Chẩn đoán sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): tiếp cận ngay sau đợt cấp

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trên phạm vi toàn cầu COPD là một trong số ít các bệnh lý có tỷ lệ tử vong đang tăng (1). Trong COPD, sự suy giảm thể chất từ từ khiến cho các biện pháp chẩn đoán sớm và điều trị hỗ trợ dường như không được đặt ra một cách tích cực. gần 50% bệnh nhân xuất viện vì đợt cấp COPD sẽ tử vong trong 2 năm (2). Những dấu hiệu như mức độ nặng của bệnh, tình trạng dinh dưỡng kém, bệnh tim đồng mắc, trầm cảm, giảm chất lượng sống, tuổi cao đã cho thấy có kết hợp với tiên lượng xấu (3,4). Vấn đề phát hiện sớm, chẩn đoán xác định, thực hiện các biện pháp điều trị dự phòng và điều trị sớm là giải pháp chìa khóa để giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong

pdf 9 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Chẩn đoán sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): tiếp cận ngay sau đợt cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): tiếp cận ngay sau đợt cấp

Chẩn đoán sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): tiếp cận ngay sau đợt cấp
 Tổng quan
24
Hô hấp số 13/2017
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên phạm vi toàn cầu COPD là một trong 
số ít các bệnh lý có tỷ lệ tử vong đang tăng 
(1). Trong COPD, sự suy giảm thể chất từ từ 
khiến cho các biện pháp chẩn đoán sớm và 
điều trị hỗ trợ dường như không được đặt ra 
một cách tích cực. gần 50% bệnh nhân xuất 
viện vì đợt cấp COPD sẽ tử vong trong 2 năm 
(2). Những dấu hiệu như mức độ nặng của 
bệnh, tình trạng dinh dưỡng kém, bệnh tim 
đồng mắc, trầm cảm, giảm chất lượng sống, 
tuổi cao đã cho thấy có kết hợp với tiên lượng 
xấu (3,4). Vấn đề phát hiện sớm, chẩn đoán 
xác định, thực hiện các biện pháp điều trị dự 
phòng và điều trị sớm là giải pháp chìa khóa 
để giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong.
Các nghiên cứu cho thấy chẩn đoán 
COPD trong thực hành hàng ngày (không 
phải từ các nghiên cứu điều tra dịch tễ) thông 
thường là đã ở giai đoạn nặng và rất nặng 
(5-7). Dữ liệu từ Third National Health and 
Nutrition Examination Study (NHANES III)
(5) cho thấy 63% bệnh nhân có giảm chức năng 
hô hấp nhưng không được chẩn đoán nguyên 
nhân. Nhiều trường hợp chỉ được chẩn đoán 
COPD khi đến khám vì đợt cấp (8).
Mặc dù đánh giá khả năng thông khí phổi 
(spirometry) là tiêu chuẩn xác định COPD 
nhưng thực hiện thử nghiệm (test) này vì 
nhiều lý do không phải là cách để tầm soát 
bệnh (case-finding) nên cũng không thể áp 
dụng thường quy trong điều kiện thực hành ở 
tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu. Trong khi 
đó, một thực tế quan trọng là hầu hết bệnh 
nhân COPD lại có nhu cầu cần được chẩn 
đoán và chăm sóc ở y tế tuyến chăm sóc ban 
đầu. Vậy đâu là giải pháp khả thi nhất với tiêu 
chí phát hiện và chẩn đoán sớm COPD. Rất 
nhiều nghiên cứu đã đi theo hướng đánh giá 
phương pháp tầm soát lâm sàng và xác định 
COPD bằng spirometry. Phương pháp tầm 
soát lâm sàng cần đơn giản, dễ áp dụng và 
có hiệu quả xác định cao (9). Hiện nay ở Việt 
Nam, trong vấn đề chẩn đoán sớm, chúng ta 
vẫn còn những khoảng trống (ai?, ở đâu?, 
bằng cách nào?) rất cần được xác định.
CHẨN ĐOÁN COPD Ở TUYẾN CHĂM 
SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU
giống như chẩn đoán hen, chẩn đoán COPD 
dường như được xem là công việc của bác 
sỹ chuyên khoa (10) hơn là của các thầy thuốc 
chăm sóc sức khỏe ban đầu, của bác sỹ đa 
khoa. Ở tuyến y tế ban đầu (bác sỹ đa khoa, 
bác sỹ gia đình) spirometry lại ít khi được 
thực hiện (11). Trong khi kết quả đo từ các bác 
sỹ đa khoa thường có lỗi và có khuynh hướng 
đánh giá dưới mức mức độ giảm chức năng 
hô hấp (12). Nhìn từ một góc độ khác, trên 
những bệnh nhân đã có chẩn đoán COPD và 
điều trị, trong một nghiên cứu ở cộng đồng 
CHẨN ĐOÁN SỚM BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH (COPD): 
TIếP CậN NGAy SAU ĐỢT CẤP
TS.BS Nguyễn Văn Thành 
PCT Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam
E-mail: [email protected]
 Tổng quan
25
Hô hấp số 13/2017
năm 2007 ở Bỉ (13), chỉ có khoảng 1/3 số bệnh 
nhân được test spirometry, trong khi các bác 
sỹ cho rằng chẩn đoán COPD như vậy là 
không chắc chắn trên một nửa số bệnh nhân. 
