Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, năm 2020
Đặt vấn đề: Y văn cho thấy chất lượng cuộc sống (CLCS) có mối liên hệ chặt chẽ đến tuổi già và tình trạng
sức khỏe. Ngoài ra, phần lớn người cao tuổi ở Việt Nam hiện đang sống ở nông thôn (72,9%) mặc dù phần lớn
con cái của họ đã di cư ra thành thị để có cơ hội việc làm tốt. Vì vậy, việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc người cao
tuổi ngày càng tăng ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá CLCS
của người cao tuổi tại xã Cam Hòa, một vùng nông thôn thuộc duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định điểm số CLCS trung bình ở người cao tuổi tại xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh
Khánh Hòa và các yếu tố liên quan.
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, năm 2020

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 118 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI XÃ CAM HÒA, HUYỆN CAM LÂM, TỈNH KHÁNH HÒA, NĂM 2020 Hồ Phan Uyên1, Diệp Từ Mỹ1, Trần Thị Tuyết Nga1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Y văn cho thấy chất lượng cuộc sống (CLCS) có mối liên hệ chặt chẽ đến tuổi già và tình trạng sức khỏe. Ngoài ra, phần lớn người cao tuổi ở Việt Nam hiện đang sống ở nông thôn (72,9%) mặc dù phần lớn con cái của họ đã di cư ra thành thị để có cơ hội việc làm tốt. Vì vậy, việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng tăng ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá CLCS của người cao tuổi tại xã Cam Hòa, một vùng nông thôn thuộc duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Mục tiêu: Xác định điểm số CLCS trung bình ở người cao tuổi tại xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa và các yếu tố liên quan. Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 228 người từ 60 tuổi trở lên trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2020. Dữ liệu được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi WHOQol-OLD đánh giá CLCS người cao tuổi trên 6 lĩnh vực (“Giác quan”, “Tự chủ”, “Cái chết”, “Hoạt động quá khứ, hiện tại, tương lai”, “Hoạt động xã hội”, “Tình thương”). Kết quả: Điểm số trung bình CLCS chung của người cao tuổi là 66,1 ± 10,9 điểm. Những yếu tố đặc điểm dân số - xã hội như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng kinh tế và các yếu tố tinh thần như tham gia hoạt động xã hội, sự quan tâm của con cháu, niềm tin vào cộng đồng địa phương, sự gắn kết/hỗ trợ trong cộng đồng địa phương có ảnh hưởng tới điểm số CLCS của người cao tuổi. Kết luận: Sự suy giảm của niềm tin và sự gắn kết/ hỗ trợ trong cộng đồng địa phương làm giảm CLCS của người cao tuổi. Từ khóa: chất lượng cuộc sống, người cao tuổi, vốn xã hội ABSTRACT QUALITY OF LIFE OF THE ELDERLY IN CAM HOA COMMUNE, CAM LAM DISTRICT, KHANH HOA PROVINCE IN 2020 Ho Phan Uyen, Diep Tu My, Tran Thi Tuyet Nga * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 118 - 124 Background: Previous studies have shown the relation between quality of life (QoL) and aging, health status. Besides, the majority of the elderly in Vietnam are now living in rural area (72.9%) though most of their children have migrated to urban areas for better job opportunities. Therefore, it is crucial to cope with the increasing needs for elderly care in