Chẩn đoán hen phế quản trẻ em
Hen phế quản là tình trạng viêm mạn tính của đường hô hấp với sự tham gia của nhiều tế
bào và thành phần tế bào làm tăng tính đáp ứng đường hô hấp gây ra hiện tượng tắc nghẽn,
hạn chế luồng khí thở do co thắt, phù nề, tăng tiết đờm làm xuất hiện các đợt khò khè, khó
thở, nặng ngực và ho tái diễn nhiều lần, thường xảy ra về đêm và sáng sớm có thể hồi phục
tự nhiên hoặc do điều trị. Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng.
Bạn đang xem tài liệu "Chẩn đoán hen phế quản trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán hen phế quản trẻ em
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 85 Hô hấp số 14/2018 1. CƠ SỞ SINH LÝ BỆNH CỦA KHÒ KHÈ Khò khè (wheezing) là tiếng thở phát ra ở thì thở ra và có thể nghe được bằng tai thường hoặc bằng ống nghe. Cần phải phân biệt tiếng thở khò khè với tiếng thở rít và tiếng thở khụt khịt do tắc mũi. Tiếng thở rít chỉ nghe được ở thì thở vào còn tiếng thở khụt khịt nghe được ở cả hai thì thở vào và thở ra. Khò khè này chỉ được xác định sau khi bác sỹ đã hỏi bệnh và thăm khám trẻ kỹ càng chứ không chỉ dựa vào lời mô tả của cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ (1-3). Tiếng thở khò khè phát ra khi có sự chuyển động hỗn loạn của luồng khí do tăng tốc độ qua chỗ hẹp cuả đường hô hấp. Trong các bệnh có hẹp ở đường hô hấp nhỏ như hen hoặc viêm tiểu phế quản đôi khi làm người ta có ấn tượng sai lầm rằng tiếng khò khè này phát ra từ chính chỗ hẹp ở đường hô hấp nhỏ. Điều đó không đúng vì về mặt lý thuyết tốc độ luồng khí đi qua chỗ hẹp này là quá yếu. Trong trường hợp này khò khè được phát ra ở khí và phế quản lớn bị hẹp lại thứ phát do đè ép gián tiếp trong thì thở ra. Điều này là do bệnh nhân phải cố gắng thở để đẩy không khí từ phế nang ra qua chỗ phế quản bị hẹp dẫn đến tăng áp lực trong khoang màng phổi. Chính sự tăng áp lực này lớn hơn áp lực trong lòng khí quản và phế quản lớn do đó làm cho chúng hẹp lại do động lực gây nên tiếng khò khè. Lý thuyết này dựa trên thí nghiệm đo áp lực phổi ở người lớn được thổi phồng lên sau khi tử vong và các bằng chứng về Xquang ở các bệnh nhân có hẹp đường hô hấp nhỏ (4-6). Ở trẻ nhỏ, khí và phế quản lớn thường mềm hơn, sức kháng của các phế quản nhỏ cao hơn nên dễ dẫn đến tăng áp lực trong khoang màng phổi vì vậy trẻ nhỏ dễ bị khò khè hơn so với trẻ lớn khi có các bệnh gây tắc nghẽn ở đường hô hấp nhỏ như hen phế quản, viêm tiểu phế quản cấp, dị vật đường thở, hạch lao chèn ép, vòng nhẫn mạch máu, xơ nang tuỵ, thiếu alpha 1 antitrypsin, mềm sụn phế quản.v.v... 2. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CHẨN ĐOÁN HEN TRẺ EM Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng do các trẻ này không thể đo được chức năng hô hấp. Các xét nghiệm về miễn dịch dị ứng cũng không đặc hiệu trong hen vì có thể dương tính trong nhiều bệnh khác như viêm mũi dị ứng, viêm da cơ địa dị ứng hoặc mày đay.v.v... Khò khè do nhiễm virus: Trước kia nhiều thầy thuốc cho rằng khò khè CHẨN ĐOÁN HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM PGS.TS.BS NGUYỄN TIẾN DŨNG Hen phế quản là tình trạng viêm mạn tính của đường hô hấp với sự tham gia của nhiều tế bào và thành phần tế bào làm tăng tính đáp ứng đường hô hấp gây ra hiện tượng tắc nghẽn, hạn chế luồng khí thở do co thắt, phù nề, tăng tiết đờm làm xuất hiện các đợt khò khè, khó thở, nặng ngực và ho tái diễn nhiều lần, thường xảy ra về đêm và sáng sớm có thể hồi phục tự nhiên hoặc do điều trị. Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng. HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 86 Hô hấp số 14/2018 nhẹ và không thường xuyên thì thường tự khỏi khi trẻ lớn lên và họ thường chẩn đoán là viêm phế quản thể hen hoặc viêm phế quản co thắt từ đó họ điều trị bằng kháng sinh và các thuốc giảm ho hoặc giãn phế quản ngay cả khi trẻ bị khò khè tái phát. Tuy vậy những nghiên cứu gần đây cho thấy mặc dù có một số trẻ khi lớn lên hết khò khè nhưng người ta cũng không dùng thuật ngữ viêm phế quản co thắt nữa (7, 8). Một số trẻ dưới 1 tuổi, chủ yếu là con trai, có khò khè khi bị nhiễm virus đường hô hấp mà không phải do cơ địa dị ứng (atopy) thì các thay đổi về bạch cầu ưa axit và các tế bào viêm khác thường không tương xứng với mức độ khò khè. Một số nghiên cứu cho thấy các trẻ bị viêm tiểu phế quản do nhiễm virus hợp bào đường hô hấp (RSV) thì sau này hay bị khò khè tái phát. Người ta cho rằng nhiễm RSV cũng gây ra đáp ứng cytokine Th 2 giống như atopy. Một số tác giả nhận thấy rằng khò khè trong nhiễm RSV thường phối hợp với tăng kháng thể IgE chống lại RSV cũng như đã chứng minh rằng có hiện tượng hoạt hoá bạch cầu ưa axit trong quá trình nhiễm RSV. Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy khò khè do nhiễm RSV giống như hen ở chỗ là cả hai bệnh đều có quá trình viêm ở đường hô hấp. Khò khè tái phát rất thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi và thường hay phối hợp với nhiễm khuẩn đường hô hấp trên có thể lên tới 6-8 lần/trẻ/năm. Nhiễm virus RSV hay rhinovirus thường phối hợp với khò khè tái phát. Khò khè ở trