Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Nghiên cứu cắt ngang sử dụng công cụ SF-36 để đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) của 112 bệnh nhân

Viêm gan vi rút B mạn tính, độ tuổi từ 20 - 79 đang được điều trị ngoại trú thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y

Hà Nội năm 2018 - 2019. Tổng điểm trung bình CLCS của bệnh nhân theo SF-36 là 75,8 ± 18,3; với 79,3 ± 22,4

điểm sức khỏe thể chất và 72,6 ± 14,1 điểm sức khoẻ tinh thần. Yếu tố có mức điểm cao nhất là hoạt động thể chất

(89,8 ± 31,3 điểm) và thấp nhất là sức khoẻ chung (59,0 ± 29,5 điểm). Đa số bệnh nhân (61,6%) được phân loại

CLCS ở mức tốt (≥ 80 điểm). Điểm CLCS giảm dần theo tuổi, thấp hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng,

có HBeAg(+) và cao hơn ở những người có học vấn trên phổ thông trung học (p < 0,05).="" clcs="" của="" bệnh="" nhân="">

mức cao song cần quan tâm cải thiện tình trạng sức khoẻ chung, nhất là ở những BN có triệu chứng lâm sàng và

có HBeAg (+). Đồng thời cần có các nghiên cứu đầy đủ hơn về tác động của việc điều trị với CLCS của bệnh nhân

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
90 TCNCYH 123 (7) - 2019
Tác giả liên hệ: Đồng Thị Hằng Phương,
 Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/09/2019
Ngày được chấp nhận: 21/10/2019
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA 
BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH ĐANG ĐIỀU TRỊ 
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Đồng Thị Hằng Phương, Phạm Thị Ngọc Bích, Trần Khánh Toàn
Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu cắt ngang sử dụng công cụ SF-36 để đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) của 112 bệnh nhân 
Viêm gan vi rút B mạn tính, độ tuổi từ 20 - 79 đang được điều trị ngoại trú thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội năm 2018 - 2019. Tổng điểm trung bình CLCS của bệnh nhân theo SF-36 là 75,8 ± 18,3; với 79,3 ± 22,4 
điểm sức khỏe thể chất và 72,6 ± 14,1 điểm sức khoẻ tinh thần. Yếu tố có mức điểm cao nhất là hoạt động thể chất 
(89,8 ± 31,3 điểm) và thấp nhất là sức khoẻ chung (59,0 ± 29,5 điểm). Đa số bệnh nhân (61,6%) được phân loại 
CLCS ở mức tốt (≥ 80 điểm). Điểm CLCS giảm dần theo tuổi, thấp hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng, 
có HBeAg(+) và cao hơn ở những người có học vấn trên phổ thông trung học (p < 0,05). CLCS của bệnh nhân ở 
mức cao song cần quan tâm cải thiện tình trạng sức khoẻ chung, nhất là ở những BN có triệu chứng lâm sàng và 
có HBeAg (+). Đồng thời cần có các nghiên cứu đầy đủ hơn về tác động của việc điều trị với CLCS của bệnh nhân .
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm vi rút viêm gan B là một trong những 
bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất với ít nhất 2 
tỷ người mắc, chiếm khoảng gần một phần ba 
dân số thế giới; trong số đó, có khoảng 240 
triệu người mang vi rút mạn tính [1]. Viêm gan 
vi rút B (VGVRB) mạn tính là một vấn đề sức 
khỏe cộng đồng nghiêm trọng trên toàn cầu 
có liên quan đến trên một triệu người chết mỗi 
năm, chủ yếu vì biến chứng của xơ gan, ung 
thư gan. Ngoài ra, bệnh còn gây ra nhiều biến 
chứng khác có thể làm suy giảm chất lượng 
cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân [2].
Điều trị VGVRB mạn tính là một quá trình lâu 
dài, trong đó bệnh nhân phải đối mặt với nhiều 
khó khăn về kinh tế, xã hội, tâm lý cũng như 
thể chất, có thể ảnh hưởng đến kết quả đầu ra 
về sức khỏe. Bởi vậy, đánh giá hiệu quả điều 
trị VGVRB mạn tính không chỉ dựa trên các chỉ 
số về lâm sàng mà còn phải quan tâm đến cả 
CLCS của bệnh nhân. Ở Việt Nam, mặc dù có 
tỷ lệ mắc VGVRB mạn tính cao song hiểu biết 
về CLCS của người bệnh vẫn còn hạn chế [3]. 
