Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu cắt ngang sử dụng công cụ SF-36 để đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) của 112 bệnh nhân
Viêm gan vi rút B mạn tính, độ tuổi từ 20 - 79 đang được điều trị ngoại trú thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y
Hà Nội năm 2018 - 2019. Tổng điểm trung bình CLCS của bệnh nhân theo SF-36 là 75,8 ± 18,3; với 79,3 ± 22,4
điểm sức khỏe thể chất và 72,6 ± 14,1 điểm sức khoẻ tinh thần. Yếu tố có mức điểm cao nhất là hoạt động thể chất
(89,8 ± 31,3 điểm) và thấp nhất là sức khoẻ chung (59,0 ± 29,5 điểm). Đa số bệnh nhân (61,6%) được phân loại
CLCS ở mức tốt (≥ 80 điểm). Điểm CLCS giảm dần theo tuổi, thấp hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng,
có HBeAg(+) và cao hơn ở những người có học vấn trên phổ thông trung học (p < 0,05).="" clcs="" của="" bệnh="" nhân="">
mức cao song cần quan tâm cải thiện tình trạng sức khoẻ chung, nhất là ở những BN có triệu chứng lâm sàng và
có HBeAg (+). Đồng thời cần có các nghiên cứu đầy đủ hơn về tác động của việc điều trị với CLCS của bệnh nhân
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 90 TCNCYH 123 (7) - 2019 Tác giả liên hệ: Đồng Thị Hằng Phương, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 20/09/2019 Ngày được chấp nhận: 21/10/2019 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH ĐANG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI Đồng Thị Hằng Phương, Phạm Thị Ngọc Bích, Trần Khánh Toàn Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu cắt ngang sử dụng công cụ SF-36 để đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) của 112 bệnh nhân Viêm gan vi rút B mạn tính, độ tuổi từ 20 - 79 đang được điều trị ngoại trú thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2018 - 2019. Tổng điểm trung bình CLCS của bệnh nhân theo SF-36 là 75,8 ± 18,3; với 79,3 ± 22,4 điểm sức khỏe thể chất và 72,6 ± 14,1 điểm sức khoẻ tinh thần. Yếu tố có mức điểm cao nhất là hoạt động thể chất (89,8 ± 31,3 điểm) và thấp nhất là sức khoẻ chung (59,0 ± 29,5 điểm). Đa số bệnh nhân (61,6%) được phân loại CLCS ở mức tốt (≥ 80 điểm). Điểm CLCS giảm dần theo tuổi, thấp hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng, có HBeAg(+) và cao hơn ở những người có học vấn trên phổ thông trung học (p < 0,05). CLCS của bệnh nhân ở mức cao song cần quan tâm cải thiện tình trạng sức khoẻ chung, nhất là ở những BN có triệu chứng lâm sàng và có HBeAg (+). Đồng thời cần có các nghiên cứu đầy đủ hơn về tác động của việc điều trị với CLCS của bệnh nhân . I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm vi rút viêm gan B là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất với ít nhất 2 tỷ người mắc, chiếm khoảng gần một phần ba dân số thế giới; trong số đó, có khoảng 240 triệu người mang vi rút mạn tính [1]. Viêm gan vi rút B (VGVRB) mạn tính là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng trên toàn cầu có liên quan đến trên một triệu người chết mỗi năm, chủ yếu vì biến chứng của xơ gan, ung thư gan. Ngoài ra, bệnh còn gây ra nhiều biến chứng khác có thể làm suy giảm chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân [2]. Điều trị VGVRB mạn tính là một quá trình lâu dài, trong đó bệnh nhân phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội, tâm lý cũng như thể chất, có thể ảnh hưởng đến kết quả