Chẩn đoán và điều trị trầm cảm trong một số bệnh nội khoa
Sự mắc đồng thời trầm cảm và một bệnh lý nội khoa trong thực hành lâm sàng
khá thường gặp. Việc lựa chọn thuốc chống trầm cảm trên mỗi bệnh nhân cụ thể
không chỉ có tác dụng chống trầm cảm mà còn giảm thiểu các tác dụng không
mong muốn do thuốc gây ra, tạo điều kiện thuận lợi cho điều trị bệnh lý kết hợp.
Trong bài này chúng tôi hy vọng cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích
về chẩn đoán và điều trị rối loạn trầm cảm trong một số bệnh nội khoa.
Bạn đang xem tài liệu "Chẩn đoán và điều trị trầm cảm trong một số bệnh nội khoa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán và điều trị trầm cảm trong một số bệnh nội khoa
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 100 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Đặng Trần Khang ([email protected]) Ngày nhận bài: 10/5/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 24/5/2017. Ngày bài báo được đăng: 30/6/2017 CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM TRONG MỘT SỐ BỆNH NỘI KHOA Đặng Trần Khang1, Lã Quốc Bảo1 Tóm tắt Sự mắc đồng thời trầm cảm và một bệnh lý nội khoa trong thực hành lâm sàng khá thường gặp. Việc lựa chọn thuốc chống trầm cảm trên mỗi bệnh nhân cụ thể không chỉ có tác dụng chống trầm cảm mà còn giảm thiểu các tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra, tạo điều kiện thuận lợi cho điều trị bệnh lý kết hợp. Trong bài này chúng tôi hy vọng cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích về chẩn đoán và điều trị rối loạn trầm cảm trong một số bệnh nội khoa. DIAGNOSIS AND TREATMENT OF DEPRESSIVE DISORDER DUE TO SOME MEDICAL CONDITIONS Summary Depression associates with other physical diseases are quite common in clinical practice. The choice of antidepressant medication on a particular patient are important, as it must not only has an anti-depressant effect, but it also need to minimizes the adverse effects of the drug, which could help facilitates the treatment of a combination disease. In this article, we hope to provide to readers some helpful information about diagnosis and treatment of depressive disorder due to some medical conditions. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 101 Trầm cảm là một bệnh lý tâm thần rất phổ biến. Thống kê cho thấy trầm cảm gặp 5%- 10% ở bệnh nhân nội viện, 9%-16% số bệnh nhân ngoại viện[8]. Đa số các bệnh nhân trầm cảm đến với tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu và bác sĩ đa khoa trước khi đến với bác sĩ chuyên khoa tâm thần, cho nên việc chẩn đoán trầm cảm thường bị bỏ sót và cũng chính vì vậy trầm cảm thường không được điều trị thỏa đáng. Sự mắc đồng thời trầm cảm và một bệnh lý nội khoa trong thực hành lâm sàng khá thường gặp. Cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ mà đặc biệt là công nghệ dược phẩm, ngày càng nhiều nhóm thuốc chống trầm cảm mới ra đời với cơ chế tác dụng rất phức tạp. Việc lựa chọn thuốc chống trầm cảm trên mỗi bệnh nhân cụ thể không chỉ có tác dụng chống trầm cảm mà còn giảm thiểu các tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra, tạo điều kiện thuận lợi cho điều trị bệnh lý kết hợp. Trầm cảm gây ra hậu quả tăng tử suất và bệnh xuất bệnh lý mạch vành, nhồi máu cơ tim (NMCT), đột quỵ, suy thận, ung thư và các bệnh lý cấp tính đe dọa tính mạng khác từ đó dẫn đến tăng sử dụng nguồn lực y tế. Tỷ lệ trầm cảm trong một số bệnh lý nội khoa[8] Bệnh lý Tỷ lệ % Bệnh lý Tỷ lệ % Bệnh lý Tỷ lệ % Thẩm