Chẩn đoán và điều trị hen nặng tăng bạch cầu ái toan
Hen nặng chỉ chiếm 5-10% tổng số bệnh nhân hen nhưng tiêu tốn nhiều nguồn lực y tế để chăm sóc. Hen
nặng đa dạng về bản chất viêm nên việc phân loại kiểu hình là cần thiết để có lựa chọn điều trị phù hợp.
Kiểu hình hen tăng bạch cầu ái toan (BCAT) được định nghĩa là khi tỷ lệ BCAT trong đàm kích thích chiếm
ít nhất 3% tổng số bạch cầu. Cơ chế sinh học phân tử của hen tăng BCAT là đáp ứng viêm loại 2, được đặc
trưng bởi việc sản xuất quá mức các kháng thể IL-4, IL-5 và IL-13. Trong hen nặng, kiểu hình hen tăng
BCAT chiếm 50-55%. Hen nặng tăng BCAT có nguy cơ cao bị đợt cấp nặng. Hen tăng BCAT có thể được
nhận diện bởi các xét nghiệm sau: đếm BCAT trong đàm, đếm BCAT trong máu, đo nồng độ NO trong hơi
thở ra (FeNO) và định lượng nồng độ periostin trong máu. Việc phối hợp nhiều dấu ấn sinh học cùng lúc sẽ
tăng độ chính xác trong việc chẩn đoán hen tăng bạch cầu ái toan. Hen nặng tăng BCAT được điều trị nền
bởi corticoid hít phối hợp với thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài và được xem xét điều trị cộng thêm bởi
kháng thể đơn dòng nhắm vào đáp ứng viêm loại 2 nếu đợt cấp vẫn xảy ra
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán và điều trị hen nặng tăng bạch cầu ái toan
Tổng quan 18 Hô hấp số 17/2018 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hen là một bệnh đa kiểu hình, thường được đặc trưng bởi tình trạng viêm mạn tính đường dẫn khí (1). Kiểu hình là tập hợp các đặc tính có thể quan sát được, do sự tương tác giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi trường. Những bệnh nhân có chung các biểu hiện lâm sàng thì được xếp vào cùng một kiểu hình. Các kiểu hình thường gặp của hen bao gồm: hen tăng bạch cầu ái toan (BCAT), hen tăng bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT), hen nghề nghiệp, hen do aspirin, 90-95% bệnh nhân hen có thể đạt kiểm soát hen nếu điều trị hợp lý bằng corticoid hít (ICS) và/hoặc thuốc kích thích thụ thể β2 tác dụng kéo dài (LABA), tuân thủ điều trị, kỹ thuật dùng thuốc đúng. Do đó, phần lớn bệnh nhân hen không cần phải đánh giá kiểu hình trước khi bắt đầu điều trị. Thông thường bác sĩ lâm sàng chỉ đánh giá kiểu hình cho hen nặng để giúp tiên lượng hoặc lựa chọn điều trị đặc hiệu (2). Trong bài tổng quan này, chúng tôi trình bày về cách nhận diện và điều trị kiểu hình hen nặng tăng BCAT. 2. GIỚI THIỆu HEN NẶNG TăNG BẠCH CẦu ÁI TOAN Hen nặng là hen cần phải dùng ICS liều cao kèm một thuốc ngừa cơn thứ 2 (và/hoặc corticoid uống) để được kiểm soát hoặc vẫn không kiểm soát dù điều trị như thế (điều trị bậc 4 hoặc bậc 5 theo Chiến lược toàn cầu về hen-GINA) (3). Hen nặng chỉ chiếm 5-10% tổng số bệnh nhân hen nhưng tiêu tốn nhiều nguồn lực y tế để chăm sóc. Hen nặng đa dạng về bản chất viêm nên các bệnh nhân hen nặng khác nhau sẽ có diễn tiến và đáp ứng với điều trị khác nhau. Do đó, việc phân loại kiểu hình ở