Khi phân tích nguyên nhân khiến cho thực 
hành COPD không được như các guideline 
khuyến cáo cần phải đề cập tới 2 khía cạnh: 
1) Trở ngại thực tế khi triển khai spirometry 
trong thực hành thường quy và 2) giá trị của 
chẩn đoán COPD không spirometry. Trong 
một nghiên cứu, các bác sỹ đa khoa cho rằng 
việc thực hiện spirometry có những trở ngại 
như sau: Thiếu khả năng duy trì chất lượng 
hoạt động tốt trang thiết bị, thiếu kiến thức 
trong việc thực hiện đo, bệnh nhân không 
sẵn sàng thực hiện, tăng chi phí khám và 
quản lý, tăng thời gian khám, không đủ tự 
tin phân tích kết quả (14). Từ đó thái độ ứng 
xử với thực hành trong COPD như sau: Miễn 
cưỡng thực hiện một chẩn đoán chính thức, 
cho rằng thuật ngữ “khí phế thũng” bệnh 
nhân không thích, nghĩ rằng COPD không 
phải là từ dễ hiểu khi giải thích cho bệnh 
nhân, không quan tâm tới sự khác biệt về 
spirometry giữa hen và COPD, lo ngại rằng 
kết quả sprirometry bình thường sẽ không 
khuyến khích được bỏ thuốc lá, xem COPD 
là trạng thái bệnh mạn tính cũng như nhiều 
bệnh khác và thường không phải là quan 
trọng nhất, chỉ định thuốc dựa trên đáp ứng 
lâm sàng, không cho rằng theo dõi spirometry 
là hữu ích cho bệnh nhân (14). Cũng không 
thể nói những lý giải như trên là hoàn toàn 
vô lý. Như vậy, nếu không có quy trình tiếp 
cận chẩn đoán một cách rõ ràng và hệ thống, 
việc chẩn đoán quá mức hay dưới mức là 
hoàn toàn có thể xảy ra. Dự án PLATINO 
thực hiện ở các nước Mỹ La-tinh (năm 2005) 
phân tích trên 578 bệnh nhân được xác định 
là COPD trong đó 28,3% bệnh nhân COPD 
chẩn đoán trước đó không đúng và 15,8% 
bệnh nhân COPD không được chẩn đoán 
trước đó. Chỉ có khoảng một nửa (52,3%) số 
bệnh nhân được chẩn đoán COPD trước đó 
là đúng (15) (hình 1). Ở Việt Nam, chúng ta 
cũng không có cơ sở để nói rằng thực trạng 
chẩn đoán, quản lý điều trị COPD ở cộng 
đồng, nhất là ở y tế tuyến chăm sóc ban đầu, 
có thể tốt hơn. Chúng ta còn thiếu dữ liệu 
đánh giá thực trạng chẩn đoán COPD ở cộng 
đồng. Theo NV Nhung (năm 2011): “Chỉ có 
một số ít bệnh nhân được quản lý thích hợp 
và điều trị hiệu quả” mà nguyên nhân được 
cho là do có những bất cập của hệ thống 
y tế hiện nay trong đó có vai trò của Bảo 
hiểm y tế và những vấn đề giống như đã ghi 
nhận của các nước khác (như hiểu biết của 
người dân về bệnh, kiến thức và năng lực 
chuyên môn của cán bộ y tế, nhất là tuyến y 
tế cơ sở) (16). Một thực tế đáng ngại là ngay 
cả khi bệnh nhân vào đợt cấp cần nhập viện 
điều trị, khi xuất viện, thông thường bệnh 
nhân không có một kế hoạch đặt trong một 
hệ thống theo dõi, chẩn đoán và có các biện 
pháp điều trị thích hợp (16).
Hình 1. Tỷ lệ bệnh nhân có spirometry và đặc điểm 
chẩn đoán trước nghiên cứu PLATINO (*p <0.0001 so 
với chẩn đoán đúng, †p <0.001 so với chẩn đoán đúng).