Vietnam. This study was conducted for assessing the QoL of elderly in a rural area in the coastal South Central Vietnam. Objectives: To identify the mean score of the QoL and its related factors of the elderly in Cam Hoa commune, Cam Lam District, Khanh Hoa Province. Methods: A cross sectional study was conducted with 228 people 60 years and older from June to September 2020. Face to face household interviews that used WHOQoL-OLD questionnaire to assess six QoL facets: "fungười cao tuổiioning of the sensory", "autonomy", "death and dying", "past, present and future activities", "social participation", and "intimacy"). 1Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS. Diệp Từ Mỹ ĐT: 0903999893 Email: [email protected] Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 119 Results: The mean score of the quality of life of the elderly was 66.1 ± 10.9. Social demographic characteristics (age, sex, education, marital status, economic situation) and mental factors including social activities, the offspring caring for parents, trust and social coperation affect the quality of life of the elderly. Conclusion: The decrease in trust and social coperation both reduces the quality of life of the elderly. Keywords: quality of life, elderly, social capital ĐẶT VẤN ĐỀ Già hóa dân số phản ánh quá trình chuyển đổi cơ cấu dân số theo hướng tăng tỷ trọng dân số già, được thể hiện qua chỉ số già hóa (tỉ số giữa dân số từ 60 tuổi trở lên so với dân số dưới 15 tuổi tính theo phần trăm). Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ 21, phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội và những tiến bộ trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật, nâng cao tuổi thọ của loài người. Không nằm ngoài xu hướng già hóa dân số toàn cầu, già hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra nhanh với chỉ số già hóa là 48,8%, tăng 13,3 điểm phần trăm so với năm 2009 và tăng hơn gấp đôi so với năm 1999(1). Chỉ số già hóa có xu hướng tiếp tục tăng lên trong những năm sắp tới. Mặc dù được xem là thành tựu của sự phát triển, già hóa dân số đặt ra nhiều thách thức lên kinh tế, xã hội, và đặc biệt đối với hệ thống chăm sóc y tế. Quá trình lão hóa không chỉ là sự suy giảm chức năng các cơ quan như nghe, nhìn, vận động; đồng thời gia tăng nguy cơ mắc các bệnh lý; vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (CLCS) của người cao tuổi. Y văn cho thấy những đặc điểm nhân khẩu học như tuổi, tình trạng học vấn, hôn nhân, bệnh tật có mối liên hệ với CLCS(2,3). Ngoài ra, những đặc điểm xã hội trong cộng đồng địa phương cũng được xem là một yếu tố quyết định đến sức khỏe và hạnh phúc của con người trong cộng đồng đó nói chung, và người cao tuổi nói riêng(4). Nhiều y văn trên thế giới cho thấy sự tồn tại ảnh hưởng của vốn xã hội ở mức độ cộng đồng địa phương như niềm tin vào cộng đồng, sự hỗ trợ gắn kết trong xã hội đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi(5,6,7). Hơn nữa, phần lớn người cao tuổi ở Việt Nam hiện đang sống ở nông thôn (72,9%) mặc dù phần lớn con cái của họ đã di cư ra thành thị để có cơ hội việc làm tốt(8). Vì vậy, việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng tăng ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá CLCS của người cao tuổi tại xã Cam Hòa, một vùng nông thôn thuộc duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam với dân số từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% tổng dân số vào năm 2019(1). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) hiện đang sinh sống tại xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa liên tục ít nhất 6 tháng bằng bộ câu hỏi soạn sẵn được thực hiện từ tháng 6 – 9/2020. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cỡ mẫu Cỡ mẫu được tính bằng công thức ước lượng một trung bình. Với xác suất sai lầm loại I là 0,05; sai số biên của ước lượng là 1,5. Dựa trên nghiên cứu của tác giả Lê Thị Quý Như Ý, để có cỡ mẫu lớn nhất ở từng lĩnh vực CLCS, lựa chọn độ lệch chuẩn điểm số CLCS lớn nhất ở lĩnh vực Tình thương (σ=11,56)(9). Cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu là 228 người. Kỹ thuật chọn mẫu Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Chọn ngẫu nhiên 3 thôn trong 8 thôn của xã Cam Hòa, số mẫu mỗi thôn cần lấy 228/3 là 76 người cao tuổi. Tiến hành nghiên cứu bắt đầu từ cổng thôn, tuần tự chọn 1 người cao tuổi/1 nhà theo phương pháp “cổng liền cổng”. Vốn xã hội Vốn xã hội là một khái niệm đa chiều, phức Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 120 tạp và không có một định nghĩa cụ thể thống nhất trên toàn thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới, vốn xã hội được cấu thành bởi nhiều yếu tố mối quan hệ giữa các cá nhân, bản sắc tập thể, cộng đồng, sự chia sẻ về hiểu biết, những chuẩn mực chung, giá trị chung, niềm tin, hợp tác và quan hệ gắn kết xã hội(10). Nghiên cứu của Sariyamon Tiraphat cho thấy niềm tin vào cộng đồng địa phương là yếu tố dự báo mạnh nhất về CLCS ở người cao tuổi(11). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa sự gắn kết/hỗ trợ trong cộng đồng địa phương với CLCS(11,12,13). Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét đặc điểm vốn xã hội ở mức độ cộng đồng địa phương trên hai khía cạnh là niềm tin (Hầu hết mọi người sẵn sàng giúp đỡ; Môi trường thân thiện, gắn bó; Tin tưởng vào hàng xóm; Hòa giải khi có vấn đề) và sự gắn kết/hỗ trợ xã hội (Thành lập quỹ hỗ trợ; Nhận sự giúp đỡ; Hàng xóm giúp đỡ; Lời khuyên; Vay mượn tiền bạc). Đối với mục niềm tin, mỗi câu hỏi được đánh giá dựa trên thang điểm Likert, từ 1 điểm (rất không đồng ý) tới 5 điểm (rất đồng ý). Đối với khía cạnh gắn kết/hỗ trợ xã hội, mỗi câu hỏi được đánh giá trên thang điểm từ 1 (rất không sẵn sàng) tới 4 (rất sẵn sàng). Điểm số sẽ được tính bằng cách lấy điểm trung bình của các câu hỏi trong từng khía cạnh. Điểm số chất lượng cuộc sống Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi WHOQoL-OLD do WHO xây dựng, phát triển và sử dụng phổ biển trên thế giới, với hơn 20 phiên bản ngôn ngữ các quốc gia(13). Tại Việt Nam, phiên bản Tiếng Việt của bộ câu hỏi này được xây dựng có độ tin cậy cao, với hệ số Cronbach’s Alpha dao động 0,68 – 0,92(15). Bộ câu hỏi WHOQoL – OLD bao gồm 24 câu hỏi, đánh giá CLCS của người cao tuổi trên 6 lĩnh vực: Giác quan; Tự chủ; Cái chết; Hoạt động quá khứ, hiện tại, tương lai; Hoạt động xã hội; Tình thương. Mỗi câu hỏi được đánh giá dựa trên thang điểm Likert, từ 1 điểm tới 5 điểm (các câu tích cực) và ngược lại, từ 5 điểm tới 1 điểm (câu hỏi phủ định). Mỗi lĩnh vực có 4 câu hỏi, do đó, đối với tất cả các