Có nhiều công cụ đánh giá CLCS trong đó, 
SF-36 là bộ công cụ đơn giản, dễ sử dụng và 
đã được áp dụng rộng rãi cho nhiều bệnh mạn 
tính trên thế giới cũng như ở Việt Nam [4 - 6] 
Bởi vậy, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu 
này với mục tiêu sử dụng bộ công cụ SF-36 để 
đánh giá CLCS và một số yếu tố liên quan ở 
bệnh nhân VGVRB mạn tính đang điều trị bằng 
thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội năm 2018 - 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, SF-36, viêm gan vi rút B mạn tính, điều trị thuốc kháng vi rút, bệnh 
nhân ngoại trú.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
91TCNCYH 123 (7) - 2019
1. Đối tượng
Bệnh nhân ở độ tuổi trưởng thành (từ 16 
tuổi trở lên) đã được chẩn đoán mắc Viêm gan 
vi rút B mạn tính đang được điều trị ngoại trú 
bằng thuốc kháng vi rút ít nhất 3 tháng tại Khoa 
Khám bệnh, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 
tháng 7/2018 - 6/2019. Loại trừ các bệnh nhân 
mắc ung thư gan, hoặc có kết hợp viêm gan do 
các nguyên nhân khác, phụ nữ có thai và cho 
con bú.
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
- Cỡ mẫu và chọn mẫu: Chọn mẫu thuận 
tiện với toàn bộ 112 bệnh nhân đến khám điều 
trị ngoại trú tại Khoa Khám bệnh trong thời gian 
nghiên cứu.
- Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin: 
Thu thập các thông tin sẵn có từ hồ sơ bệnh 
án ngoại trú và phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân 
theo bộ câu hỏi cấu trúc được tích hợp bộ công 
cụ đánh giá chất lượng cuộc sống SF-36, phiên 
bản Tiếng Việt [5]. Bộ công cụ SF-36 gồm 36 
câu hỏi chia thành 8 yếu tố thuộc hai lĩnh vực 
sức khoẻ: thể chất (gồm khả năng hoạt động 
thể chất, hạn chế về thể chất, cảm giác đau và 
sức khoẻ chung); và tinh thần (gồm sức sống, 
hoạt động xã hội, hạn chế cảm xúc và sức khoẻ 
tâm lý). Điểm của mỗi câu hỏi được chuyển đổi 
qua thang điểm từ 0 đến 100 theo hướng dẫn, 
sau đó tính điểm trung bình cho từng lĩnh vực 
và từng yếu tố với nguyên tắc điểm càng cao 
thì tình trạng sức khoẻ càng tốt. Điểm CLCS 
được tổng hợp từ điểm của hai lĩnh vực sức 
khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần [4; 7; 8]. 
- Nội dung nghiên cứu: 
+ Thông tin về nhân khẩu (tuổi, giới, hôn 
nhân), điều kiện kinh tế xã hội (học vấn, nghề 
nghiệp, địa bàn sinh sống), hành vi và tiền sử 
(hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, gia đình có 
người mắc bệnh); bệnh sử (triệu chứng lâm 
sàng, một số xét nghiệm cận lâm sàng như men 
gan, HBeAg, tải lượng vi rút,..) và quá trình điều 
trị kháng vi rút (thời gian điều trị, thuốc điều trị, 
tác dụng phụ,).
+ Chất lượng cuộc sống theo bộ công cụ 
SF-36:
• Điểm trung bình CLCS và điểm cho từng 
lĩnh vực (Sức khỏe thể chất và Sức khỏe tinh 
thần) và cho mỗi yếu tố được tính bằng trung 
bình cộng của điểm số của các câu hỏi tương 
ứng theo thang điểm từ 0 - 100. 
• Phân loại CLCS và từng lĩnh vực sức khoẻ 
theo 3 mức: dưới trung bình (< 50 điểm); trung 
bình và khá (50 - dưới 80 điểm) và tốt (≥ 80 
điểm). 
+ Mối liên quan giữa CLCS và từng lĩnh vực 
sức khoẻ với các yếu tố nhân khẩu, kinh tế xã 
hội, tiền sử, bệnh sử và điều trị thuốc kháng vi 
rút ở trên.