BỆNH HỌC COPD VÀ TRIỆU CHỨNg
Bệnh học nền tảng COPD là viêm mạn tính, 
rối loạn chức năng bảo vệ đặc hiệu và không 
đặc hiệu dẫn đến phá hủy cấu trúc và suy giảm 
chức năng sinh lý phổi. Tình trạng bệnh diễn 
biến chậm, tăng dần nên triệu chứng thường 
 Tổng quan
26
Hô hấp số 13/2017
được xem là bình thường, không khiến bệnh 
nhân quan tâm và đi khám bệnh cho đến khi 
có đợt cấp, với các triệu chứng nặng hơn. Tình 
trạng viêm tạo nên triệu chứng rất thay đổi, 
không giống nhau giữa người này với người 
khác (heterogeneous). Trên nền bệnh học như 
vậy, tính đặc hiệu của triệu chứng là thấp, kể 
cả triệu chứng khó thở gắng sức và khò khè 
(17,18,19) hay kết hợp nhiều triệu chứng hô hấp 
(17). Nhiều nghiên cứu đã đi theo hướng tầm 
soát những bệnh nhân có nguy cơ cao (case-
finding) để từ đó xác định chẩn đoán bằng 
spirometry. Các yếu tố xác định nhóm người 
cần tầm soát bao gồm: tuổi (thường từ 35-40 
trở lên), hút thuốc hay có nguy cơ phơi nhiễm 
bụi nghề nghiệp, có ít nhất một trong các triệu 
chứng hô hấp kéo dài (ho, khạc đàm, khó thở) 
và thường đi khám bệnh vì nhiễm trùng hô 
hấp (20,21). Năm 2005, D.B. Price và cs (22) trên 
cơ sở một khảo sát ở cộng đồng trên những 
người hút thuốc lá chưa từng được chẩn đoán 
bệnh hô hấp, chưa từng sử dụng thuốc hô hấp 
đã xác định có 8 yếu tố có giá trị hồi quy đa 
biến có ý nghĩa trong tầm soát COPD là: Tuổi, 
số thuốc lá đã hút, ho, khạc đàm, ho đàm về 
sáng, khò khè, BMI và tiền sử dị ứng. Theo 
các các tác giả giá trị tầm soát (diện tích dưới 
đường cong, AUC) của 8 yếu tố này 0,81 với 
độ nhậy là 0,82 và độ đặc hiệu là 0,72 (hình 2). 
Cũng trong một khảo sát ở cộng đồng, NV 
Thành và CS (năm 2012) (23) nhận định cùng 
với các yếu tố lâm sàng như trên, nếu có thêm 
các yếu tố đã từng nhập viện cấp cứu vì bệnh 
phổi, đã sử dụng thuốc hô hấp (dãn phế quản, 
corticosteroid) thì AUC rất cao: 0,95. Trong 
nghiên cứu này các tác giả cũng đề xuất việc 
sử dụng dụng cụ đo lưu lượng đỉnh (PEF). 
Nếu giá trị PEF giảm <70% giá trị ước tính 
kết hợp triệu chứng lâm sàng AUC lên tới 
0,99 (bảng 1). 
Hình 2. Đường cong ROC đối với bảng câu hỏi cuối 
cùng (n = 246). AUC=0.8158 (theo DB. Price 2005) (22)
Bảng 1. Bảng điểm chẩn đoán COPD: CT- COPD-S (NV Thành và cs 2012) (23)
Câu hỏi Trả lời Điểm 
1. Từ 60 tuổi trở lên
Có
Không
69
0
2. Hút thuốc lá (hoặc đã ngưng hút) từ 15 gói/năm trở lên 
Có
Không
15
0
3. Khạc đàm (cảm giác đàm từ trong phổi) hàng ngày 
Có
Không
13
0
4. Mệt hơn khi gắng sức so với người cùng tuổi
Có
Không
31
0
5. Đã được sử dụng thuốc dãn phế quản
Có
Không
23
0
 Tổng quan
27
Hô hấp số 13/2017
Những nghiên cứu đầu tiên về COPD 
vào những năm thập niên 50-60 thế kỷ 20 
đã ghi nhận các biến đổi bệnh học, nhất là 
những thay đổi có khuynh hướng mạn tính 
trên đường thở và phổi ở người hút thuốc 
lá. Một kết luận quan trọng là đặc điểm tổn 
thương trên đường thở suất hiện sớm và toàn 
bộ, trong khi khí phế thũng xuất hiện muộn 
hơn, không phải trường hợp nào cũng có 
và đặc tính khí phế thũng cũng khác so với 
những trường hợp khí phế thũng do thiếu 
hụt anpha
1
-antitrypsin (24-26). Sau đó, khoảng 
thập niên 60-70, những nghiên cứu sinh lý 
chức năng hô hấp của người hút thuốc lá đã 
xác định tình trạng thông khí tắc nghẽn và 
vị trí tăng trở kháng đường thở đưa đến triệu 
chứng hô hấp. Cũng vào thời điểm đó, COPD 
được định nghĩa là tình trạng tắc nghẽn với 
hình ảnh chức năng đặc biệt là giảm FEV
1
và giảm tỷ lệ FEV
1
/FVC (27,28). Macklem PT 
và cs (năm 2010) (29) cho rằng những thay đổi 
sớm nhất trong COPD là giảm FVC do hiện 
tượng khí cạm hơn là giảm FEV
1
. Hiện tượng 
này gây ra do thu hẹp cố định đường thở nhỏ 
(<2mm đường kính) do dầy thành, xơ hóa, bít 
tắc. Ngược lại với hình ảnh tắc nghẽn trong 
hen, chủ yếu ở đường thở lớn hơn và phân bố 
không đồng đều, ngoại trừ hen ở người lớn 
tuổi và hen hút thuốc lá có biểu hiện tương 
tự COPD.