lĩnh vực, điểm số có thể dao động trong khoảng từ 4 đến 20 điểm. Điểm số CLCS chung sẽ là tổng điểm số của 24 câu hỏi. Về cơ bản, điểm cao thể hiện CLCS cao, điểm thấp thể hiện CLCS thấp(13). Phân tích và xử lý số liệu Dùng phần mềm Epidata 3.1 để nhập liệu, sau đó dữ kiện được chuyển đổi sang định dạng sử dụng cho phần mềm phân tích dữ kiện thống kê Stata 14. Kiểm định T không bắt cặp, kiểm định ANOVA, tương quan Pearson được sử dụng để xét mối liên quan giữa điểm số CLCS và các yếu tố khác. Sử dụng phép kiểm Kruksal Wallis thay thế cho kiểm định ANOVA khi không thỏa điểu kiện của phép kiểm ANOVA (phương sai khác nhau). Kiểm định có ý nghĩa thống kê khi giá trị p <0,05. Tương quan Pearson dùng để mô tả mối liên quan giữa CLCS với điểm số vốn xã hội. KẾT QUẢ Nghiên cứu thực hiện trên 228 người từ 60 tuổi trở lên với tỉ lệ nữ chiếm 51,3% và đa số thuộc nhóm 60-69 tuổi (59,7%). Đối tượng tham gia nghiên cứu có trình độ học vấn tương đối cao với hơn một phần ba người cao tuổi có trình độ từ cấp 3 trở lên (38,6%), tiếp theo là trình độ học vấn cấp 2 chiếm 26,3%. Về nghề nghiệp, gần 1/2 các đối tượng đã nghỉ hưu (48,2%), kế tiếp là buôn bán (22,4%). Tỉ lệ người cao tuổi đã kết hôn trong nghiên cứu khá cao, chiếm 70,2% người cao tuổi; 23,2% người cao tuổi góa. Hầu hết người cao tuổi (91,2%) hiện đang sống chung với người thân. Đối tượng trong nghiên cứu có tỉ lệ sử dụng bảo hiểm y tế khá cao, chiếm 75,4%. Trong 228 người cao tuổi tham gia nghiên cứu, có tới 158 người (69,3%) mắc ít nhất một bệnh mãn tính. Trong đó, thường gặp nhất là Tăng huyết áp (64,6%). Tỉ lệ người cao tuổi tự đánh giá về mức độ hài lòng và tạm được với tình trạng kinh tế hiện tại lần lượt là 17,2% và 64,1% (Bảng 1). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 121 Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=228) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Giới tính Nam 111 48,7 Nữ 117 51,3 Nhóm tuổi 60 – 69 136 59,7 70 – 79 76 33,3 ≥80 16 7 Học vấn < Cấp 1 59 25,9 Cấp 1 21 9,2 Cấp 2 61 26,3 ≥ Cấp 3 87 38,6 Nghề nghiệp Nghỉ hưu 110 48,2 Nội trợ 35 15,4 Buôn bán 51 22,4 Nông dân 27 11,8 Khác 5 2,2 Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Tình trạng hôn nhân Độc thân 9 4 Đã kết hôn 160 70,2 Ly thân/ ly hôn 6 2,6 Góa 53 23,2 Tình trạng sống chung (Có) 208 91,2 Nguồn thu nhập Lương 41 18 Chu cấp 74 32,5 Tích lũy 71 31,1 Lương hưu, trợ cấp XH 42 18,4 Tình trạng kinh tế Không hài lòng 43 18,8 Tạm được 146 64,1 Hài lòng 39 17,2 BHYT (Có) 172 75,4 Bệnh mạn tính kèm theo (Có) 158 69,3 Tăng huyết áp (Có) 102 64,6 Bảng 2: Đặc điểm yếu tố tinh thần (n=228) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Tham gia hoạt động XH (Có) 73 32,0 Mức độ hài lòng với sự quan tâm của con cháu Rất/Không hài lòng 26 11,5 Tạm được 137 60,6 Rất/Hài lòng 63 27,9 Mâu thuẫn/Xung đột (Có) 55 24,1 Vốn xã hội Niềm tin 3,75 (3 – 4)* Gắn kết/hỗ trợ xã hội 2,4 ± 0,42** *Trung vị (khoảng tứ phân vị) **Trung bình ± Độ lệch chuẩn Tỉ lệ người cao tuổi tham gia ít nhất một hoạt động xã hội trong nghiên cứu tương đối thấp, chiếm chưa tới một phần ba đối tượng nghiên cứu (32%). Hơn 10% người cao tuổi cảm thấy không hài lòng với sự quan tâm chăm sóc của con cháu; Đồng thời, gần 1/4 người cao tuổi có xảy ra mâu thuẫn hoặc xung đột với ít nhất một đối