phân máu 6.5 Cường giáp 31 Đột quỵ 27 Bệnh mạch vành 18 Đái tháo đường 24 Parkinson 28 Ung thư 25-38 Cushing 66 Đa xơ cứng 57 Đau mạn tính 32 HIV 30 Động kinh 55 Tiêu chuẩn chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm theo DSM-5 (2013) Năm (hoặc hơn) trong số các triệu chứng sau được biểu hiện trong thời gian 2 tuần và biểu hiện một số sự thay đổi các chức năng trước đây, nhưng phải có ít nhất một trong 2 triệu chứng chính là: (1)- khí sắc trầm cảm, hoặc (2)- mất hứng thú sở thích. Ghi chú: không bao gồm các triệu chứng là hậu quả rõ ràng của bệnh cơ thể, hoang tưởng hoặc ảo giác không phù hợp với khí sắc. Khí sắc trầm cảm xẩy ra phần lớn thời gian trong ngày và hầu như hàng ngày, được nhận biết bởi chính bệnh nhân (ví dụ: cảm thấy buồn hoặc cảm xúc trống rỗng) hoặc được quan sát bởi người khác (ví dụ thấy bệnh nhân khóc) Ghi chú: ở trẻ em và trẻ vị thành TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 102 niên khí sắc có thể bị kích thích. Giảm sút rõ ràng các hứng thú hoặc sở thích cho tất cả hoặc hầu như tất cả các hoạt động, xuất hiện phần lớn thời gian trong ngày, diễn ra hầu như hàng ngày (được bệnh nhân hoặc người khác quan sát thấy) Mất khối lượng cơ thể rõ ràng hoặc tăng khối lượng cơ thể (ví dụ: thay đổi hơn 5% khối lượng cơ thể trong một tháng) cả khi không ăn kiêng, giảm hoặc tăng cảm giác ngon miệng hầu như hàng ngày. Lưu ý: trẻ em mất khả năng đạt được khối lượng cần thiết. Mất ngủ hoặc ngủ nhiều hầu như hàng ngày. Kích động hoặc vận động tâm thần chậm hầu như hàng ngày (được bệnh nhân cảm thấy hoặc người khác quan sát thấy). Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như hàng ngày. Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức (có thể là hoang tưởng) diễn ra hầu như hàng ngày (bệnh nhân tự khiển trách hoặc kết tội liên quan đến các vấn đề mắc phải). Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung suy nghĩ hoặc quyết định diễn ra hầu như hàng ngày (bệnh nhân tự thấy hoặc người khác nhận thấy). Ý nghĩ tiếp tục về cái chết (không chỉ là sợ chết), ý định tự sát tái diễn không có một kế hoạch trước hoặc một hành vi tự sát với một kế hoạch tự sát cụ thể để tự sát thành công. Các triệu chứng không thỏa mãn cho một giai đoạn pha trộn. Các triệu chứng là nguyên nhân gây ảnh hưởng rõ ràng trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác. Các triệu chứng không phải là hậu quả sinh lý trực tiếp của một chất (ma túy, thuốc) hoặc do một bệnh cơ thể (bệnh nhược giáp, đái tháo đường,) Không bao giờ có một giai đoạn hưng cảm hoặc một giai đoạn hưng cảm nhẹ. Biết định mức độ bệnh hiện tại: Mức độ trầm cảm dựa trên số lượng triệu chứng lâm sàng, mức độ nặng của các triệu chứng và mức độ suy giảm chức năng trên bệnh nhân. Trầm cảm mức độ nhẹ: là có tối thiểu các triệu chứng trầm cảm vừa đủ cho chẩn đoán (5-6 triệu chứng theo tiêu chuẩn của DSM-5), cường độ các triệu chứng gây ra những bất ổn cho bệnh nhân nhưng còn kiểm soát được. Trầm cảm mức độ vừa: là có số triệu chứng trung gian giữa mức độ nhẹ và nặng (có 7-8 triệu chứng theo tiêu chuẩn của DSM-5). Cường độ các triệu chứng và sự suy giảm các chức năng ở giữa mức độ nhẹ và nặng. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 103 Trầm cảm mức độ nặng: là có tất cả các triệu chứng của trầm cảm (9 triệu chứng theo tiêu chuẩn của DSM- 5). Cường độ các triệu chứng gây nguy kịch nghiêm trọng và không thể kiểm soát được, các triệu chứng gây ảnh hưởng rõ rệt đến chức năng xã hội và nghề nghiệp. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm do một bệnh cơ thể theo DSM-5 (2013) Một giai đoạn nổi trội và kéo dài trong bệnh cảnh lâm sàng với khí sắc trầm hoặc giảm đáng kể hứng thú hoặc sở thích trong tất cả hoặc hầu như tất cả các hoạt động. Có bằng chứng trong tiền sử, khám xét cơ thể hoặc kết quả xét nghiệm cho thấy rối loạn này là hậu quả sinh lý bệnh trực tiếp của một bệnh cơ thể. Rối loạn này không được giải thích tốt hơn bởi một rối loạn tâm thần khác (ví dụ: rối loạn thích ứng có khí sắc trầm cảm mà trong đó tác nhân stress là một bệnh cơ thể nặng) Rối loạn này không phải do mê sảng. Rối loạn này gây ra những nguy kịch lâm sàng đáng kể, hoặc suy giảm các chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác. Biệt định nếu: Có đặc điểm trầm cảm: Bệnh nhân không đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm chủ yếu. Giống một giai đoạn trầm cảm chủ yếu: Bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chuấn chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm chủ yếu ngoại trừ tiêu chuẩn C Có đặc điểm hỗn hợp: các triệu chứng hưng cảm, hưng cảm nhẹ cũng có thể xuất hiện nhưng không nổi trội trong bệnh cảnh lâm sàng. Lưu ý: Trong thực hành lâm sàng đôi khi chúng ta gặp trầm cảm ẩn. Trầm cảm ẩn là trầm cảm với nhiều triệu chứng cơ thể, các triệu chứng buồn chán không điển hình, thay vào đó là các triệu chứng cơ thể nổi trội và chiếm ưu thế như: đau, hồi hộp trống ngực, tức ngực, ăn không ngon, cơn vã mồ hôi, nóng rát vùng thượng vị, hội chứng ruột kích thích, tê tay chân, rối loạn giấc ngủ... Các triệu chứng trên có đặc trưng là bệnh nhân than phiền nhiều hơn các bệnh nhân nội khoa khác và dù đã khám xét kỹ mà không thấy bất kỳ tổn thương nào phù hợp với than phiền của bệnh nhân. Một số trắc nghiệm hỗ trợ chẩn đoán: BDI: Thang đánh giá trầm cảm của Beck HDRS: Thang đánh giá trầm cảm của Hamilton GDS: Thang đánh giá trầm cảm người già TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 104 RADS: Thanh đánh giá trầm cảm thanh thiếu niên EPDS: Thang đánh giá trầm cảm sau sinh Trầm cảm sau đột quỵ não Sau đột quỵ, trầm cảm khởi phát rất sớm, xảy ra trong vòng một ngày hoặc vài ngày sau tai biến mạch máu não (CVA: cerebrovascular accident). Tuy nhiên trong một số trường hợp trầm cảm có thể khởi phát sau CVA vài tuần đến vài tháng. Trong hầu hết các trường hợp trầm cảm sau đột quỵ kéo dài 9-11 tháng[1]. Bản thân trầm cảm có nguy cơ cao gây đột quỵ. Thêm vào đó, trầm cảm được thấy ít nhất khoảng 30%- 40% ở các bệnh nhân sống sót sau đột quỵ. Trầm cảm sau đột quỵ còn được biết là nguyên nhân làm chậm sự phục hồi chức năng của bệnh nhân. Các thuốc chống trầm cảm có khả năng làm giảm các triệu chứng trầm cảm và trợ giúp cho quá trình hồi phục nhanh hơn, chúng cũng có thể cải thiện chức năng nhận thức chung và kích thích phục hồi vận động. Mặc dù thuốc chống trầm cảm mang lại lợi ích như trên nhưng hầu hết các bệnh nhân trầm cảm sau đột quỵ đều không được điều trị trầm cảm. Vì bệnh nhân mắc chứng trầm cảm sau đột quỵ có tỷ lệ khá cao, cho nên vấn đề dự phòng đáng được xem xét. Nhìn chung, các dữ liệu chỉ ra hiệu quả mạnh mẽ của thuốc chống trầm cảm[2]. Các thuốc nortriptyline, fluoxetine, escitalopram, duloxetine và setraline có tác dụng dự phòng trầm cảm sau đột quỵ. Mirtazapine có thể có cả tác dụng dự phòng và điều trị trầm cảm. Điều trị trầm cảm sau đột quỵ khá phức tạp vì các bệnh lý kết hợp và nguy cơ tương tác giữa các thuốc khi dùng cùng. Chống chỉ định xảy ra đối với thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs) nhiều hơn với thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRIs). Fluoxetine, citalopram và nortriptyline có lẽ được nghiên cứu nhiều nhất và dường như chúng có hiệu quả và an toàn. SSRIs và nortriptyline được đề nghị nhiều cho chứng trầm cảm sau đột quỵ. Reboxetine (một thuốc không ảnh hưởng đến hoạt động của tiểu cầu) có thể cũng có hiệu quả và dung nạp tốt mặc dù nhìn chung hiệu quả của nó không chắc chắn. Bất kể những lo ngại, SSRIs dường như không làm tăng nguy cơ đột quỵ, tuy nhiên vẫn còn một vài nghi ngờ. Các thuốc chống trầm cảm rõ ràng có hiệu quả trong trầm cảm sau đột quỵ và việc điều trị là không nên từ chối. Tóm lại SSRIs, nortriptyline được đề nghị sử dụng trong trầm cảm sau đột quỵ. Tuy nhiên khuyến cáo trong đột quỵ xuất huyết não việc chỉ định SSRIs cần thận trọng khi có sự kết hợp với warfarin hoặc các thuốc kháng tiểu cầu TỔNG QUAN TÀI LIỆU 105 vì thuốc làm tăng nguy cơ xuất huyết ban đầu. Nếu bệnh nhân đang được dùng warfarin, thì citalopram hoặc escitalopram nên được khuyến cáo sử dụng. Cân nhắc dùng thuốc ức chế bơm proton để bảo vệ dạ dày trên các bệnh nhân đang được sử dụng aspirin hoặc thuốc chống đông cùng với SSRIs[3]. Trầm cảm và bệnh tiểu đường Mối liên quan giữa tiểu đường và trầm cảm đã được chứng minh. Tỷ lệ mắc trầm cảm đồng thời ở bệnh nhân tiểu đường khoảng từ 9% - 60% tùy thuộc vào phương pháp sàng lọc được ứng dụng[3]. Nếu không được chẩn đoán và điều trị, ngay cả trầm cảm nhẹ cũng có thể ảnh hưởng xấu đến tuân thủ điều trị và mức đường huyết, góp phần làm giảm chất lượng cuộc sống. Nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở bệnh nhân trầm cảm tăng gấp hai lần so với bệnh nhân không đái tháo đường[4]. Bệnh nhân mắc tiểu đường đồng thời với trầm cảm có nguy cơ cao bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong cũng tăng cao hơn. Trên các bệnh nhân này, trầm cảm có ảnh hưởng tiêu cực đến sự kiểm soát rối loạn chuyến hóa, đồng thời kiểm soát rối loạn chuyển hóa kém cũng làm cho trầm cảm nặng hơn. Vì vậy điều trị trầm cảm ở bệnh nhân tiểu đường có tầm quan trọng sống còn và việc chọn lựa thuốc điều trị nên tính đến các tác dụng trên kiểm soát rối loạn chuyển hóa. Cochrane khuyến nghị rằng các thuốc chống trầm cảm trong chừng mực nào đó còn có tác dụng cải thiện kiểm soát đường huyết. Các thuốc chống trầm cảm nhóm SSRIs là lựa chọn đầu tiên, trong đó hầu hết đề nghị dùng fluoxetine. Các thuốc nhóm SNRIs cũng có thể an toàn nhưng ít dữ liệu ủng hộ. Trên các bệnh nhân này tránh dùng TCAs và MAOIs nếu có thể vì chúng gây tăng cân và tăng đường máu[3]. Trầm cảm và bệnh tim mạch Robert EF, Kenneth EF cho biết trung bình cứ 5 bệnh nhân chụp mạch máu hoặc cứ 5 bệnh nhân vừa bị nhồi máu cơ tim cấp sẽ có 1 bệnh nhân bị rối loạn trầm cảm chủ yếu[7]. Tỷ lệ mới mắc của rối loạn trầm cảm chủ yếu theo tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-III sau nhồi máu cơ tim (NMCT) là 16%. Các nghiên cứu sử dụng bản câu hỏi tự đánh giá cho thấy tỷ lệ này lên đến 50%. Các bệnh nhân bị trầm cảm chủ yếu sau NMCT có nguy cơ tử vong do biến cố tim mạch tăng gấp 5 lần so với bệnh nhân không có trầm cảm (theo dõi trong thời gian 6 tháng). Vào thời điểm 18 tháng, tử vong do tim mạch ở bệnh nhân trầm cảm chủ yếu đến 20% so với 3% ở bệnh nhân không trầm cảm. Bệnh nhân có điểm số Beck Depression Inventory ≥10 sau NMCT có nguy cơ tử vong khi theo dõi đến 18 tháng tăng TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 