Câu hỏi Trả lời Điểm 
6. Đã được sử dụng thuốc kháng viêm steroid cho bệnh phổi
Có
Không
16
0
7. Đã đi khám bệnh cấp cứu vì triệu chứng bệnh phổi
Có
Không
25
0
8. Đã đi nhập viện cấp cứu vì triệu chứng bệnh phổi
Có
Không
28
0
9. Nói ngắn hơi
Có
Không
15
0
10. Thở co kéo cơ hô hấp phụ
Có
Không
26
0
11. Nghe phổi thông khí giảm
Có
Không
37
0
12. PEF <70% giá trị lý thuyết 
Có
Không
72
0
13. Xquang ngực thường quy có hình ảnh khí phế thũng 
Có
Không
88
0
Chẩn đoán COPD khi:
- Từ 1-11: 114 điểm 
- Từ 1- 11 + 12 hoặc 13: 210 điểm
PEF: Peak expiratory flow
 Tổng quan
28
Hô hấp số 13/2017
PHÁT HIỆN VÀ CHẨN ĐOÁN SỚM
Spirometry được chấp nhận như là test chẩn 
đoán nhằm xác định tình trạng tắc nghẽn và 
phân loại mức độ tắc nghẽn. Bình thường 
FEV
1
 trên người khỏe mạnh không hút thuốc 
lá cũng giảm theo tuổi, khoảng 30mL/năm 
với giới hạn trên là 50mL/năm (30). Do vấn 
đề này mà có những tranh luận về việc sử 
dụng điểm cắt cố định đơn (single fixed cut-
off) để chẩn đoán tắc nghẽn trong COPD vì 
có thể giá trị bình thường thấp (LLN-lower 
limit of normal) làm tăng chẩn đoán COPD. 
Do vậy đã có ý kiến cho rằng sử dụng giá trị 
LLN FEV
1
/FVC sẽ tốt hơn trong chẩn đoán 
(31) trong khi các guideline vẫn khuyến cáo 
sử dụng giá trị cố định đơn. Mặc dù việc xác 
định tình trạng thông khí tắc nghẽn là rõ ràng, 
cụ thể nhưng, như đã trình bày ở phần trên, 
tình trạng không chẩn đoán COPD ở cộng 
đồng là phổ biến. Trong một khảo sát cộng 
đồng ở Australia trên những người từ 40 tuổi 
trở lên, chỉ có 5,2% những người được xác 
định là COPD đã có chẩn đoán trước đó (32). 
Cũng ở Australia, trong số những người có 
chẩn đoán COPD, 31% và 42% là tỷ lệ những 
người không được phân loại COPD trong 2 
nghiên cứu năm 2011 (33,34). Hơn nữa, có máy 
đo chức năng hô hấp (spirometer) tại cơ sở 
khám cũng không làm cải thiện hiệu quả chẩn 
đoán (34). 
Ý nghĩa của chữ “sớm” trong phát hiện 
và chẩn đoán sớm là ở chỗ chẩn đoán được 
COPD ở ngay lần đầu tới y tế khám và/hoặc 
chẩn đoán được COPD ở giai đoạn sớm. Đây 
thông thường là công việc của tuyến y tế ban 
đầu. Ở đây, việc kết hợp chẩn đoán bằng 
spirometry trên những người có nguy cơ cao 
là chiến lược hiệu quả (35). Spirometry nên 
được tập trung trên những người trung niên 
hút thuốc lá. Bằng cách như vậy, một tỷ lệ rất 
đáng kể COPD được chẩn đoán thêm (36,37). 
Biện pháp làm tăng tính thực hành là sử dụng 
bảng câu hỏi (questionnaire) tầm soát trước 
trên nhóm có nguy cơ bằng các câu hỏi (thí dụ 
bảng câu hỏi IPAg, Hội Hô hấp và Chăm sóc 
ban đầu, Anh) (bảng 2) (38) hay các bảng yếu 
tố nguy cơ của DB. Price và cs như đã trình 
bày ở trên. Trong một nghiên cứu ở Australia, 
các tác giả vừa sử dụng bảng câu hỏi IPAg 
vừa kết hợp sử dụng cụ thổi cầm tay để đo 
giá trị FEV
1
/FEV
6
 (PiKO-6 spirometer) cho 
thấy có hiệu quả chẩn đoán cao với AUC là 
0,85. Với điểm cắt giá trị FEV
1
/FEV
6 
75%, 
độ nhậy chẩn đoán COPD của phương pháp 
này là 81% và độ đặc hiệu là 71% (39).
Như vậy bệnh nhân không được quản 
lý điều trị như một trường hợp COPD sẽ ở 
trong 2 trạng thái: 1) Có bệnh nhưng không 
biết bệnh nên không đi khám mặc dù có hay 
không triệu chứng, kể cả đợt cấp và 2) Có 
đi khám vì triệu chứng hô hấp hoặc đợt cấp 
nhưng không được chẩn đoán hoặc được 
chẩn đoán nhưng không được quản lý điều 
trị. Trong khi lợi ích thực từ việc tầm soát 
(screening) COPD ở cộng đồng hiện nay vẫn 
còn bị hoài nghi (40,41) thì việc xác định một 
trường hợp COPD bằng chẩn đoán lâm sàng 
để có hướng tác động điều trị sớm, nhất là tác 
động không dùng thuốc, là rất cần thiết. Với 
phân tích như vậy, thái độ phù hợp nhất là 
tiếp cận COPD từ những đợt cấp. Một nghiên 
cứu đã khảo sát thực hành ở y tế ban đầu trên 
một số lượng lớn bệnh nhân ho cấp tính tới 
khám, nếu chỉ xác định bằng 2 yếu tố: >40 
tuổi và có hút thuốc lá thì đã có 79,8% bệnh 
nhân khai đã có triệu chứng hô hấp mạn tính. 