tượng khác (Bảng 2). Kết quả Bảng 3 cho thấy điểm số CLCS của người cao tuổi có sự chênh lệch giữa các nội dung. Lĩnh vực “giác quan” có điểm số cao nhất, trong khi lĩnh vực “Hoạt động xã hội” và lĩnh vực “Tình thương” có điểm số thấp nhất. Nghiên cứu này cũng cho thấy, điểm số CLCS chung của người cao tuổi là 66,1 ± 10,9 điểm. Bảng 3: Điểm số chất lượng cuộc sống Lĩnh vực Trung bình ± độ lệch chuẩn Giác quan 13 (11 – 15,5)* Tự chủ 10,9 ± 2,89 Cái chết 12,6 ± 3,74 Hoạt động quá khứ, hiện tại và tương lai 11,1 ± 2,63 Hoạt động xã hội 10,6 ± 2,57 Tình thương 10,6 ± 3,19 CLCS chung 66,1 ± 10,9 *Trung vị (khoảng tứ phân vị) Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm số CLCS chung với nhiều đặc điểm dân số xã hội của người cao tuổi (Bảng 4). Cụ thể, người ở nhóm tuổi càng cao thì có điểm số trung bình CLCS chung càng thấp. Người cao tuổi có trình độ học vấn càng cao, thì có điểm số trung bình CLCS chung càng cao. Về kinh tế, người cao tuổi có nguồn thu nhập chính từ lương hưu, trợ cấp xã hội và hài lòng với tình trạng kinh tế của bản thân có điểm số CLCS chung cao hơn so với các đối tượng khác. Về tình trạng hôn nhân, người cao tuổi chưa kết hôn có điểm số trung bình CLCS cao nhất, thấp nhất là đối tượng người cao tuổi có tình trạng hôn nhân là góa. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 122 Bảng 4: Mối liên quan giữa điểm số CLCS chung và các đặc điểm dân số xã hội Đặc điểm Tần số Điểm CLCS Trung bình ± ĐLC Đặc điểm Tần số Điểm CLCS Trung bình ± ĐLC Nhóm tuổi Tình trạng kinh tế 60 –69 136 69,5 ± 8,9 Rất/Không hài lòng 43 60,0 ± 11,5 70 –79 76 62,0 ± 11,6 Tạm được 146 65,6 ± 9,0 ≥ 80 16 56,6 ± 11,1 Rất/Hài lòng 39 74,7 ± 11,5 Giá trị p <0,001b Giá trị p <0,001b Trình độ học vấn Nguồn thu nhập < Cấp 1 59 61,8 ± 13,5 Lương 41 69,3 ± 7,8 Cấp 1 21 66,8 ± 9,8 Chu cấp 74 59,5 ± 10,6 Cấp 2 61 63,2 ± 7,6 Tích lũy 71 66,8 ± 9,3 ≥ Cấp 3 87 70,9 ± 9,1 Lương hưu, trợ cấp XH 42 73,3 ± 10,2 Giá trị p <0,001 b Giá trị p <0,001 c Tình trạng hôn nhân ĐLC: độ lệch chuẩn b: Kiểm định Kruskal Wallis c: Kiểm định Anova Chưa kết hôn 9 77,4 ± 13,6 Kết hôn 160 66,9 ± 9,5 Góa 53 61,2 ± 12,3 Ly hôn 6 71,3 ± 9,3 Giá trị p <0,001 c Bảng 5: Mối liên quan giữa điểm số CLCS chung và các yếu tố thể chất Đặc điểm Tần số Điểm CLCS Trung bình ± độ lệch chuẩn Tập thể dục Có 155 68,5 ± 9,5 Không 73 60,9 ± 11,7 Giá trị p <0,001 d Bệnh mãn tính Có 158 67,7 ± 10,6 Không 70 72,2 ± 12,8 Giá trị p <0,006 e d: Kiểm định t với phương sai không bằng nhau e: Kiểm định t với phương sai bằng nhau Xét về đặc điểm các yếu tố thể chất (Bảng 5), nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa đặc điểm tập thể dục và bệnh lý mãn tính với trung bình điểm số CLCS chung. Bảng 6 trình bày mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm số CLCS chung với các yếu tố tinh thần của người cao tuổi. Sự quan tâm của con cháu, tham gia hoạt động xã hội, và mâu thuẫn/xung đột cũng được tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với điểm số CLCS chung của người cao tuổi. Cụ thể, người cao tuổi càng cảm thấy hài lòng với sự quan tâm của con cháu càng có điểm số CLCS chung cao hơn. Các đối tượng có tham gia ít nhất một hoạt động xã hội cũng có trung bình điểm số CLCS chung cao hơn so với đối tượng không tham gia. Người cao tuổi có