- Xử lý và phân tích số liệu: Số liệu được 
phân tích bằng phần mềm Stata phiên bản 14.0 
và trình bày dưới dạng các tham số thống kê 
mô tả gồm trung bình (SD), trung vị (tứ phân vị) 
và tỷ lệ phần trăm. Sử dụng các test kiểm định 
phi tham số và hồi quy đa biến để xác định các 
yếu tố liên quan với CLCS ở mức ý nghĩa thống 
kê 95%.
3. Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng 
thông qua đề cương Luận văn Bác sĩ Nội trú 
của Trường Đại học Y Hà Nội (Quyết định số 
3486/QĐ-ĐHYHN ngày 11/7/2018). Bệnh nhân 
được giải thích bằng lời về mục đích, nội dung 
nghiên cứu, và tự nguyện chấp thuận tham 
gia trả lời phỏng vấn. Bệnh nhân từ chối tham 
gia không bị phân biệt đối xử. Việc phỏng vấn 
không gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của bệnh 
nhân. Các thông tin cá nhân được mã hoá và 
bảo vệ bí mật và chỉ sử dụng phục vụ cho mục 
đích nghiên cứu. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
92 TCNCYH 123 (7) - 2019
III. KẾT QUẢ
1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Một số thông tin cá nhân của bệnh nhân
Thông tin của bệnh nhân Giá trị
Tuổi trung bình (năm) 40,3 ± 12,1
Giới nam 73 (65,2%)
Học vấn trên PTTH 79 (75%)
Có nghề nghiệp ổn định 85 (75,9%)
Kết hôn, sống chung 99 (88,4%)
Sinh sống ở địa bàn nông thôn 72 (64,3%)
Tiền sử gia đình mắc VGB 36 (32,3%)
Có triệu chứng lâm sàng 35 (31,2%)
HBeAg (+) 37 (45,1%)*
Thời gian điều trị trung bình (tháng) 10,8 ± 16,1
* Chỉ tính trong số 87 bệnh nhân có kết quả xét nghiệm
Bảng 1 cho thấy đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là nam giới, với độ tuổi trung bình là 
40,3 tuổi; 70,5% có trình độ học vấn trên PTTH; 75,9% có nghề nghiệp ổn định; 64,3% bệnh nhân 
sống ở nông thôn và 88,4% đã kết hôn. Gần một phần ba số bệnh nhân (32,3%) có tiền sử gia đình 
mắc VGVRB; 31,2% có các triệu chứng lâm sàng của VGVRB và 45,1% bệnh nhân có HBeAg(+). 
Thời gian điều trị thuốc kháng vi rút trung bình của bệnh nhân là 10,8 tháng.
2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân theo SF - 36
Bảng 2. Điểm chất lượng cuộc sống và các lĩnh vực sức khoẻ của bệnh nhân
Trung bình ± SD Trung vị (25% - 75%) p* 
Điểm sức khoẻ thể chất 79,3 ± 22,4 89,0 (66,4 - 95,6)
< 0,01
Điểm sức khoẻ tinh thần 72,6 ± 14,1 77,1 (66,8 - 81,4)
Điểm CLCS 75,8 ± 18,3 84,0 (65,5 - 88,1)
* Test Mann-Whitney
Theo Bảng 2, điểm trung bình CLCS của bệnh nhân là 75,8 ± 18,3/100 điểm với giá trị trung vị 
là 84,0 (65,5 - 88,1điểm). Điểm trung bình và trung vị của sức khoẻ thể chất là 79,3 ± 22,4 và 89,0 
(66,4 - 95,6) điểm, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) so với điểm sức khoẻ tinh thần, lần lượt 
là 72,6 ± 14,1 và 77,1 (66,8 - 81,4) điểm. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
93TCNCYH 123 (7) - 2019
Biểu đồ 1. Điểm trung bình các yếu tố thành phần của chất lượng cuộc sống
Biểu đồ 1 cho thấy có 7/8 yếu tố thành phần của CLCS có điểm số trung bình trên 60; trong đó, 
các yếu tố có điểm cao nhất là khả năng hoạt động thể chất (89,8 ± 16,5 điểm) và hạn chế về cảm 
xúc (84,8±31,3 điểm); thấp nhất là sức khoẻ chung (59,0 ± 29,5 điểm) và sức sống (61,5 ± 12,7 
điểm).