bệnh nhân hen nặng là cần thiết để có lựa chọn điều trị phù hợp. Hen tăng BCAT được định nghĩa là khi tỷ lệ BCAT trong đàm kích thích chiếm ít nhất 3% tổng số bạch cầu. Một nghiên cứu gần đây ở 86 bệnh nhân hen nặng người Bỉ cho thấy, kiểu hình hen tăng bạch cầu ái toan chiếm 55%, trong khi đó kiểu hình tăng BCĐNTT chiếm 22%, kiểu hình CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀu TRỊ HEN NẶNG TăNG BẠCH CẦu ÁI TOAN TS. BS. NGuyỄN VăN THỌ Bộ môn Lao và Bệnh phổi, Đại Học Y Dược TP. HCM Khoa Thăm dò Chức năng Hô hấp, Bệnh viện Đại Học Y Dược TP. HCM Khoa Bệnh phổi tắc nghẽn, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch Tóm tắt Hen nặng chỉ chiếm 5-10% tổng số bệnh nhân hen nhưng tiêu tốn nhiều nguồn lực y tế để chăm sóc. Hen nặng đa dạng về bản chất viêm nên việc phân loại kiểu hình là cần thiết để có lựa chọn điều trị phù hợp. Kiểu hình hen tăng bạch cầu ái toan (BCAT) được định nghĩa là khi tỷ lệ BCAT trong đàm kích thích chiếm ít nhất 3% tổng số bạch cầu. Cơ chế sinh học phân tử của hen tăng BCAT là đáp ứng viêm loại 2, được đặc trưng bởi việc sản xuất quá mức các kháng thể IL-4, IL-5 và IL-13. Trong hen nặng, kiểu hình hen tăng BCAT chiếm 50-55%. Hen nặng tăng BCAT có nguy cơ cao bị đợt cấp nặng. Hen tăng BCAT có thể được nhận diện bởi các xét nghiệm sau: đếm BCAT trong đàm, đếm BCAT trong máu, đo nồng độ NO trong hơi thở ra (FeNO) và định lượng nồng độ periostin trong máu. Việc phối hợp nhiều dấu ấn sinh học cùng lúc sẽ tăng độ chính xác trong việc chẩn đoán hen tăng bạch cầu ái toan. Hen nặng tăng BCAT được điều trị nền bởi corticoid hít phối hợp với thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài và được xem xét điều trị cộng thêm bởi kháng thể đơn dòng nhắm vào đáp ứng viêm loại 2 nếu đợt cấp vẫn xảy ra. Tổng quan 19 Hô hấp số 17/2018 hỗn hợp (vừa tăng BCAT vừa tăng BCĐNTT) chiếm 6% và kiểu hình ít bạch cầu chiếm 17% (4). Một nghiên cứu khác ở 115 bệnh nhân hen nặng sau đó cũng cho thấy kiểu hình hen tăng BCAT chiếm 50%. Trong khi đó, tỷ lệ tăng BCAT/đàm ở bệnh nhân hen chung là 35%, ở bệnh nhân hen nhẹ-trung bình là 26% (5). Đường dẫn khí của bệnh nhân hen thường được đặc trưng bởi sự xâm nhập bạch cầu ái toan. Số lượng bạch cầu ái toan đã hoạt hóa trong đường dẫn khí tăng lên khi hít phải dị nguyên. Bạch cầu ái toan gây tăng đáp ứng phế quản thông qua việc tiết các proteins cơ bản và các gốc oxy hóa tự do. Bạch cầu ái toan được huy động đến đường dẫn khí bằng cách bám dính vào tế bào nội mô mạch máu trong hệ tuần hoàn của đường dẫn khí do sự tương tác giữa các phân tử bám dính, di chuyển vào lớp dưới niêm do tác động của các chemokines và sau đó chúng được hoạt hóa và kéo dài thời gian sống còn (hình 1). Bạch cầu ái toan có thể quan trọng trong việc tiết yếu tố tăng trưởng gây tái cấu trúc phế quản và trong các đợt cấp của hen (6). Việc phân biệt hen tăng với không tăng BCAT quan trọng vì những lý do sau: hen tăng BCAT có nguy cơ cao bị đợt cấp nặng; Cách tiếp cận dựa trên việc nhận diện và điều trị hen tăng BCAT giúp làm giảm đợt cấp; Kháng thể kháng IgE (Omalizumab) và một số kháng thể đơn dòng mới tỏ ra hiệu quả trên hen tăng BCAT (7). Cơ chế sinh học phân tử của hen tăng BCAT là đáp ứng viêm loại 2 (hình 2), đáp ứng viêm liên quan đến tế bào limpho T giúp đỡ loại 2 (Th2) và tế bào limpho bẩm sinh loại 2 (8). Đáp ứng viêm loại 2 được đặc trưng bởi việc sản xuất quá mức các kháng thể IL-4, IL-5 và IL-13, từ đó gây tăng IgE, cơ địa dị ứng và tăng BCAT trong máu (9). Tuy nhiên, một số lượng lớn bệnh nhân hen nặng tăng BCAT không có cơ địa dị ứng hoặc tăng IgE. Hen tăng BCAT thường đáp ứng tốt với ICS đối với hen nhẹ, nhưng đối với hen nặng thì viêm tăng BCAT vẫn dai dẳng dù được điều trị bằng ICS hoặc corticoid uống. Hình 1. Bạch cầu ái toan góp phần gây viêm đường dẫn khí dai dẳng trong hen (Nguồn: Mackay IR et al. NEJM 2001;134:350-362) 3. CHẨN ĐOÁN HEN TăNG BẠCH CẦu ÁI TOAN Các xét nghiệm sau có thể được dùng để nhận diện nhóm bệnh nhân hen tăng bạch cầu ái toan. Xét nghiệm đếm bạch cầu ái toan trong đàm: Bệnh nhân được xem như có tăng BCAT trong đàm nếu số lượng BCAT ≥ 3% tổng số lượng bạch cầu trong đàm. Xét nghiệm này dùng để dự đoán khả năng bệnh nhân có đáp ứng với ICS hoặc các thuốc ức chế đặc hiệu của đáp ứng viêm loại 2. Tuy nhiên, xét nghiệm đếm BCAT trong đàm có hạn chế là tốn thời gian, khó lấy mẫu và chỉ làm được ở trung tâm có kinh nghiệm. Do đó, xét nghiệm này vẫn chưa thể áp dụng trong thực hành lâm sàng một cách thường quy trong chẩn đoán và điều trị hen. Xét nghiệm đếm bạch cầu ái toan trong máu: Việc đếm BCAT trong máu bằng xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi là một xét nghiệm thường quy và rất dễ thực hiện. Nếu số lượng BCAT trong máu phản ánh được số lượng BCAT trong đàm thì chúng ta có thể sử dụng xét nghiệm BCAT trong máu để chẩn đoán hen tăng bạch cầu Tổng quan 20 Hô hấp số 17/2018 ái toan. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, trong số các bệnh nhân hen, BCAT trong máu có thể tiên đoán BCAT trong đàm ≥ 2% với diện tích dưới đường cong ROC là 0,79 (khoảng tin cậy 95% từ 0,72 đến 0,86). Độ nhạy và độ đặc hiệu tùy thuộc vào điểm cắt của BCAT trong máu. Với điểm cắt 300/ml thì độ nhạy là 59,7% và độ đặc hiệu là 84,4%; với điểm cắt 450/ml thì độ nhạy là 49,3% và độ đặc hiệu là 97,0% (10). Tuy nhiên, cho tới thời điểm này, điểm cắt của BCAT trong máu để tiên đoán viêm tăng BCAT ở bệnh nhân hen vẫn chưa được xác định. Hình 2. Mối liên quan giữa đáp ứng viêm loại 2 và các dấu ấn sinh học của của hen tăng bạch cầu ái toan (Nguồn: Amit D. Parulekar et al. Curr Opin Pulm Med 2016, 22:59–68) Xét nghiệm đo nồng độ khí NO trong hơi thở ra (FeNO): Các nghiên cứu gần đây cho thấy FeNO tương quan thuận với số lượng BCAT trong đàm, trong máu, trong dịch rửa phế quản phế nang và sinh thiết niêm