xảy ra mâu thuẫn/xung đột cũng được tìm thấy có điểm số CLCS chung thấp hơn so với đối tượng khác. Bảng 6: Mối liên quan giữa điểm số CLCS chung và các yếu tố tinh thần Đặc điểm Tần số Điểm CLCS* Sự quan tâm của con cháu Rất/ Không hài lòng 28 59,1 ± 14,0 Tạm được 137 64,6 ± 8,6 Hài lòng/ Rất hài lòng 63 72,3 ± 11,0 Giá trị p <0,001 b Tham gia hoạt động xã hội Có 73 76,3 ± 11,0 Không 155 65,7 ± 10,2 Giá trị p <0,001 e Mâu thuẫn/xung đột Có 55 64,9 ± 13,4 Không 173 70,4 ± 10,6 Giá trị p 0,007 d *Trung bình ± l ch chu n b: Ki m nh Kruskal Wallis d: Kiểm định t với phương sai không bằng nhau e: Kiểm định t với phương sai bằng nhau Nghiên cứu của chúng tôi cũng tìm thấy có mối tương quan giữa trung bình điểm số CLCS chung với niềm tin, sự gắn kết/hỗ trợ xã hội Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 123 trong cộng đồng địa phương (Bảng 7). Đây là các tương quan thuận với r >0 và mức độ tương quan trung bình/vừa (0,3≤ |r| <0,5). Bảng 7: Mối tương quan giữa điểm số CLCS chung và vốn xã hội Khía cạnh CLCS Chung Niềm tin Hệ số tương quan 0,4286 Giá trị p của r <0,001 Sự gắn kết/hỗ trợ xã hội Hệ số tương quan 0,4393 Giá trị p của r <0,001 BÀN LUẬN Chất lượng cuộc sống Kết quả của nghiên cứu cho thấy điểm số trung bình CLCS chung là 66,1 ± 10,9 điểm, thấp hơn so với các nghiên cứu tại Việt Nam(2,9,16) và trên thế giới(3,17,18). Điều này có thể lí giải bởi vì sự hoang mang và lo sợ về đại dịch Covid-19, có thể đã tác động tiêu cực đến sức khỏe tinh thần từ đó ảnh hưởng tới điểm số CLCS của người cao tuổi(19). Mặt khác, tác động kinh tế của Covid-19, thực hiện giãn cách xã hội, hạn chế việc tổ chức các hoạt động tập thể cũng có thể dẫn đến những ảnh hưởng đối với tâm lý. Theo nghiên cứu, tỷ lệ trầm cảm, căng thẳng sau chấn thương (PTSD) - những yếu tố đã được chứng minh có ảnh hưởng đáng kể đến CLCS - đã gia tăng đáng kể ở người cao tuổi dưới tác động của Covid- 19(20). Những yếu tố trên phần nào có thể lí giải điểm số CLCS ở người cao tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi khá thấp khi so sánh với các nghiên cứu trước đó. Nghiên cứu này cũng cho thấy lĩnh vực “Cái chết” có trung bình điểm số CLCS cao nhất, và lĩnh vực “Hoạt động xã hội” có trung bình điểm số CLCS thấp nhất, đặc điểm này tương đồng với hầu hết các nghiên cứu khác tại Việt Nam(2,9,16) và trên thế giới(17,18). Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa điểm số CLCS chung và các đặc điểm dân số xã hội như: nhóm tuổi, trình độ học vấn, nguồn thu nhập, tình trạng kinh tế, tình trạng hôn nhân. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu tại Thái Lan, Thỗ Nhĩ Kỳ, Brazil(17,18,20) cũng như nghiên cứu của tác giả Võ Xuân Nam(2), Lê Thị Quý Như Ý(9) tại Việt Nam. Về đặc điểm yếu tố thể chất, người cao tuổi tham gia tập thể dục và không mắc bệnh lý mãn tính có điểm số CLCS chung cao hơn so với đối tượng khác, đặc điểm này tương đồng so với nghiên cứu của Nguyễn Thiên Ân(16). Nhiều nghiên cứu khác trên thế giới cũng cho thấy mối liên hệ tích cực giữa tham gia hoạt động thể chất hiệu quả với điểm số CLCS nói chung(21,22). Bệnh tật không chỉ làm suy giảm sức khỏe, giới hạn khả năng vận động thể chất, đồng thời chi phí điều trị là một trong những yếu tố tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần, từ đó tác