Biểu đồ 2. Phân loại điểm chất lượng cuộc sống và sức khoẻ của bệnh nhân
Theo Biểu đồ 2, đa số bệnh nhân (61,6%) có điểm CLCS ở mức tốt từ 80 điểm trở lên; tỷ lệ này 
là 66,1% với sức khoẻ thể chất và 35,7% với sức khoẻ tinh thần. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm CLCS 
dưới mức trung bình ( < 50 điểm) là 10,7% (lần lượt là 13,4% với sức khoẻ thể chất và 7,1% với sức 
khoẻ tinh thần).
10.7 13.4 7.1
27.7 20.5
57.2
61.6 66.1
35.7
0%
20%
40%
60%
80%
100%
CLCS chung Sức khỏe thể chất Sức khỏe tinh thần
Tốt (≥ 80 điểm) Trung bình, khá (50-< 80 điểm) Dưới trung bình (< 50 điểm)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
94 TCNCYH 123 (7) - 2019
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan với CLCS trong phân tích hồi quy đa biến
CLCS
Sức khỏe
 thể chất
Sức khỏe
tinh thần
Coef. p Coef. p Coef. p
Nữ giới - 3,8 > 0,05 - 5,9 > 0,05 - 1,6 > 0,05
Tuổi (năm) - 0,6 < 0,01 - 0,9 < 0,01 - 0,3 < 0,05
Học vấn PTTH trở lên 7,7 > 0,05 11,6 0,05
Có triệu chứng lâm sàng - 18,6 < 0,01 - 25,1 < 0,01 - 11,8 < 0,01
Tổn thương gan mạn - 0,5 > 0,05 - 1,1 > 0,05 - 1,3 > 0,05
HBeAg (+) - 8,2 0,05
Điều trị bằng Entecavir 3,5 > 0,05 3,3 > 0,05 1,5 > 0,05
Thời gian điều trị (tháng) 0,2 > 0,05 0,2 > 0,05 0,1 > 0,05
Bảng 3 cho thấy điểm CLCS của bệnh nhân có liên quan có ý nghĩa thống kê với tuổi, học vấn, 
triệu chứng lâm sàng và tình trạng HBeAg. CLCS giảm theo độ tuổi, với mức giảm 0,6 điểm CLCS; 
0,9 điểm sức khỏe thể chất và 0,3 điểm sức khỏe tinh thần cho mỗi tuổi. Mức giảm lần lượt là 18,6 
điểm CLCS; 25,1 điểm sức khỏe thể chất và 11,8 điểm điểm sức khỏe tinh thần ở bệnh nhân có triệu 
chứng lâm sàng. Tương tự, bệnh nhân bị giảm 8,2 điểm CLCS và 12,8 điểm sức khỏe thể chất khi 
có HBeAg (+). Ngược lại, bệnh nhân với học vấn PTTH trở lên có mức điểm CLCS, điểm sức khỏe 
thể chất và điểm sức khỏe tinh thần cao hơn lần lượt là 7,7 điểm; 11,6 điểm và 3,3 điểm, song khác 
biệt chỉ có ý nghĩa thống kê với điểm sức khỏe thể chất.
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện trên 112 bệnh 
nhân VGVRB mạn tính đang điều trị ngoại trú 
bằng thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội, trong đó bệnh nhân nam chiếm gần 
2/3, phù hợp với tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B 
mạn ở nam thường cao hơn nữ [1]. Với tuổi 
trung bình là 40,3 và phần lớn đang ở độ tuổi 
lao động, CLCS là một trong những vấn đề cần 
quan tâm đối với các bệnh nhân VGVRB mạn 
tính. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung 
bình CLCS theo thang điểm SF - 36 ở bệnh 
nhân VGVRB mạn tính là 75,8 ± 18,3/100 điểm; 
tương đương với nghiên cứu của Xue ở Trung 
Quốc (2017) với 78,0 điểm. Nghiên cứu của 
Chen ở Đài Loan (2017) cho điểm CLCS thấp 
hơn (69,77 điểm) do bao gồm cả những bệnh 
nhân chưa được điều trị, trong khi việc điều trị 
thuốc kháng vi rút đã được chứng minh giúp 
cải thiện CLCS của bệnh nhân [9; 10]. So với 
một số nghiên cứu ở Việt Nam, điểm CLCS của 
bệnh nhân VGVRB mạn tính trong nghiên cứu 
của chúng tôi thấp hơn rõ rệt so với ở người 
trưởng thành khoẻ mạnh (90,71 điểm) nhưng 
cao hơn nhiều so với ở bệnh nhân viêm khớp 
dạng thấp (33,29) hay bệnh nhân suy thận mạn 
và (40,78) [5; 6; 10; 11].