Nhóm có triệu chứng hô hấp mạn tính có tuổi 
đời cao hơn, tỷ lệ phơi nhiễm nhiều hơn và 
chất lượng sống thấp hơn. Đặc biệt là ở nhóm 
bệnh nhân có triệu chứng hô hấp mạn tính 
số lần đã đi khám trong 12 tháng trước nhiều 
hơn và đã được điều trị kháng sinh nhiều hơn 
 Tổng quan
29
Hô hấp số 13/2017
(42). Một nghiên cứu khác phân tích bệnh nhân 
đợt cấp COPD sau khi xuất viện cho thấy tỷ 
lệ tử vong trong 90 ngày là 5%. Cũng trong 
90 ngày, có 37% bệnh nhân tái nhập viện và 
trong số đó tử vong là 6,5%. Nếu gộp chung, 
cả tử vong trong và ngoài bệnh viện sau 90 
ngày là 11,6% (43). Tỷ lệ tái nhập viện và tử 
vong từ nghiên cứu này cho thấy một hình 
ảnh tiên lượng rất xấu của bệnh nhân đợt cấp, 
nhất là đợt cấp nhập viện. Những phân tích 
như trên là cơ sở để nhấn mạnh việc cần thiết 
phải chẩn đoán lâm sàng COPD ngay khi tiếp 
cận lần đầu trên bệnh nhân có những yếu tố 
nguy cơ cao COPD. Bằng một lộ trình theo 
dõi và xử trí hợp lý sẽ không chỉ làm tăng 
khả năng chẩn đoán COPD mà còn làm giảm 
gánh nặng bệnh tật và tử vong.
Bảng 2. Bảng câu hỏi tầm soát COPD của IPAg (38)
Câu hỏi Trả lời Điểm 
Bao nhiêu tuổi ? 40-49
50-59
60-69
≥ 70
0
4
8
10
Lượng thuốc lá đang 
(hoặc đã) hút (gói-năm)
0-14
15-24
25-49
≥ 50
0
2
3
7
BMI <25.5
25.4-29.7
>29.7
5
1
0
Có bị ho khi thay đổi 
thời tiết không
Có
Không
3
0
Có khạc đàm ngay cả 
khi không bị cảm
Có
Không
3
0
Có khạc đàm vào buổi 
sáng khi thức dậy không 
Có
Không
3
0
Câu hỏi Trả lời Điểm 
Có bị khò khè không Không
Thỉnh thoảng 
hoặc thường 
xuyên
0
4
Có bao giờ bị dị ứng 
không 
Có
Không
3
0
Tổng số ≥ 17 điểm là có 
nguy cơ cao COPD
ĐỀ XUẤT THỰC HÀNH
Như vậy với triệu hô hấp cấp tính đi khám 
hoặc nhập viện cấp cứu ở những bệnh nhân 
có nguy cơ cao COPD, thầy thuốc cần sử 
dụng bảng câu hỏi hoặc tối thiểu là xác định 
các yếu tố nguy cơ, khám và thực hiện các 
xét nghiệm có sẵn để chẩn đoán COPD. Sẽ có 
2 tình huống: 1) Ở các phòng khám chuyên 
khoa hoặc nhập viện điều trị và 2) Ở các 
phòng khám đa khoa và ngoại trú. 
Ở các phòng khám chuyên khoa, hoặc 
bệnh viện, bằng khám và xét nghiệm nếu 
không có một chẩn đoán nào cần phân biệt 
(nhất là suy tim, lao phổi, hen) thì bệnh nhân 
cần được chẩn đoán lâm sàng COPD khi: Từ 
40 tuổi trở lên, hút thuốc lá, có triệu chứng hô 
hấp mạn tính. Các hướng dẫn điều trị không 
sử dụng thuốc (như dinh dưỡng, vận động, 
vaccin, tránh phơi nhiễm) cần thực hiện ngay 
khi có chẩn đoán lâm sàng. Ngay sau trị liệu 
đợt cấp (5-7 ngày điều trị) hay khi xuất viện, 
cần thực hiện spirometry để xác định chẩn 
đoán COPD này. Nếu spirometry có tình trạng 
tắc nghẽn cố định (FEV
1
/FVC <70% sau 
thuốc dãn phế quản), cần có kế hoạch quản lý 
và điều trị COPD duy trì trong 12 tháng tiếp 
theo. Trong trường hợp như vậy việc quản lý 
và điều trị cần theo hướng bệnh nhân COPD 
có nhiều đợt cấp như gOLD đề xuất (46). 
Spirometry cần thực hiện lại sau mỗi 3 tháng 
 Tổng quan
30
Hô hấp số 13/2017
quản lý và điều trị. Nếu bệnh nhân vẫn tiếp 
tục hút thuốc lá và/hoặc phơi nhiễm với khói 
bụi thì dù giá trị FEV
1
/FVC ≥70% cũng nên 
theo dõi đến hết 12 tháng mới xác định nên 
hay không nên tiếp tục điều trị duy trì COPD 
vì nhiều trường hợp tình trạng tắc nghẽn có 
thể đạt điểm cắt sau nhiều lần spirometry nếu 
bệnh nhân tiếp tục hút thuốc lá và/hoặc phơi 
nhiễm (47). Hình 3 thể hiện sơ đồ quản lý và 
điều trị để phát hiện và chẩn đoán sớm COPD 
ngay sau đợt cấp ở các phòng khám chuyên 
khoa hoặc bệnh viện cho những bệnh nhân 
chưa được chẩn đoán COPD trước đó.