động lên nhiều lĩnh vực đời sống của người cao tuổi. Sự quan tâm của con cháu, tham gia hoạt động xã hội, mâu thuẫn/xung đột cũng được tìm thấy có mối liên quan với CLCS của người cao tuổi. Cụ thể, người cao tuổi hài lòng với sự quan tâm của con cháu, tham gia hoạt động xã hội, không có mâu thuẫn/xung đột có điểm số cao hơn so với các đối tượng khác. Đặc điểm này tương đồng với đa số các nghiên trước đó tại Việt Nam, cũng như trên thế giới(9,16,17). Chất lượng cuộc sống và vốn xã hội Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy mối tương quan thuận giữa niềm tin, sự gắn kết/hỗ trợ xã hội trong cộng đồng địa phương với điểm số CLCS với mức độ tương quan trung bình/vừa. Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu về vốn xã hội cộng đồng địa phương trước đó(6,11,12,23). Mức độ tin tưởng vào cộng đồng địa phương cao hơn có thể làm giảm cảm xúc tiêu cực, căng thẳng; tăng cảm giác an toàn, tác động tích cực đối với sức khỏe tâm thần cũng như CLCS trong cộng đồng địa phương(6). Tương tự, sự gắn kết/hỗ trợ xã hội giữa những người hàng xóm có thể giúp gia tăng hỗ trợ tình cảm, nâng cao sự tôn trọng lẫn nhau, từ đó gia tăng mức độ hạnh phúc, khả năng tham gia hoạt Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 124 động xã hội trong cộng đồng địa phương ở người cao tuổi(12). KẾT LUẬN Nghiên cứu được tiến hành ở đối tượng người cao tuổi ở một khu vực nông thôn nhằm có cái nhìn tổng quát về CLCS của người cao tuổi tại nơi đây, tìm ra những mối liên quan giữa CLCS và những đặc điểm dân số xã hội, các yếu tố về thể chất cũng như các yếu tố về tinh thần của người cao tuổi. Kết quả của nghiên cứu này là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị giúp cho việc hoạch định chính sách nâng cao CLCS của người cao tuổi ở địa phương. Đây cũng là đề tài mới ở địa phương này. Người cao tuổi ở nhóm tuổi càng cao, có trình độ học vấn thấp, không hài lòng với tình trạng kinh tế, không nhận được sự quan tâm của con cháu có điểm số CLCS thấp hơn những người cao tuổi không có những đặc điểm này. Sự suy giảm niềm tin và suy giảm sự gắn kết/hỗ trợ trong cộng đồng địa phương làm giảm CLCS của người cao tuổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung Ương (2019). Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2019. Nhà xuất bản Thống Kê. 2. Vo XN, Vo QT, Watanapongvanich S, Witvorapong N (2019). Measurement and determinants of quality of life of older adults in Ho Chi Minh City, Vietnam. Social Indicators Research, 142(3):1285-1303. 3. Gambin G, Molzahn A, Fuhrmann AC, Morais E P, Paskulin L M (2015). Quality of life of older adults in rural southern Brazil. Rural Remote Health, 15(3):3300. 4. Barton H, Grant M (2006). A health map for the local human habitat. Journal of the Royal Society for the Promotion of Health, 126(6):252-253. 5. Johnston R, Propper C, Sarker R, et al (2005). Neighbourhood Social Capital and Neighbourhood Effects. Environment and Planning A: Economy and Space, 37(8):1443-1459. 6. Lane A, Wong CH, Močnik S, Song S, Yuen B (2019). Association of Neighborhood Social Capital With Quality of Life Among Older People in Singapore. Journal of Aging and Health, 32(7-8):841-850 7. Mackenbach JD, Lakerveld J, Van Lenthe FJ, et al (2016). Neighbourhood social capital: measurement issues and associations with health outcomes. Obesity Reviews, 17(1):96-107. 