Xét trên từng lĩnh vực, điểm trung bình sức 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
95TCNCYH 123 (7) - 2019
khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần lần lượt 
là 79,3 và 72,6 điểm. Mức điểm này cao hơn 
so với nghiên cứu của Trần Quang Vinh (2019) 
tại Bệnh viện Đồng Nai (54,5 và 60,3 điểm) và 
Bệnh viện Kiên Giang (47,8 và 67,3 điểm) cũng 
như nghiên cứu của Chen (2017) với 45,94 và 
49,37 điểm [3; 9]. Điểm khác biệt nữa là trong 
nghiên cứu của chúng tôi, điểm sức khỏe thể 
chất cao hơn so với điểm sức khỏe tinh thần 
(p < 0,05). Tuy nhiên, điều này cũng đã được 
ghi nhận trong nhiều nghiên cứu trước đây và 
được lý giải một phần do việc điều trị thuốc 
kháng vi rút thường giúp cải thiện sức khỏe thể 
chất nhiều hơn và xảy ra trước so với Sức khỏe 
tinh thần [10]. Điểm số của hai lĩnh vực này có 
sự tương quan chặt chẽ với nhau do các yếu 
tố về sức khỏe thể chất vẫn có những tác động 
nhất định đến sức khỏe tinh thần và ngược lại 
[8]. Kết quả nghiên cứu đặt ra yêu cầu cần phải 
quan tâm nhiều hơn đến vấn đề chức năng xã 
hội trong quá trình chăm sóc và điều trị cho 
bệnh nhân. 
Trong 8 yếu tố thành phần của CLCS theo 
SF - 36, hoạt động thể chất là yếu tố có điểm 
trung bình cao nhất (89,8 điểm) và sức khoẻ 
chung có điểm số thấp nhất (59,0). Điểm hoạt 
động thể chất cao nhất cũng được ghi nhận 
trong nghiên cứu của Bondini năm 2007 (89,3 
điểm) và nghiên cứu của Lam năm 2009 (85,6 
điểm) [12; 13]. Trong khi đó, sức khoẻ chung 
cũng là yếu tố bị ảnh hưởng nhiều nhất trong 
các nghiên cứu của Chen năm 2017 (45,15 
điểm) hay của Lam năm 2009 (49,9 điểm) [9; 
13]. Kết quả tương tự cũng được ghi nhận 
trong nghiên cứu của Xue (2017) ở các bệnh 
nhân đang được điều trị cũng như bỏ điều trị 
ở các thời điểm khác nhau [10]. Trong khi đó, 
theo nghiên cứu của Trần Quang Vinh (2019), 
ở Đồng Nai điểm cao nhất thuộc về Sức khỏe 
chung (60,1), thấp nhất là hạn chế thể chất 
(52,6) và ở Kiên Giang lần lượt là hoạt động xã 
hội (60,2) và hạn chế về thể chất (47,2). 
Tương quan điểm số giữa các yếu tố CLCS 
có sự khác biệt theo loại bệnh tật. Chẳng hạn 
Bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp trong nghiên 
cứu của Phạm Hoài Thu (2014) có điểm cao 
nhất là sức sống (41,26) và thấp nhất là hoạt 
động xã hội (27,01). Mặc dù vậy, với điểm trung 
bình cao vượt trội, đa số bệnh nhân VGVRB 
trong nghiên cứu của chúng tôi được phân loại 
CLCS ở mức tốt (61,6% có điểm CLCS từ 80 
trở lên) cao hơn nhiều so với ở bệnh nhân suy 
thận mạn 5,35% [11] hay bệnh nhân Viêm khớp 
dạng thấp (3,33%) [5]. Tỷ lệ này trong Sức khỏe 
thể chất cao hơn so với Sức khỏe tinh thần. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
độ tuổi, trình độ học vấn của bệnh nhân, tình 
trạng có biểu hiện lâm sàng hoặc có HBeAg 
(+) là những yếu tố liên quan đến CLCS của 
bệnh nhân VGVRB mạn tính ở các mức độ và 
xu hướng khác nhau. Điểm CLCS giảm theo 
tuổi và thấp hơn ở những bệnh nhân có triệu 
chứng lâm sàng hoặc có HBeAg (+). Tuổi tác 
tăng lên thường gắn liền với giảm miễn dịch, 
sức đề kháng và tình trạng sức khoẻ chung 
đồng thời và thường có thời gian mắc bệnh dài 
hơn nên CLCS và các lĩnh vực sức khoẻ cũng 
giảm theo [9]. Bên cạnh đó, các triệu chứng lâm 
sàng có thể gây nên các khó chịu, ảnh hưởng 
đến cuộc sống sinh hoạt hằng ngày; trong khi 
HBeAg (+) đi kèm với tình trạng viêm gan mạn 
tính tấn công làm giảm điểm CLCS của bệnh 
nhân [10]. Trong khi đó, học vấn cao giúp tăng 
cả điểm CLCS lẫn điểm Sức khỏe thành phần 
về thể chất cũng như tinh thần có thể liên quan 
đến việc tuân thủ tốt hơn dẫn đến tăng hiệu quả 
điều trị ở những đối tượng có học vấn cao hơn 
[10; 14].
