6,8) CLCS chung của trẻ bệnh Có Không 49 ( 89,1%) 6 2,4 >0,05 44 (77,2%) 13 ( 0,8 – 6,8) Nhận xét: Tìm thấy mối liên quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ, kinh tế gia đình, khả năng chi trả, giai đoạn bệnh của trẻ, thời gian chẩn đoán bệnh, tiến triển bệnh với tình trạng lo âu của bố mẹ. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 117 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Nhận xét: Chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh giảm sút làm tăng nguy cơ bố/mẹ bị lâm vào tình trạng lo âu nói chung lên 2,4 lần (OR = 2,4; p>0,05). Khi trẻ bệnh bị giảm chức năng hoạt động thể chất tác động lên bố mẹ mạnh nhất, tăng nguy cơ lo âu lên 3,9 lần với (p < 0,05). IV. BÀN LUẬN 4.1. Chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh Kết quả trong bảng 1 cho thấy có tới 49,1% số trẻ bệnh có giảm CLCS. Trẻ nhỏ tuổi có xu hướng CLCS giảm nhiều hơn trẻ lớn. Về lĩnh vực thể lực có tới 68,8% trẻ bị giảm hoạt động thể chất, nhóm trẻ 8-12 tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất (75%), có xu hướng càng ít tuổi mức giảm CLCS về thể chất nhiều hơn. Về lĩnh vực cảm xúc có tới 42% trẻ bị suy giảm cảm xúc. Tuổi càng lớn ảnh hưởng trên cảm xúc càng nhiều. Nhóm trẻ trên 12 tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất (50%). Về lĩnh vực QHXH chỉ có 8,9% trẻ bị suy giảm, trẻ càng lớn xu hưởng giảm CLCS về QHXH càng nhiều. Về lĩnh vực học tập có đến 60,7% số trẻ bị ảnh hưởng đến vấn đề học tập, trong đó nhóm trẻ dưới 12 tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất (62,5%). 4.2. Tình trạng lo âu của bố mẹ trẻ mắc lupus ban đỏ hệ thống Lo âu là biểu hiện đặc trưng của cha mẹ có con mắc các bệnh mạn tính đặc biệt là đối với cha mẹ trẻ bệnh SLE. Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt về lo âu giữa cha và mẹ. Điều này cho thấy một khi con bị bệnh thì cả cha và mẹ đều có những lo âu gần như nhau. Nguyễn Thị Thanh Mai và CS khảo sát bằng thang Zung Seft Anxiety Rating Scale trên 101 cha mẹ trẻ có con bị ung thư thông báo hầu hết cha mẹ có biểu hiện lo âu với tỷ lệ rất cao 94,3% [2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi với 112 cha mẹ thì có tới 93 cha mẹ là có lo âu chiếm 83%. Ung thư là căn bệnh ác tính nhất, nhưng SLE cũng là căn bệnh khá ác tính nhưng không quá nguy hiểm như ung thư, vì vậy tác động đến lo âu của bố mẹ cũng ít hơn. Những bố mẹ có nghề ngiệp CBNN, CN, ND có tỷ lệ lo âu cao hơn so với các bố mẹ làm nghề tự do. Kinh tế gia đình là một phần rất quan trọng trong hành trình chữa bệnh cho con. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những gia đình không có đủ khả năng chi trả viện phí có mức lo âu cao hơn các gia đình có đủ khả năng. Trẻ có giai đoạn bệnh trung bình và nặng thì cha mẹ có tỷ lệ lo âu cao hơn. Cha mẹ có con được phát hiện bệnh dưới 12 tháng có mức độ lo âu cao hơn (94,7%) cha mẹ có con mắc bệnh trên 12 tháng (77%), đây là giai đọan khủng hoảng ban đầu, sau đó ổn định dần. 4.3. Mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh ảnh hưởng lên tình trạng lo âu của bố mẹ Chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh giảm sút làm tăng nguy cơ cha mẹ lâm vào tình trạng lo âu nói chung lên 2,4 lần (OR = 2,4; p>0,05). Khi trẻ bệnh bị giảm chức năng hoạt động thể chất tác động lên bố mẹ mạnh nhất, tăng nguy cơ lo âu lên 3,9 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thông kê với (p < 0,05). Giai đoạn bệnh của con, tiến triển bệnh, tác dụng phụ khi điều trị có mối liên quan rõ rệt đến tình trạng lo âu của cha mẹ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với ((p <0,05). Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự nghiên cứu của Đào Thị Nguyệt và CS (2018) khi tổng số tổn thương tăng lên 2 thì CLCS của bệnh nhi giảm sút rõ rệt [1]. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các cha mẹ có nghề nghiệp là CBNC, CN, ND có tỷ lệ lo âu cao gấp 3,36 lần các cha mẹ làm nghề tự do. Sở dĩ có kết quả này có thể là do các cha mẹ làm nghề tự do họ không có công việc ổn định nên họ phải lo thêm gánh nặng chi phí cuộc sống khác. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những gia đình thuộc hộ nghèo, cận nghèo có mức lo âu cao gấp 3,4 lần các hộ không nghèo, những gia đình không đủ khả năng chi trả viện phí cho con cha mẹ lo âu cao gấp 4,05 lần những gia đình có đủ khả năng chi trả viện phí, sự khác biệt này cũng có ý nghĩa thống kê với (p < 0,005). Nghiên cứu của Hung YL và Chen JY trên đối tượng các bà mẹ có con bị ung thư cũng cho thấy: thu nhập hàng tháng của người mẹ có tương quan với tình trạng lo âu, trầm cảm của họ[4]. Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng cha mẹ có con điều trị dưới 12 tháng có tỷ lệ lo âu cao hơn 5,37 lần cha mẹ có con điều trị trên 12 tháng với (p=0,018). Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Mai: tỷ lệ lo âu của cha mẹ giảm dần theo thời gian [3]. Với cỡ mẫu khá khiêm tốn của nghiên cứu này, chưa cho phép khẳng định một số mối liên quan giữa suy giảm CLCS của con với sự lo âu của bố mẹ. V. KẾT LUẬN 1) 49,1% trẻ giảm CLCS. Chức năng hoạt động thể chất bị giảm mạnh nhất (68,8%). Mức độ tác động lên các nhóm CLCS khác nhau. - Về lĩnh vực thể lực có tới 68,8% trẻ bị giảm hoạt động thể chất, có xu hướng càng ít tuổi mức giảm CLCS thể chất nhiều hơn. - Về lĩnh vực cảm xúc có tới 42% trẻ bị suy giảm cảm xúc. Tuổi càng lớn ảnh hưởng trên cảm xúc càng nhiều. - Về lĩnh vực QHXH chỉ có 8,9% trẻ bị suy giảm, trẻ càng lớn xu hưởng giảm CLCS về QHXH càng nhiều. - Về lĩnh vực học tập có đến 60,7% số trẻ bị ảnh SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn118 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 hưởng đến vấn đề học tập, trong đó nhóm trẻ dưới 12 tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất. 2) Chất lượng cuộc sống của trẻ bệnh suy giảm tác động đến tình trạng lo âu của bố mẹ, tỷ lệ lo âu của bố mẹ rất cao: 83% - Có xu hướng tuổi của trẻ càng nhỏ thì bố mẹ lo âu càng nhiều. - Những trẻ có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng, giai đoạn bệnh nặng với tiến triển bệnh không tốt làm tăng nguy cơ lo âu của bố mẹ lên từ 3,4 đến 5,3 lần với (p < 0,05). - Trẻ bị giảm hoạt động thể chất tác động lên bố mẹ mạnh nhất, tăng nguy cơ lo âu lên 3,9 lần. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Thị Nguyệt, “Khảo sát chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe ở trẻ em mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống”. Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội năm 2018. 2. Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Viết Nghị, Nguyễn Công Khanh (2011), Nghiên cứu theo dõi dọc sự thay đổi của trầm cảm ở cha mẹ trẻ bị ung thư trong quá trình điều trị. Y học Thực hành(765), số 5/2011. 3. George Bertsias, Ricard Cervera và Dimitrios T Boumpas (2012). “Systemic Lupus Erythematosus: Pathogenesis and Clinical Features”. EULAR Textbook on Rheumatic Diseases, EULAR, 476-505. 4. Hung YL, Chen JY (2010). Factors related to health status in mothers of children with cancer. Hu Li Za Zhi2010 Dec;57(6): 42-50 5. Klein-Gitelman M. và Lane J.C. (2016). “Chapter 23 - Systemic Lupus Erythematosus A2 - Petty, Ross E”. trong Laxer R.M., Lindsley C.B. và Wedderburn L.R., Textbook of Pediatric Rheumatology (Seventh Edition), W.B. Saunders, Philadelphia, 285-317.e14. 6. Levy D.M. và Kamphuis S. (2012). Systemic lupus erythematosus in children and adolescents. Pediatr Clin North Am, 59(2), 345-64. 7. William W.K.Zung (1971). A Rating Instrument For Anxiety Disorders. Psychosomatics, 12(6), 371-379.
File đính kèm:
chat_luong_cuoc_song_cua_tre_mac_benh_lupus_ban_do_he_thong.pdf