8. Le VH, Pham T, Lindholm L (2011). Elderly care in daily living in rural Vietnam: Need and its socioeconomic determinants. BMC Geriatrics, 11(1):81. 9. Lê Thị Quý Như Ý, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Kiên (2017). Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 21(1):234-243. 10. Grootaert C, Narayan D, Jones VN, Woolcock M (2004). Measuring social capital: An integrated questionnaire, pp.25-45. The World Bank. 11. Tiraphat S, Peltzer K, Thamma-Aphiphol K, Suthisukon K (2017). The Role of Age-Friendly Environments on Quality of Life among Thai Older Adults. International Journal of Environmental Research and Public Health, 14(3):28. 12. Cramm JM, Van Dijk HM, Nieboer AP (2013). The importance of neighborhood social cohesion and social capital for the well being of older adults in the community. Gerontologist, 53(1):142- 152. 13. Van Dyck D, Teychenne M, McNaughton SA, De Bourdeaudhuij I, Salmon J (2015). Relationship of the perceived social and physical environment with mental health-related quality of life in middle-aged and older adults: mediating effects of physical activity. PLoS One, 10(3):e0120475. 14. WHO (2005). “The WHOQOL-OLD module – manual”. URL: https://www.who.int/mental_health/evidence/WHOQOL_OLD _Manual.pdf?ua=1. 15. Phạm Lê Đắc Phú, Võ Quang Trung (2016). Xây dựng và đánh giá phiên bản tiếng Việt của bộ câu hỏi WHOQoL - OLD của Tổ chức Y tế Thế giới. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 20(2):79-85. 16. Nguyễn Thiên Ân, Nguyễn Thị Thanh Trúc (2019). Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi Phường Hố Nai, Thành Phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai năm 2018. Y học Thành phố. Hồ Chí Minh, 23(2):16-23. 17. Bilgili N, Arpacı F (2014). Quality of life of older adults in Turkey. Archives of Gerontology and Geriatrics, 59(2):415-421. 18. Hongthong D, Somrongthong R, Ward P (2015). Factors Influencing the Quality of Life (Qol) Among Thai Older People in a Rural Area of Thailand. Iranian Journal of Public Health, 44(4):479-485. 19. Banerjee D (2020). How COVID-19 is overwhelming our mental health. Nature India Journal, DOI: 10.1038/nindia.2020.46. 20. Campos AC, Ferreira e Ferreira E, Vargas AM, Albala C (2014). Aging, Gender and Quality of Life (AGEQOL) study: factors associated with good quality of life in older Brazilian community-dwelling adults. Health and Quality of Life Outcomes, 12:166. 21. Brown DW, Balluz LS, Heath GW, Moriarty DG, Ford ES, Giles WH, Mokdad AH (2003). Associations between recommended levels of physical activity and health-related quality of life Findings from the 2001 Behavioral Risk Factor Surveillance System (BRFSS) survey. Preventive Medicine, 37(5):520-528. 22. Hsin-Yen Y, Li-Jung L (2018). Quality of life in older adults: Benefits from the productive engagement in physical activity. Journal of Exercise Science & Fitness, 16(2):49-54. 23. Leung A, Kier C, Fung T, Fung L, Sproule R (2011). Searching for happiness: The importance of social capital. Journal of Happiness Studies, 12(3):443-462. Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 125
File đính kèm:
chat_luong_cuoc_song_cua_nguoi_cao_tuoi_xa_cam_hoa_huyen_cam.pdf