đầu ra về sức khỏe. Bởi vậy, đánh giá hiệu quả điều trị VGVRB mạn tính không chỉ dựa trên các chỉ số về lâm sàng mà còn phải quan tâm đến cả CLCS của bệnh nhân. Ở Việt Nam, mặc dù có tỷ lệ mắc VGVRB mạn tính cao song hiểu biết về CLCS của người bệnh vẫn còn hạn chế [3]. Có nhiều công cụ đánh giá CLCS trong đó, SF-36 là bộ công cụ đơn giản, dễ sử dụng và đã được áp dụng rộng rãi cho nhiều bệnh mạn tính trên thế giới cũng như ở Việt Nam [4 - 6] Bởi vậy, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu này với mục tiêu sử dụng bộ công cụ SF-36 để đánh giá CLCS và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân VGVRB mạn tính đang điều trị bằng thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2018 - 2019. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, SF-36, viêm gan vi rút B mạn tính, điều trị thuốc kháng vi rút, bệnh nhân ngoại trú. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 91TCNCYH 123 (7) - 2019 1. Đối tượng Bệnh nhân ở độ tuổi trưởng thành (từ 16 tuổi trở lên) đã được chẩn đoán mắc Viêm gan vi rút B mạn tính đang được điều trị ngoại trú bằng thuốc kháng vi rút ít nhất 3 tháng tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 7/2018 - 6/2019. Loại trừ các bệnh nhân mắc ung thư gan, hoặc có kết hợp viêm gan do các nguyên nhân khác, phụ nữ có thai và cho con bú. 2. Phương pháp - Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. - Cỡ mẫu và chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện với toàn bộ 112 bệnh nhân đến khám điều trị ngoại trú tại Khoa Khám bệnh trong thời gian nghiên cứu. - Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin: Thu thập các thông tin sẵn có từ hồ sơ bệnh án ngoại trú và phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân theo bộ câu hỏi cấu trúc được tích hợp bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống SF-36, phiên bản Tiếng Việt [5]. Bộ công cụ SF-36 gồm 36 câu hỏi chia thành 8 yếu tố thuộc hai lĩnh vực sức khoẻ: thể chất (gồm khả năng hoạt động thể chất, hạn chế về thể chất, cảm giác đau và sức khoẻ chung); và tinh thần (gồm sức sống, hoạt động xã hội, hạn chế cảm xúc và sức khoẻ tâm lý). Điểm của mỗi câu hỏi được chuyển đổi qua thang điểm từ 0 đến 100 theo hướng dẫn, sau đó tính điểm trung bình cho từng lĩnh vực và từng yếu tố với nguyên tắc điểm càng cao thì tình trạng sức khoẻ càng tốt. Điểm CLCS được tổng hợp từ điểm của hai lĩnh vực sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần [4; 7; 8]. - Nội dung nghiên cứu: + Thông tin về nhân khẩu (tuổi, giới, hôn nhân), điều kiện kinh tế xã hội (học vấn, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống), hành vi và tiền sử (hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, gia đình có người mắc bệnh); bệnh sử (triệu chứng lâm sàng, một số xét nghiệm cận lâm sàng như men gan, HBeAg, tải lượng vi rút,..) và quá trình điều trị kháng vi rút (thời gian điều trị, thuốc điều trị, tác dụng phụ,). + Chất lượng cuộc sống theo bộ công cụ SF-36: • Điểm trung bình CLCS và điểm cho từng lĩnh vực (Sức khỏe thể chất và Sức khỏe tinh thần) và cho mỗi yếu tố được tính bằng trung bình cộng của điểm số của các câu hỏi tương ứng theo thang điểm từ 0 - 100. • Phân loại CLCS và từng lĩnh vực sức khoẻ theo 3 mức: dưới trung bình (< 50 điểm); trung bình và khá (50 - dưới 80 điểm) và tốt (≥ 80 điểm). + Mối liên quan giữa CLCS và từng lĩnh vực sức khoẻ với các yếu tố nhân khẩu, kinh tế xã hội, tiền sử, bệnh sử và điều trị thuốc kháng vi rút ở trên. - Xử lý và phân tích số liệu: Số liệu được phân tích bằng phần mềm Stata phiên bản 14.0 và trình bày dưới dạng các tham số thống kê mô tả gồm trung bình (SD), trung vị (tứ phân vị) và tỷ lệ phần trăm. Sử dụng các test kiểm định phi tham số và hồi quy đa biến để xác định các yếu tố liên quan với CLCS ở mức ý nghĩa thống kê 95%. 3. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng thông qua đề cương Luận văn Bác sĩ Nội trú của Trường Đại học Y Hà Nội (Quyết định số 3486/QĐ-ĐHYHN ngày 11/7/2018). Bệnh nhân được giải thích bằng lời về mục đích, nội dung nghiên cứu, và tự nguyện chấp thuận tham gia trả lời phỏng vấn. Bệnh nhân từ chối tham gia không bị phân biệt đối xử. Việc phỏng vấn không gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của bệnh nhân. Các thông tin cá nhân được mã hoá và bảo vệ bí mật và chỉ sử dụng phục vụ cho mục đích nghiên cứu. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 92 TCNCYH 123 (7) - 2019 III. KẾT QUẢ 1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Một số thông tin cá nhân của bệnh nhân Thông tin của bệnh nhân Giá trị Tuổi trung bình (năm) 40,3 ± 12,1 Giới nam 73 (65,2%) Học vấn trên PTTH 79 (75%) Có nghề nghiệp ổn định 85 (75,9%) Kết hôn, sống chung 99 (88,4%) Sinh sống ở địa bàn nông thôn 72 (64,3%) Tiền sử gia đình mắc VGB 36 (32,3%) Có triệu chứng lâm sàng 35 (31,2%) HBeAg (+) 37 (45,1%)* Thời gian điều trị trung bình (tháng) 10,8 ± 16,1 * Chỉ tính trong số 87 bệnh nhân có kết quả xét nghiệm Bảng 1 cho thấy đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là nam giới, với độ tuổi trung bình là 40,3 tuổi; 70,5% có trình độ học vấn trên PTTH; 75,9% có nghề nghiệp ổn định; 64,3% bệnh nhân sống ở nông thôn và 88,4% đã kết hôn. Gần một phần ba số bệnh nhân (32,3%) có tiền sử gia đình mắc VGVRB; 31,2% có các triệu chứng lâm sàng của VGVRB và 45,1% bệnh nhân có HBeAg(+). Thời gian điều trị thuốc kháng vi rút trung bình của bệnh nhân là 10,8 tháng. 2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân theo SF - 36 Bảng 2. Điểm chất lượng cuộc sống và các lĩnh vực sức khoẻ của bệnh nhân Trung bình ± SD Trung vị (25% - 75%) p* Điểm sức khoẻ thể chất 79,3 ± 22,4 89,0 (66,4 - 95,6) < 0,01 Điểm sức khoẻ tinh thần 72,6 ± 14,1 77,1 (66,8 - 81,4) Điểm CLCS 75,8 ± 18,3 84,0 (65,5 - 88,1) * Test Mann-Whitney Theo Bảng 2, điểm trung bình CLCS của bệnh nhân là 75,8 ± 18,3/100 điểm với giá trị trung vị là 84,0 (65,5 - 88,1điểm). Điểm trung bình và trung vị của sức khoẻ thể chất là 79,3 ± 22,4 và 89,0 (66,4 - 95,6) điểm, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) so với điểm sức khoẻ tinh thần, lần lượt là 72,6 ± 14,1 và 77,1 (66,8 - 81,4) điểm. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 93TCNCYH 123 (7) - 2019 Biểu đồ 1. Điểm trung bình các yếu tố thành phần của chất lượng cuộc sống Biểu đồ 1 cho thấy có 7/8 yếu tố thành phần của CLCS có điểm số trung bình trên 60; trong đó, các yếu tố có điểm cao nhất là khả năng hoạt động thể chất (89,8 ± 16,5 điểm) và hạn chế về cảm xúc (84,8±31,3 điểm); thấp nhất là sức khoẻ chung (59,0 ± 29,5 điểm) và sức sống (61,5 ± 12,7 điểm). Biểu đồ 2. Phân loại điểm chất lượng cuộc sống và sức khoẻ của bệnh nhân Theo Biểu đồ 2, đa số bệnh nhân (61,6%) có điểm CLCS ở mức tốt từ 80 điểm trở lên; tỷ lệ này là 66,1% với sức khoẻ thể chất và 35,7% với sức khoẻ tinh thần. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm CLCS dưới mức trung bình ( < 50 điểm) là 10,7% (lần lượt là 13,4% với sức khoẻ thể chất và 7,1% với sức khoẻ tinh thần). 10.7 13.4 7.1 27.7 20.5 57.2 61.6 66.1 35.7 0% 20% 40% 60% 80% 100% CLCS chung Sức khỏe thể chất Sức khỏe tinh thần Tốt (≥ 80 điểm) Trung bình, khá (50-< 80 điểm) Dưới trung bình (< 50 điểm) TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 94 TCNCYH 123 (7) - 2019 Bảng 3. Một số yếu tố liên quan với CLCS trong phân tích hồi quy đa biến CLCS Sức khỏe thể chất Sức khỏe tinh thần Coef. p Coef. p Coef. p Nữ giới - 3,8 > 0,05 - 5,9 > 0,05 - 1,6 > 0,05 Tuổi (năm) - 0,6 < 0,01 - 0,9 < 0,01 - 0,3 < 0,05 Học vấn PTTH trở lên 7,7 > 0,05 11,6 0,05 Có triệu chứng lâm sàng - 18,6 < 0,01 - 25,1 < 0,01 - 11,8 < 0,01 Tổn thương gan mạn - 0,5 > 0,05 - 1,1 > 0,05 - 1,3 > 0,05 HBeAg (+) - 8,2 0,05 Điều trị bằng Entecavir 3,5 > 0,05 3,3 > 0,05 1,5 > 0,05 Thời gian điều trị (tháng) 0,2 > 0,05 0,2 > 0,05 0,1 > 0,05 Bảng 3 cho thấy điểm CLCS của bệnh nhân có liên quan có ý nghĩa thống kê với tuổi, học vấn, triệu chứng lâm sàng và tình trạng HBeAg. CLCS giảm theo độ tuổi, với mức giảm 0,6 điểm CLCS; 0,9 điểm sức khỏe thể chất và 0,3 điểm sức khỏe tinh thần cho mỗi tuổi. Mức giảm lần lượt là 18,6 điểm CLCS; 25,1 điểm sức khỏe thể chất và 11,8 điểm điểm sức khỏe tinh thần ở bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng. Tương tự, bệnh nhân bị giảm 8,2 điểm CLCS và 12,8 điểm sức khỏe thể chất khi có HBeAg (+). Ngược lại, bệnh nhân với học vấn PTTH trở lên có mức điểm CLCS, điểm sức khỏe thể chất và điểm sức khỏe tinh thần cao hơn lần lượt là 7,7 điểm; 11,6 điểm và 3,3 điểm, song khác biệt chỉ có ý nghĩa thống kê với điểm sức khỏe thể chất. IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu được thực hiện trên 112 bệnh nhân VGVRB mạn tính đang điều trị ngoại trú bằng thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, trong đó bệnh nhân nam chiếm gần 2/3, phù hợp với tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B mạn ở nam thường cao hơn nữ [1]. Với tuổi trung bình là 40,3 và phần lớn đang ở độ tuổi lao động, CLCS là một trong những vấn đề cần quan tâm đối với các bệnh nhân VGVRB mạn tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung bình CLCS theo thang điểm SF - 36 ở bệnh nhân VGVRB mạn tính là 75,8 ± 18,3/100 điểm; tương đương với nghiên cứu của Xue ở Trung Quốc (2017) với 78,0 điểm. Nghiên cứu của Chen ở Đài Loan (2017) cho điểm CLCS thấp hơn (69,77 điểm) do bao gồm cả những bệnh nhân chưa được điều trị, trong khi việc điều trị thuốc kháng vi rút đã được chứng minh giúp cải thiện CLCS của bệnh nhân [9; 10]. So với một số nghiên cứu ở Việt Nam, điểm CLCS của bệnh nhân VGVRB mạn tính trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn rõ rệt so với ở người trưởng thành khoẻ mạnh (90,71 điểm) nhưng cao hơn nhiều so với ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (33,29) hay bệnh nhân suy thận mạn và (40,78) [5; 6; 10; 11]. Xét trên từng lĩnh vực, điểm trung bình sức TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 95TCNCYH 123 (7) - 2019 khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần lần lượt là 79,3 và 72,6 điểm. Mức điểm này