Khác với nghiên cứu của Wang (2012), 
trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng tổn 
thương gan mạn tính không phải là một yếu tố 
nguy cơ làm giảm điểm CLCS của Bệnh nhân. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
96 TCNCYH 123 (7) - 2019
Tương tự, mối liên quan giữa tải lượng vi rút 
với điểm CLCS cũng không rõ ràng như trong 
nghiên cứu của Kim (2012) vốn được thực hiện 
sau 24 tuần điều trị trong khi bệnh nhân của 
chúng tôi đang điều ở các thời điểm khác nhau. 
Đây có thể cũng là lý do chưa ghi nhận được 
mối liên quan giữa CLCS và thời gian điều trị 
như trong nghiên cứu của Xue (2017) [10; 14; 
15]. 
Trong nghiên cứu này, mối mối liên quan 
giữa CLCS và việc điều trị thuốc kháng vi rút 
chưa được làm rõ do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ 
với bệnh nhân được chọn mẫu thuận tiện ở các 
giai đoạn khác nhau. Điều này đòi hỏi cần có 
thêm các nghiên cứu đầy đủ hơn về tác động 
của điều trị đối với CLCS của bệnh nhân. Mặt 
khác, cũng như các nghiên cứu khác ở Việt 
Nam có sử dụng công cụ SF - 36, điểm số từng 
lĩnh vực sức khoẻ chỉ mới tính trung bình cộng, 
chưa được chuẩn hoá do thiếu thông tin quần 
thể tham khảo.
V. KẾT LUẬN
Bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang 
điều trị ngoại trú bằng thuốc kháng vi rút tại 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội có mức CLCS cao 
theo thang điểm SF - 36 với điểm trung bình là 
75,8 ± 18,3 và đa số bệnh nhân (61,6%) được 
phân loại CLCS ở mức tốt (≥ 80 điểm). Cần 
quan tâm cải thiện tình trạng sức khoẻ chung 
của các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng và 
có HBeAg (+). Đồng thời cần có các nghiên cứu 
đầy đủ hơn về mối liên quan giữa CLCS với 
việc điều trị thuốc kháng vi rút.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu được hoàn thành với sự giúp đỡ 
và hỗ trợ tích cực của các bác sĩ và nhân viên 
y tế của Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội. Xin cảm ơn các bệnh nhân và người 
nhà bệnh nhân đã nhiệt tình cung cấp thông tin 
và đóng góp cho thành công của nghiên cứu. 
Các tác giả cam kết không có xung đột lợi ích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ott JJ, Stevens GA, Groeger J, et al. 
(2012). Global epidemiology of hepatitis B virus 
infection: new estimates of age specific HBsAg 
seroprevalence and endemicity. Vaccine, 30.
2. Schweitzer A., Horn J., Mikolajczyk 
R.T., et al. (2015). Estimations of worldwide 
prevalence of chronic hepatitis B virus infection: 
a systematic review of data published between 
1965 and 2013. Lancet, 386(10003), 1546 - 
1555.
3. Tran Quang Vinh, Vo Quang Trung 
(2019). Health - related quality of life (HRQoL) 
and health state utilities with chronic hepatitis - B 
(CHB), A population - based survey in Vietnam. 