Đến khám vi triệu chứng hô hấp cấp tính 
> 40 tuổi, hút thuốc lá
Spirometry ngay sau 
ngưng điều trị đợt cấp
FEV1/FVC < 70%
Quản lý và điều trị 
COPD nhiều đợt cấp
Spirometry kiểm tra sau mỗi 3 tháng
Xác định có hay không COPD
Quản lý điều trị tiếp theo phenotype ít hay nhiều đợt cấp
FEV1/FVC ≥ 70%
Hình 3. Sơ đồ tiếp cận phát hiện và chẩn đoán sớm 
COPD từ đợt cấp ở các cơ sở y tế chuyên khoa hoặc 
nhập viện cấp cứu
Đối với bệnh nhân đến khám ngoại trú vì 
triệu chứng hô hấp tại các cơ sở y tế không 
chuyên khoa, bằng khám và ít nhất với hình 
ảnh Xquang ngực nếu không có một chẩn 
đoán nào cần phân biệt (nhất là suy tim, lao 
phổi, hen) thì bệnh nhân cần được chẩn đoán 
lâm sàng COPD khi: Từ 40 tuổi trở lên, hút 
thuốc lá, có triệu chứng hô hấp mạn tính. Các 
hướng dẫn điều trị không sử dụng thuốc (thí 
dụ như dinh dưỡng, vận động, vaccin, tránh 
phơi nhiễm) cần thực hiện ngay khi có chẩn 
đoán lâm sàng. Ngay sau trị liệu đợt cấp (5-7 
ngày) cần đo lưu lượng đỉnh (PEF) (hoặc 
spirometry nếu có thể) để xác định chẩn đoán 
COPD. Nếu PEF (hoặc spirometry) có tình 
trạng tắc nghẽn (PEF <70% hoặc FEV
1
/FVC 
<70%), cần có kế hoạch quản lý và điều trị 
COPD duy trì trong 12 tháng tiếp theo. Trong 
trường hợp này việc quản lý và điều trị cần 
theo hướng bệnh nhân COPD có nhiều đợt 
cấp như gOLD đề xuất (46) nếu bệnh nhân có ít 
nhất 1 lần đi khám trong 3 tháng trước hoặc 1 
lần phải vào nhập viện điều trị vì triệu chứng 
hô hấp trong 12 tháng trước. Hình 4 thể hiện 
sơ đồ quản lý và điều trị để phát hiện và chẩn 
đoán sớm COPD ngay sau đợt cấp ở các cơ sở 
y tế không chuyên khoa cho những bệnh nhân 
chưa được chẩn đoán COPD trước đó.
Đến khám vì triệu chứng hô hấp cấp tính 
> 40 tuổi, hút thuốc lá
Điều trị đợt cấp và đánh giá 
ngay sau đợt cấp
PEF < 70% (hoặc FEV1/FVC < 70%) PEF ≥ 70% (hoặc FEV1/FVC ≥ 70%)
Có ít nhất 1 lần trong 3 tháng trước đi khám hoặc đã nhập
viện ít nhất 1 lần trong 12 tháng trước vì triệu chứng hô hấp
Quản lý và điều trị 
COPD nhiều đợt cấp
Quản lý và điều trị 
COPD không nhiều đợt cấp
Spirometry kiểm tra sau mỗi 3 tháng
Xác định có hay không COPD
Quản lý điều trị tiếp theo phenotype ít hay nhiều đợt cấp
(+) (-)
Hình 4. Sơ đồ tiếp cận phát hiện và chẩn đoán sớm 
COPD từ đợt cấp đến khám ngoại trú ở các cơ sở y tế 
không chuyên khoa
KẾT LUẬN
Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD đang 
được xem như mới tiếp cận được phần nổi 
của khối băng chìm. Có nhiều nguyên nhân 
mà trong đó vấn đề phát hiện và chẩn đoán 
sớm là một thành tố then chốt. Một kế hoạch 
hành động và theo dõi ngay sau đợt cấp sẽ 
giúp tăng được tỷ lệ chẩn đoán để từ đó tăng 
hiệu quả quản lý và điều trị. Trong khi chờ 
các nghiên cứu đánh giá, cách tiếp cận này 
nên được xem là giải pháp hợp lý, cụ thể và 
có tính thực hành nhất hiện nay.
 Tổng quan
31
Hô hấp số 13/2017
1. Mannino DM, Buist AS. Global burden of COPD: 
risk factors, prevalence, and future trends. Lancet 
2007;370:765-73.
2. Connors AF, Dawson NV, Thomas C, Harrell 
F, Desbiens N,Fulkerson WJ, et al. Outcomes 
following acute exacerbation of chronic obstructive 
lung disease. The SUPPORT investigators. Am J 
Respir Crit Care Med 1996;154:959-67.