mạc phế quản ở bệnh nhân hen. Bệnh nhân hen được xem như có khả năng viêm tăng BCAT nếu FeNO > 50 ppb; không có viêm tăng BCAT nếu FeNO < 25 ppb. Ưu điểm của xét nghiệm FeNO là không xâm lấn và có tính lặp lại cho từng cá nhân. Do đó, FeNO không những có vai trò trong việc nhận diện bệnh nhân hen có tăng BCAT mà còn có thể giúp theo dõi đáp ứng với điều trị kháng viêm nhắm vào viêm tăng BCAT (8). Một phân tích gộp gần đây cho thấy FeNO, BCAT trong máu và IgE có độ chính xác chẩn đoán hen tăng bạch cầu ái toan với mức độ vừa phải (bảng 1). Do đó, bác sĩ không nên dùng đơn thuần một dấu ấn sinh học nào kể trên để chẩn đoán hen tăng BCAT vì có khả năng chẩn đoán dương giả hoặc âm giả (11). Bác sĩ nên phối hợp nhiều dấu ấn sinh học cùng lúc để tăng độ chính Tổng quan 21 Hô hấp số 17/2018 xác trong việc chẩn đoán hen tăng BCAT. Tuy nhiên, một trong những rào cản của việc sử dụng các dấu ấn sinh học này là điểm cắt để xác định tăng cao là không thống nhất giữa các nghiên cứu. Bảng 1. Độ nhạy và độ đặc hiệu của các dấu ấn sinh học trong xác định bạch cầu ái toan trong đàm ≥ 3% Số nghiên cứu Số bệnh nhân Độ nhạy (KTC95%) Độ đặc hiệu (KTC95%) FeNO 12 1720 0,66 (0,57–0,75) 0,76 (0,65–0,85) Số BCAT/máu 12 1967 0,71 (0,65–0,76) 0,77 (0,70–0,83) % BCAT/máu 5 920 0,76 (0,52–0,90) 0,74 (0,67–0,80) IgE toàn phần/máu 6 699 0,64 (0,42–0,81) 0,71 (0,42–0,89) Xét nghiệm định lượng nồng độ periostin trong máu: Periostin do tế bào niêm mạc phế quản chế tiết khi có sự kích thích của IL-4 và IL-13. Do đó, periostin là dấu ấn sinh học của đáp ứng viêm loại 2. Periostin có vai trò tiên đoán khả năng đáp ứng với ICS ở bệnh nhân hen. Nếu bệnh nhân hen vẫn chưa kiểm soát dù đã điều trị bằng ICS liều cao thì periostrin có vai trò tiên đoán tăng BCAT trong đàm hoặc mô tốt hơn xét nghiệm đếm BCAT trong máu, IgE và FeNO. Đặc biệt, periostin được dùng để tiên đoán đáp ứng với kháng thể kháng IL-13 và kháng IgE. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện nay, xét nghiệm periostin chỉ được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng mà vẫn chưa được sử dụng trong thực hành lâm sàng (12). Vai trò tiên đoán đáp ứng và theo dõi điều trị hen nặng tăng BCAT của các dấu ấn sinh học được trình bày tóm lược trong bảng 2. Bảng 2. Xét nghiệm tiên đoán đáp ứng* hoặc theo dõi điều trị† hen tăng BCAT Thuốc Đích điều trị FeNO BCAT/máu BCAT/đàm Periostin IgE/máu Omalizumab IgE *, † † * Mepoluzimab IL-5 *, † *, † Lebrikizumab IL-13 *, † * *, † † Dupilumab IL-4/IL-13 † * * † 4. ĐIỀu TRỊ HEN NẶNG TăNG BẠCH CẦu ÁI TOAN Về nguyên tắc, phần lớn hen tăng BCAT đáp ứng với ICS nên tất cả bệnh nhân hen nặng tăng bạch cầu ái toan đều được điều trị trước hết bằng ICS và thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài gồm LABA và/hoặc tiotropium. Tuy nhiên, 10-20% bệnh nhân hen tăng BCAT không đáp ứng với corticoid. Cơ chế kháng corticoid trong hen tăng BCAT thì phức tạp