J Pak Med Assoc, 69(Suppl 2)(6), S80 - S86.
4. Scoggins J.F. and Patrick D.L. 
(2009). The use of patient - reported outcomes 
instruments in registered clinical trials: evidence 
from ClinicalTrials.gov. Contemp Clin Trials, 
30(4), 289 - 92.
5. Phạm Hoài Thu, Đỗ Thị Thúy, và 
Nguyễn Văn Hùng (2017). Nghiên cứu áp 
dụng bộ câu hỏi SF - 36 trong đánh giá sự 
thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân 
viêm khớp dạng thấp. Tạp chí Nghiên cứu Y 
học, 106(1), 146 - 154.
6. Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Đỗ 
Nguyên, và Tô Minh Ngọc (2014). Nghiên cứu 
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận 
mạn đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội 
thận bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012. Tạp chí Y 
học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(6 phụ bản), 
474 - 480.
7. Lins L. and Carvalho F.M. (2016). SF 
- 36 total score as a single measure of health 
- related quality of life: Scoping review. SAGE 
Open Med, 4: 2050312116671725.
8. Farivar S.S., Cunningham W.E., and 
Hays R.D. (2007). Correlated physical and 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
97TCNCYH 123 (7) - 2019
mental health summary scores for the SF - 36 
and SF - 12 Health Survey, V.I. Health Qual Life 
Outcomes, 5: 54.
9. Chen M.C., Hung H.C., Chang H.J., et 
al. (2017). Assessment of Educational Needs 
and Quality of Life of Chronic Hepatitis Patients. 
BMC Health Serv Res, 17(1), 148.
10. Xue X., Cai S., Ou H., et al. (2017). 
Health - related quality of life in patients with 
chronic hepatitis B during antiviral treatment 
and off - treatment. Patient Prefer Adherence, 
11: 85 - 93.
11. Lê Việt Thắng và Nguyễn Văn Hùng 
(2012). Khảo sát chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân suy thận mạn tính chạy thận nhân 
tạo chu kỳ bằng thang điểm SF36. Tạp chí Y 
học thực hành, 1(802), 45 - 47.
12. Bondini S., Kallman J., Dan A., et al. 
(2007). Health - related quality of life in patients 
with chronic hepatitis B. Liver Int, 27(8), 1119 - 
1125.
13. Lam E.T., Lam C.L., Lai C.L., et 
al. (2009). Health - related quality of life of 
Southern Chinese with chronic hepatitis B 
infection. Health Qual Life Outcomes, 7: 52.
14. Wang L., Wang Y., Tang L., et 
al. (2012). Quality of life and the relevant 
factors in patients with chronic hepatitis B. 
Hepatogastroenterology, 59(116), 1036 - 1042.
15. Kim J.H., Kwon S.Y., Lee Y.S., et al. 
(2012). Virologic response to therapy increases 
health - related quality of life for patients with 
chronic hepatitis B. Clin Gastroenterol Hepatol, 
10(3), 291 - 296.
Summary
QUALITY OF LIFE OF PATIENTS WITH CHRONIC HEPATITIS 
B DURING ANTIVIRAL TREATMENT AT HANOI MEDICAL 
UNIVERSITY HOSPITAL
A cross-sectional study was conducted to assess the quality of life of 112 patients with Chronic 
Hepatitis B, aged 20 to 79, who were on antiviral treatment at the clinic of Hanoi Medical University 
Hospital in 2018-2019 using the SF-36 tool. The mean of total SF-36 quality of life score was 75.8 
± 18.3 (79.3 ± 22.4 for physical health and 72.6 ± 14.1 for mental health). The majority of patients 
(61.6%) was classified as good quality of life (scored at least 80). The lowest score was for general 
health scale (59.0) and the highest one was for physical activity scale (89.8). The quality of life 
(QoL) score decreased accordingly with patient’s age and was lower among patients with clinical 
symptoms or with HBeAg (+) while it was higher among those with tertiary education (p < 0.05). 
The patients’ QoL is good, but the general health status should be prioritized for improvement, 
especially among patients with clinical symptoms and those who are positive with HBeAg. 
There is also a need for further studies on the impact of antiviral treatment on patients’ QoL.
Keywords: Quality of life, SF-36, chronic hepatitis B, antiviral treatment, and outpatient.

File đính kèm:

  • pdfchat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_viem_gan_vi_rut_b_man_tin.pdf