cao hơn so với nghiên cứu của Trần Quang Vinh (2019) tại Bệnh viện Đồng Nai (54,5 và 60,3 điểm) và Bệnh viện Kiên Giang (47,8 và 67,3 điểm) cũng như nghiên cứu của Chen (2017) với 45,94 và 49,37 điểm [3; 9]. Điểm khác biệt nữa là trong nghiên cứu của chúng tôi, điểm sức khỏe thể chất cao hơn so với điểm sức khỏe tinh thần (p < 0,05). Tuy nhiên, điều này cũng đã được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu trước đây và được lý giải một phần do việc điều trị thuốc kháng vi rút thường giúp cải thiện sức khỏe thể chất nhiều hơn và xảy ra trước so với Sức khỏe tinh thần [10]. Điểm số của hai lĩnh vực này có sự tương quan chặt chẽ với nhau do các yếu tố về sức khỏe thể chất vẫn có những tác động nhất định đến sức khỏe tinh thần và ngược lại [8]. Kết quả nghiên cứu đặt ra yêu cầu cần phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề chức năng xã hội trong quá trình chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân. Trong 8 yếu tố thành phần của CLCS theo SF - 36, hoạt động thể chất là yếu tố có điểm trung bình cao nhất (89,8 điểm) và sức khoẻ chung có điểm số thấp nhất (59,0). Điểm hoạt động thể chất cao nhất cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của Bondini năm 2007 (89,3 điểm) và nghiên cứu của Lam năm 2009 (85,6 điểm) [12; 13]. Trong khi đó, sức khoẻ chung cũng là yếu tố bị ảnh hưởng nhiều nhất trong các nghiên cứu của Chen năm 2017 (45,15 điểm) hay của Lam năm 2009 (49,9 điểm) [9; 13]. Kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của Xue (2017) ở các bệnh nhân đang được điều trị cũng như bỏ điều trị ở các thời điểm khác nhau [10]. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Trần Quang Vinh (2019), ở Đồng Nai điểm cao nhất thuộc về Sức khỏe chung (60,1), thấp nhất là hạn chế thể chất (52,6) và ở Kiên Giang lần lượt là hoạt động xã hội (60,2) và hạn chế về thể chất (47,2). Tương quan điểm số giữa các yếu tố CLCS có sự khác biệt theo loại bệnh tật. Chẳng hạn Bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp trong nghiên cứu của Phạm Hoài Thu (2014) có điểm cao nhất là sức sống (41,26) và thấp nhất là hoạt động xã hội (27,01). Mặc dù vậy, với điểm trung bình cao vượt trội, đa số bệnh nhân VGVRB trong nghiên cứu của chúng tôi được phân loại CLCS ở mức tốt (61,6% có điểm CLCS từ 80 trở lên) cao hơn nhiều so với ở bệnh nhân suy thận mạn 5,35% [11] hay bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp (3,33%) [5]. Tỷ lệ này trong Sức khỏe thể chất cao hơn so với Sức khỏe tinh thần. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ tuổi, trình độ học vấn của bệnh nhân, tình trạng có biểu hiện lâm sàng hoặc có HBeAg (+) là những yếu tố liên quan đến CLCS của bệnh nhân VGVRB mạn tính ở các mức độ và xu hướng khác nhau. Điểm CLCS giảm theo tuổi và thấp hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng hoặc có HBeAg (+). Tuổi tác tăng lên thường gắn liền với giảm miễn dịch, sức đề kháng và tình trạng sức khoẻ chung đồng thời và thường có thời gian mắc bệnh dài hơn nên CLCS và các lĩnh vực sức khoẻ cũng giảm theo [9]. Bên cạnh đó, các triệu chứng lâm sàng có thể gây nên các khó chịu, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hằng ngày; trong khi HBeAg (+) đi kèm với tình trạng viêm gan mạn tính tấn công làm giảm điểm CLCS của bệnh nhân [10]. Trong khi đó, học vấn cao giúp tăng cả điểm CLCS lẫn điểm Sức khỏe thành phần về thể chất cũng như tinh thần có thể liên quan đến việc tuân thủ tốt hơn dẫn đến tăng hiệu quả điều trị ở những đối tượng có học vấn cao hơn [10; 14]. Khác với nghiên cứu của Wang (2012), trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng tổn thương gan mạn tính không phải là một yếu tố nguy cơ làm giảm điểm CLCS của Bệnh nhân. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 96 TCNCYH 123 (7) - 2019 Tương tự, mối liên quan giữa tải lượng vi rút với điểm CLCS cũng không rõ ràng như trong nghiên cứu của Kim (2012) vốn được thực hiện sau 24 tuần điều trị trong khi bệnh nhân của chúng tôi đang điều ở các thời điểm khác nhau. Đây có thể cũng là lý do chưa ghi nhận được mối liên quan giữa CLCS và thời gian điều trị như trong nghiên cứu của Xue (2017) [10; 14; 15]. Trong nghiên cứu này, mối mối liên quan giữa CLCS và việc điều trị thuốc kháng vi rút chưa được làm rõ do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ với bệnh nhân được chọn mẫu thuận tiện ở các giai đoạn khác nhau. Điều này đòi hỏi cần có thêm các nghiên cứu đầy đủ hơn về tác động của điều trị đối với CLCS của bệnh nhân. Mặt khác, cũng như các nghiên cứu khác ở Việt Nam có sử dụng công cụ SF - 36, điểm số từng lĩnh vực sức khoẻ chỉ mới tính trung bình cộng, chưa được chuẩn hoá do thiếu thông tin quần thể tham khảo. V. KẾT LUẬN Bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính đang điều trị ngoại trú bằng thuốc kháng vi rút tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội có mức CLCS cao theo thang điểm SF - 36 với điểm trung bình là 75,8 ± 18,3 và đa số bệnh nhân (61,6%) được phân loại CLCS ở mức tốt (≥ 80 điểm). Cần quan tâm cải thiện tình trạng sức khoẻ chung của các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng và có HBeAg (+). Đồng thời cần có các nghiên cứu đầy đủ hơn về mối liên quan giữa CLCS với việc điều trị thuốc kháng vi rút. Lời cảm ơn Nghiên cứu được hoàn thành với sự giúp đỡ và hỗ trợ tích cực của các bác sĩ và nhân viên y tế của Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Xin cảm ơn các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đã nhiệt tình cung cấp thông tin và đóng góp cho thành công của nghiên cứu. Các tác giả cam kết không có xung đột lợi ích. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ott JJ, Stevens GA, Groeger J, et al. (2012). Global epidemiology of hepatitis B virus infection: new estimates of age specific HBsAg seroprevalence and endemicity. Vaccine, 30. 2. Schweitzer A., Horn J., Mikolajczyk R.T., et al. (2015). Estimations of worldwide prevalence of chronic hepatitis B virus infection: a systematic review of data published between 1965 and 2013. Lancet, 386(10003), 1546 - 1555. 3. Tran Quang Vinh, Vo Quang Trung (2019). Health - related quality of life (HRQoL) and health state utilities with chronic hepatitis - B (CHB), A population - based survey in Vietnam. J Pak Med Assoc, 69(Suppl 2)(6), S80 - S86. 4. Scoggins J.F. and Patrick D.L. (2009). The use of patient - reported outcomes instruments in registered clinical trials: evidence from ClinicalTrials.gov. Contemp Clin Trials, 30(4), 289 - 92. 5. Phạm Hoài Thu, Đỗ Thị Thúy, và Nguyễn Văn Hùng (2017). Nghiên cứu áp dụng bộ câu hỏi SF - 36 trong đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 106(1), 146 - 154. 6. Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Đỗ Nguyên, và Tô Minh Ngọc (2014). Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội thận bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(6 phụ bản), 474 - 480. 7. Lins L. and Carvalho F.M. (2016). SF - 36 total score as a single measure of health - related quality of life: Scoping review. SAGE Open Med, 4: 2050312116671725. 8. Farivar S.S., Cunningham W.E., and Hays R.D. (2007). Correlated physical and TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 97TCNCYH 123 (7) - 2019 mental health summary scores for the SF - 36 and SF - 12 Health Survey, V.I. Health Qual Life Outcomes, 5: 54. 9. Chen M.C., Hung H.C., Chang H.J., et al. (2017). Assessment of Educational Needs and Quality of Life of Chronic Hepatitis Patients. BMC Health Serv Res, 17(1), 148. 10. Xue X., Cai S., Ou H., et al. (2017). Health - related quality of life in patients with chronic hepatitis B during antiviral treatment and off - treatment. Patient Prefer Adherence, 11: 85 - 93. 11. Lê Việt Thắng và Nguyễn Văn Hùng (2012). Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn tính chạy thận nhân tạo chu kỳ bằng thang điểm SF36. Tạp chí Y học thực hành, 1(802), 45 - 47. 12. Bondini S., Kallman J., Dan A., et al. (2007). Health - related quality of life in patients with chronic hepatitis B. Liver Int, 27(8), 1119 - 1125. 13. Lam E.T., Lam C.L., Lai C.L., et al. (2009). Health - related quality of life of Southern Chinese with chronic hepatitis B infection. Health Qual Life Outcomes, 7: 52. 14. Wang L., Wang Y., Tang L., et al. (2012). Quality of life and the relevant factors in patients with chronic hepatitis B. Hepatogastroenterology, 59(116), 1036 - 1042. 15. Kim J.H., Kwon S.Y., Lee Y.S., et al. (2012). Virologic response to therapy increases health - related quality of life for patients with chronic hepatitis B. Clin Gastroenterol Hepatol, 10(3), 291 - 296. Summary QUALITY OF LIFE OF PATIENTS WITH CHRONIC HEPATITIS B DURING ANTIVIRAL TREATMENT AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL A cross-sectional study was conducted to assess the quality of life of 112 patients with Chronic Hepatitis B, aged 20 to 79, who were on antiviral treatment at the clinic of Hanoi Medical University Hospital in 2018-2019 using the SF-36 tool. The mean of total SF-36 quality of life score was 75.8 ± 18.3 (79.3 ± 22.4 for physical health and 72.6 ± 14.1 for mental health). The majority of patients (61.6%) was classified as good quality of life (scored at least 80). The lowest score was for general health scale (59.0) and the highest one was for physical activity scale (89.8). The quality of life (QoL) score decreased accordingly with patient’s age and was lower among patients with clinical symptoms or with HBeAg (+) while it was higher among those with tertiary education (p < 0.05). The patients’ QoL is good, but the general health status should be prioritized for improvement, especially among patients with clinical symptoms and those who are positive with HBeAg. There is also a need for further studies on the impact of antiviral treatment on patients’ QoL. Keywords: Quality of life, SF-36, chronic hepatitis B, antiviral treatment, and outpatient.
File đính kèm:
chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_viem_gan_vi_rut_b_man_tin.pdf