và chưa rõ (13). Nếu bệnh nhân hen nặng tăng BCAT vẫn chưa được kiểm soát hoặc đợt cấp vẫn xảy ra dù đã điều trị như trên, xem xét thêm kháng thể đơn dòng nhắm vào đáp ứng viêm loại 2 (lưu đồ hình 3) (14). Những thuốc ức chế đặc hiệu của đáp ứng viêm loại 2 (bảng 3) hy vọng có hiệu quả tương tự corticoids trong kiểm soát hen với ít tác dụng phụ hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chúng có hiệu quả hạn chế hơn ICS, nên chúng chủ yếu được dùng như thuốc hỗ trợ ICS hơn là thuốc thay thế (15). Tổng quan 22 Hô hấp số 17/2018 Bảng 3. Các liệu pháp điều trị đích cho hen nặng tăng BCAT Thuốc Đích điều trị Tình trạng đăng ký Omalizumab IgE FDA chấp thuận năm 2002 Mepolizumab IL-5 FDA chấp thuận năm 2015 Reslizumab IL-5 FDA chấp thuận năm 2016 Benralizumab IL-5Rα FDA chấp thuận năm 2017 Dupilumab IL-4Rα Nghiên cứu pha III Tralokinumab IL-13 Nghiên cứu pha III Lebrikizumab IL-13 Nghiên cứu pha III Omalizumab trong hen nặng tăng BCAT: Chỉ định của Omalizumab: điều trị cộng thêm cho người ≥ 6 tuổi; Hen chưa kiểm soát với ICS liều cao và LABA, cơ địa dị ứng (được xác định bằng test lẩy da dương tính), FEV1 <80%, có ít nhất 2 đợt cấp trong năm qua, IgE toàn phần/máu: 30- 700 IU/ml. Liều dùng của Omalizumab tùy thuộc vào cân nặng và nồng độ IgE toàn phần/máu và được tiêm dưới da mỗi 2-4 tuần. Omalizumab tương đối an toàn, tác dụng phụ thường gặp nhất là phản ứng dị ứng với tần suất 0,1-0,2%. Khi sử dụng omalizumab, bác sĩ nên đánh giá hiệu quả điều trị của thuốc sau 4 tháng bằng cách dựa vào triệu chứng lâm sàng và tần suất đợt cấp hen. Nếu không đáp ứng nghĩa là thuốc không hiệu quả và không nên tiếp tục dùng (16). Một nghiên cứu gộp cho thấy, trong số các bệnh nhân hen nặng đang được điều trị bằng ICS/LABA, Omalizumab giảm 43% số đợt cấp so với giả dược khi dùng như điều trị cộng thêm ở người lớn và trẻ em với tỉ số nguy cơ RR=0,57 (KTC 95% từ 0,48 đến 0,66) (17). Các yếu tố tiên đoán bệnh nhân có đáp ứng với Omalizumab gồm có: FeNO tăng cao, bạch cầu ái toan trong máu tăng cao và periostin trong máu tăng cao (18). Đáp ứng viêm loại 2 dai dẳng dù đang dùng ICS liều cao (BCAT trong máu hoặc trong đàm tăng cao, FeNO tăng cao hoặc kết hợp tất cả dấu ấn Xem xét và điều trị yếu tố góp phần Kiểm tra kỹ thuật sử dụng bình hít Kiểm tra tuân thủ điều trị Điều trị bệnh đồng mắc liên quan đáp ứng viêm loại 2: • Viêm mũi xoang dị ứng: điều trị mạnh hơn • Bệnh hô hấp khởi phát bởi Aspirin: dùng montelukast, xem xét giải mẫn cảm • Bệnh nấm Aspergillus phế quản phổi dị ứng: ICS liều cao, xem xét thuốc kháng nấm Đáp ứng viêm loại 2 dai dẳng + có đợt cấp hen năm trước Một đợt cấp + BCAT/máu cao +FeNO cao + đúng chỉ định cho omalizumab → thêm omalizumab ≥ 2 đợt cấp • BCAT/máu cao +FeNO cao + đúng chỉ định cho omalizumab → thêm omalizumab hoặc kháng IL-5 • BCAT/máu cao +FeNO thấp → thêm kháng IL-5 Đáp ứng viêm loại 2 dai dẳng + không đợt cấp hen năm trước