3. Connors AF, Dawson NV, Thomas C, Harrell 
F, Desbiens N, Fulkerson WJ, et al. Outcomes 
following acute exacerbation of chronic obstructive 
lung disease. The SUPPORT investigators. Am J 
Respir Crit Care Med 1996;154:959-67.
4. Almagro P, Calbo E, de Echagüen AO, Quintana 
BBS, Heredia JL, Garau J. Mortality after 
hospitalization for COPD. Chest 2002;121;1441
5. Mannino DM, Gagnon RC, Petty TL, Lydick 
E. Obstructive lung disease and low lung function 
in adults in the United States: data from the 
National Health and Nutrition Examination Survey, 
1988-1994. Arch Intern Med. 2000;160(11):1683-
1689. Doi: 
archinte.160.11.1683
6. Hvidsten SC, Storesund L, Wentzel-Larsen 
T, Gulsvik A and Lehmann S. Prevalence and 
predictors of undiagnosed chronic obstructive 
pulmonary disease in a Norwegian adult general 
population. The Clinical Respiratory Journal 2010; 
4: 13–21.
7. Hvidsten SC, Storesund L, Wentzel-Larsen T, Gulsvik 
A and Lehmann S. Prevalence and predictors of 
undiagnosed chronic obstructive pulmonary disease 
in a Norwegian adult general population. The Clinical 
Respiratory Journal 2010; 4: 13–21.
8. Roche N, Gaillat J, Garre M, et al. Acute respiratory 
illness as a trigger for detecting chronic bronchitis 
in adults at risk of COPD: a primary care survey. 
Prim Care Respir J. 2010;19(4):371- 377. Doi: 
9. Han MK, Steenrod AW, Bacci ED, et al for 
the High-Risk-COPD Screening Study Group. 
Identifying patients with undiagnosed COPD in 
primary care settings: Insight from screening 
tools and epidemiologic studies. J COPD F. 
2015; 103-121. Doi: org/10.15326/
jcopdf.2.2.2014.0152
10. MJ Abramson et al. Accuracy of asthma and 
COPD diagnosis in Australian general practice: a 
mixed methods study. Prim Care Respir J 2012; 
21(2): 167-173
11. Matheson MC, Abeysena C, Raven JM, et al. 
How have we been managing chronic obstructive 
pulmonary disease in Australia? Intern Med J 
2006;36(2):92-9.
12. den Otter JJ, de Bruyn-Schmidt MA, Wolters 
MJ, et al. Lung function measurement in general 
practice. General practice measurements 
compared with laboratory measurements during 
the DIMCA trial. Fam Pract 2000; 17(4):314-16. 
13. Buffels J, Degryse J, Liistro G. Diagnostic certainty, 
co-morbidity and medication in a primary care 
population with presumed airway obstruction: the 
DIDASCO2 study. Prim Care Respir J 2009;18(1):34-
40.  10.3132/pcrj.2008.00047
14. Julia AE Walters, Emily Hansen, Peter Mudge 
et al. Barriers to the use of spirometry in general 
practice. Australian Family Physician Vol. 34, No. 
3, March 2005
15. Menezes AM, Perez-Padilla R, Jardim JB, et al. 
Chronic obstructive pulmonary disease in five 
Latin American cities (the PLATINO study): a 
prevalence study. Lancet 2005; 366:1875–1881
16. NV Nhung. Giải pháp cho quản lý hen và bệnh phổi 
tắc nghẽn mạn tính ở Việt Nam. Tạp chí Lao và 
bệnh phổi số 3. 4/2011
17. Nathalie Saad, Maria Sedeno, KatrinaMetz et al. 
Early COPD Diagnosis in Family Medicine Practice: 
How to Implement Spirometry? International 
Journal of Family Medicine Volume 2014, Article 
ID 962901, 
18. Hani A. Jokhdar, Mohammed A. Garout, 
Mohammad M. Alkot et al. Early Detection of 
Chronic Obstructive Pulmonary Disease (COPD) 
in Family Practice. Journal of Family Medicine 
and Health Care 2017; 3(1): 1-5
19. Keiichiro Akamatsu, Toshiyuki Yamagata, Yohei 
Kida et al. Poor Sensitivity of Symptoms in Early 
Detection of COPD. COPD: Journal of Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease, 2008, 5:269–273
20. Ulla Borup Hemmingsen, Margit Stycke, Jens 
Dollerup et al. Guideline-Based Early Detection 
of Chronic Obstructive Pulmonary Disease in 
Eight Danish Municipalities: The TOP-KOM Study 
Hindawi Pulmonary Medicine Volume 2017, 
Article ID 7620397.
21. Janelle M. Guirguis-Blake, Caitlyn A. Senger, 
Elizabeth M. Webber et al. Screening for Chron-
ic Obstructive Pulmonary Disease: A Systematic 
Evidence Review for the U.S. Preventive Services 
Task Force. AHRQ Publication No. 14-05205-EF-1 
April 2016
22. David B. Price, David G. Tinkelman, R.J. Halbert et 
al. Symptom-Based Questionnaire for Identifying 
COPD in Smokers
23. Nguyễn Văn Thành, Cao Thị Mỹ Thúy, Võ Phạm 
Minh Thư và cs. Xây dựng mô hình hệ thống 
Tài liệu tham khảo: 
 Tổng quan
32
Hô hấp số 13/2017
quản lý và điều trị hiệu quả COPD và Hen phế 
quản trong bệnh viện và ở cộng đồng. NXB Y Học 
2012, tr. 57-69
24. Anderson DO, Ferris BG. Role of Tobacco 
Smoking in the Causation of Chronic Respiratory 
Disease. N Engl J Med 1962;267:787-94.