106 gấp khoảng 7 lần so với các bệnh nhân có điểm số này dưới 10. Ở bệnh nhân có bệnh lý mạch vành ổn định, chẩn đoán trầm cảm chủ yếu theo DSM là yếu tố tiên lượng mạnh nhất cho các biến cố tim mạch trong vòng một năm. Nguy cơ tương đối ở bệnh nhân có trầm cảm chủ yếu cao hơn ở bệnh nhân không trầm cảm khoảng 2,2 lần. Trong những bệnh nhân nhập viện vì đau thắt ngực không ổn định, những bệnh nhân có điểm số Beck Depression Inventory ≥10 có tỷ lệ tử vong do NMCT vào 1 năm sau đó tăng gấp 5 lần so với bệnh nhân không trầm cảm[6]. Trầm cảm trên lâm sàng cũng làm tăng nguy cơ bệnh lý mạch vành gấp 2 lần, mối liên quan này vẫn có ý nghĩa thống kê sau khi điều chỉnh về yếu tố hút thuốc, uống rượu và cà phê[6]. Trầm cảm là một yếu tố nguy cơ hẹp mạch vành hoặc làm hẹp mạch vành tiến triển nặng hơn[7]. Các thuốc nhóm SSRIs an toàn đối với bệnh nhân vừa bị NMCT và là thuốc chống trầm cảm hiệu quả. Tuy nhiên các bằng chứng cho thấy thuốc chống trầm cảm chỉ đặc biệt có hiệu quả ở các bệnh nhân trầm cảm nặng. Các thuốc chống trầm cảm nói chung và SSRIs nói riêng giúp giảm bệnh suất và tử suất ở bệnh nhân có trầm cảm sau NMCT[5]. Vì vậy những bệnh nhân sau NMCT nên được sàng lọc để phát hiện trầm cảm. Khi một bệnh nhân được xác định có trầm cảm, sự kết hợp với một bác sĩ có kinh nghiệm điều trị trầm cảm để theo dõi và hỗ trợ là cần thiết. KẾT LUẬN Tóm lại trầm cảm là một vấn đề quan trọng, ảnh hưởng rõ rệt đến dự hậu các bệnh lý nội khoa. Điều trị trầm cảm hiệu quả cần có sự phối hợp giữa điều trị bằng thuốc và các liệu pháp tâm lý. Mục tiêu điều trị nhằm đem lại chất lượng cuộc sống cho người bệnh, giảm thiểu hay loại bỏ các triệu chứng trầm cảm, cố gắng tránh các tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm, phòng ngừa tái phát. Các thuốc SSRIs hiện nay có một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các triệu chứng trầm cảm và thường được xem xét là lựa chọn ưu tiên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. American Psychiatric Association (2013), “Depressive disorder”, Diagnostic and statistical manual of Mental disorder, fifth edition, Washington, DC, USA, tr. 155-188. 2. Chen Y., Patel N. C., Guo J. J et al (2007), “Antidepressant prophylaxis for poststroke depression: a meta- analysis”, Int Clin Psychopharmacol. 22, tr. 159-166. 3. David T., Carol P., Shitij K. (2015), “Depression and anxiety”, Prescribing Guidelines in Psychiatry, TỔNG QUAN TÀI LIỆU 107 12th edition, Wiley, UK, tr. 231-352. 4. Dzida G., Karnieli E., et al Svendsen A. L. (2015), “Depressive symptoms prior to and following insulin initiation in patients with type 2 diabetes mellitus: Prevalence, risk factors and effect on physician resource utilisation.”, Prim Care Diabetes. 5, tr. 346-353. 5. Glassman A., Maj M., Sartorius N (2010), “Depression and cardiovascular disease: the saferty of antidepressant drugs and their ability to improve mood and reduce medical morbidity”, Depression and Heart Disease, Willey. 6. Glassman A., Maj M., Sartorius N (2010), “ Epidemiology of the comorbidity between depression and heart desease”, Depression and Heart Disease, Willey. 7. Robert M. C., Kenneth E. F. (2003), “Depression, mortality, and medical morbidity in patients with coronary heart disease”, Biol Psychiatry. 54, tr. 241-247. 8. Rouchell A. M. (2000), “Major Depression in Primary Care”, The Ochsner Journal. 2, tr. 79-84.
File đính kèm:
chan_doan_va_dieu_tri_tram_cam_trong_mot_so_benh_noi_khoa.pdf