Xem xét điều trị khác phù hợp cho đáp ứng viêm loại 2 • ICS liều cao hơn • Xem xét điều trị cộng thêm không phải kháng thể đơn dòng nếu bệnh nhân chưa dùng: tiotropium, macrolide, montelukast, theophylline, corticoid uống Hình 3. Lưu đồ tiếp cận điều trị hen nặng tăng bạch cầu ái toan Tổng quan 23 Hô hấp số 17/2018 Thuốc kháng IL- 5 hoặc thụ thể IL-5: Hình 4 cho thấy cơ chế hoạt động của thuốc kháng IL-5 hoặc kháng thụ thể IL-5 trong hen tăng BCAT (19). Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả của Mepolizumab sau 32 tuần ở những bệnh nhân hen chưa kiểm soát. Trong số những bệnh nhân hen từ 12-82 tuổi, có ít nhất 2 đợt cấp trong năm qua dù đang dùng ICS liều cao và có BCAT trong máu ≥ 300/mL, khi so sánh với giả dược, Mepolizumab với liều 75 mg tiêm mạch mỗi 4 tuần lễ giảm 53% số đợt cấp hen (RR 0,47; KTC 95% từ 0,28 đến 0,60), Mepolizumab với liều 100 mg tiêm tiêm dưới da mỗi 4 tuần lễ giảm 47% số đợt cấp hen (RR 0,53; KTC 95% từ 0,36 đến 0,65) (20). Một nghiên cứu khác đánh giá hiệu quả của Reslizumab sau 12 tháng ở bệnh nhân hen chưa kiểm soát. Trong số những bệnh nhân hen từ 12- 75 tuổi với BCAT trong máu ≥400/mL và có ít nhất một đợt cấp trong năm qua dù đang dùng ICS liều trung bình trở lên. So với giả dược, Reslizumab làm giảm 54% số đợt cấp (RR 0,46; KTC 95% từ 0,37 đến 0,58) (21). Một nghiên cứu khác đánh giá hiệu quả của Benralizumab ở bệnh nhân hen từ 12-75 tuổi, đang dùng ICS liều cao và LABA, có ít nhất 2 đợt cấp trong năm qua và FEV1 < 80%. Trong số những bệnh nhân có bạch cầu ái toan máu từ 300/ mL trở lên, khi so với giả dược, Benralizumab thêm vào điều trị hiện tại đã làm giảm đáng kể số đợt cấp: liều 30 mg mỗi 4 tuần giảm 45%, liều 30 mg mỗi 8 tuần giảm 51% (22). Hình 4. Cơ chế tác động của thuốc kháng IL- 5 hoặc thụ thể IL-5 ở hen nặng tăng BCAT (Nguồn: Varricchi G et al. Curr Opin Allergy Clin Immunol. 2016;16:186-200) Tổng quan 24 Hô hấp số 17/2018 1. Global Initiative for Asthma (GINA). Global strategy for asthma management and prevention (updated 2015). Available at: Accessed: 13 April 2015 2. Chung KF. Asthma phenotyping: a necessity for improved therapeutic precision and new targeted therapies. J Intern Med 2016;279:192-204 3. Chung KF, Wenzel SE, Brozek JL, et al. International ERS/ ATS guidelines on definition, evaluation and treatment of severe asthma. Eur Respir J 2014;43:343-373 4. Schleich F, Brusselle G, Louis R, et al. Heterogeneity of phenotypes in severe asthmatics. The Belgian Severe Asthma Registry (BSAR). Respir Med 2014;108:1723-1732 5. Westerhof GA, Korevaar DA, Amelink M, et al. Biomarkers to identify sputum eosinophilia in different adult asthma phenotypes. Eur Respir J 2015;46:688-696 6. Kay AB, Phipps S, Robinson DS. A role for eosinophils in airway remodelling in asthma. Trends Immunol 2004;25:477-482 7. Hilvering B, Pavord ID. What goes up must come down: biomarkers and novel