25. Dunnill MS. The classification and quantification 
of emphysema. Proceedings of the Royal Society 
of Medicine 1969;62:1024-7.
26. Flotte TR, Mueller C. Gene therapy for 
alpha-1 antitrypsin deficiency. Hum Mol Genet 
2011;20:R87-92.
27. Macklem PT. The physiology of small airways. Am 
J Respir Crit Care Med 1998;157:S181-3.
28. Macklem PT. A Century of the Mechanics 
of Breathing. Am J Respir Crit Care Med 
2004;170:10-5.
29. Macklem PT. Therapeutic implications of the 
pathophysiology of COPD. Eur Respir J 
2010;35:676-80.
30. Kerstjens HA, Rijcken B, Schouten JP, et al. 
Decline of FEV1 by age and smoking status: facts, 
figures, and fallacies. Thorax 1997;52:820-7.
31. Schermer TR, Quanjer PH. COPD screening in 
primary care: who is sick? Prim Care Respir J 
2007;16:49-53.
32. Toelle BG, Xuan W, Bird TE, et al. Respiratory 
symptoms and illness in older Australians: the 
Burden of Obstructive Lung Disease (BOLD) 
study. Med J Aust 2013;198:144-8.
33. Walters JA, Walters EH, Nelson M, et al. Factors 
associated with misdiagnosis of COPD in primary 
care. Prim Care Respir J 2011;20:396-402.
34. Zwar NA, Marks GB, Hermiz O, et al. Predictors 
of accuracy of diagnosis of chronic obstructive 
pulmonary disease in general practice. Med J 
Aust 2011;195:168-71.
35. David P. Johns, Julia A.E. Walters, E. Haydn 
Walters. Diagnosis and early detection of COPD 
using spirometry. J Thorac Dis 2014;6(11):1557-
1569
36. Van Schayck CP, Loozen JM, Wagena E, et al. 
Detecting patients at a high risk of developing 
chronic obstructive pulmonary disease in general 
practice: cross sectional case finding study. BMJ 
2002;324:1370.
37. Sichletidis L, Spyratos D, Papaioannou M, Chloros 
D, Tsiotsios A, Tsagaraki V, Haidich A. A combination of 
the IPAG questionnaire and PiKo-6® flow meter is 
a valuable screening tool for COPD in the primary 
care setting. Prim Care Respir J 2011;20(2):184-
189
38. Haroon S, Adab P, Griffin C, et al. Case finding for 
chronic obstructive pulmonary disease in primary 
care: a pilot randomised controlled trial. Br J Gen 
Pract 2013;63:e55-62.
39. Frith P, Crockett A, Beilby J, et al. Simplified COPD 
screening: validation of the PiKo-6 in primary 
care. Prim Care Respir J 2011;20:190-8.
40. Guirguis-Blake JM, Senger CA, Webber EM, 
Mularski R, Whitlock EP. Screening for Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease: A Systematic 
Evidence Review for the U.S. Preventive Services 
Task Force. Evidence Synthesis No. 130. AHRQ 
Publication No. 14-05205-EF-1. Rockville, MD: 
Agency for Healthcare Research and Quality; 
2016.
41. Kaplan A, Thomas M. Screening for COPD: 
the gap between logic and evidence. Eur 
Respir Rev 2017; 26: 160113 [https://doi.
org/10.1183/16000617.0113-2016].
42. Prieto Centurion et al.: Confirmatory spirometry 
for adults hospitalized with a diagnosis of 
asthma or chronic obstructive pulmonary disease 
exacerbation. BMC Pulmonary Medicine 2012 
12:73.
43. Pozo-Rodrı´guez F, Lo´pez-Campos JL, A´ lvarez-
Martı´nez CJ, Castro-Acosta A, Agu¨ ero R, et al. 
(2012) Clinical Audit of COPD Patients Requiring 
Hospital Admissions in Spain: AUDIPOC Study. 
PLoS ONE 7(7): e42156. doi:10.1371/journal.
pone.0042156
44. Rea H, Kenealy T, Adair J, Robinson E, Sheridan 
N: Spirometry for patients in hospital and one 
month after admission with an acute exacerbation 
of COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2011, 
6:527–532.
45. Conthe Gutie´rrez P, Garcı´a Alegrı´a J, Pujol Farriols 
R, Alfageme Michavilla I, Artola Mene´ndez S, 
et al (2010) [Consensus for hospital discharge 
reports in medical specialities]. Med Clin (Barc) 
134: 505–510.
46. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease (report 2017).
47. Tjard R Schermer, Bas Robberts, Alan J Crockett 
et al. Should the diagnosis of COPD be based 
on a single spirometry test?. npj Primary Care 
Respiratory Medicine (2016) 26, 16059.

File đính kèm:

  • pdfchan_doan_som_benh_phoi_tac_nghen_man_tinh_copd_tiep_can_nga.pdf