biologicals in severe asthma. Clin Exp Allergy 2015;45:1162-1169 8. Parulekar AD, Diamant Z, Hanania NA. Role of T2 inflammation biomarkers in severe asthma. Curr Opin Pulm Med 2016;22:59-68 9. Trevor JL, Deshane JS. Refractory asthma: mechanisms, targets, and therapy. Allergy 2014;69:817-827 10. Fowler SJ, Tavernier G, Niven R. High blood eosinophil counts predict sputum eosinophilia in patients with severe asthma. J Allergy Clin Immunol 2015;135:822-824 e822 11.. Korevaar DA, Westerhof GA, Wang J, et al. Diagnostic accuracy of minimally invasive markers for detection of airway eosinophilia in asthma: a systematic review and meta-analysis. Lancet Respir Med 2015;3:290-300 12. Jia G, Erickson RW, Choy DF, et al. Periostin is a systemic biomarker of eosinophilic airway inflammation in asthmatic patients. J Allergy Clin Immunol 2012;130:647-654 e610 13. Mukherjee M, Svenningsen S, Nair P. Glucocortiosteroid subsensitivity and asthma severity. Curr Opin Pulm Med 2017;23:78-88 14. Israel E, Reddel HK. Severe and Difficult-to-Treat Asthma in Adults. N Engl J Med 2017;377:965-976 15. Fajt ML, Wenzel SE. Asthma phenotypes and the use of biologic medications in asthma and allergic disease: the nxt steps toward personalized care. J Allergy Clin Immunol 2015;135:299-310; quiz 311 16. Al Said A, Cushen B, Costello RW. Targeting patients with asthma for omalizumab therapy: choosing the right patient to get the best value for money. Ther Adv Chronic Dis 2017;8:31-45 17. Rodrigo GJ, Neffen H, Castro-Rodriguez JA. Efficacy and safety of subcutaneous omalizumab vs placebo as add-on therapy to corticosteroids for children and adults with asthma: a systematic review. Chest 2011;139:28- 35 18. Hanania NA, Wenzel S, Rosen K, et al. Exploring the effects of omalizumab in allergic asthma: an analysis of biomarkers in the EXTRA study. Am J Respir Crit Care Med 2013;187:804-811 19. Varricchi G, Bagnasco D, Borriello F, et al. Interleukin-5 pathway inhibition in the treatment of eosinophilic respiratory disorders: evidence and unmet needs. Curr Opin Allergy Clin Immunol 2016;16:186-200 20. Ortega HG, Liu MC, Pavord ID, et al. Mepolizumab treatment in patients with severe eosinophilic asthma. N Engl J Med 2014;371:1198-1207 21. Castro M, Zangrilli J, Wechsler ME, et al. Reslizumab for inadequately controlled asthma with elevated blood eosinophil counts: results from two multicentre, parallel, double-blind, randomised, placebo-controlled, phase 3 trials. Lancet Respir Med 2015;3:355-366 22. Bleecker ER, FitzGerald JM, Chanez P, et al. Efficacy and safety of benralizumab for patients with severe asthma uncontrolled with high-dosage inhaled corticosteroids and long-acting beta2-agonists (SIROCCO): a randomised, multicentre, placebo-controlled phase 3 trial. Lancet 2016;388:2115-2127 Tài liệu tham khảo
File đính kèm:
chan_doan_va_dieu_tri_hen_nang_tang_bach_cau_ai_toan.pdf

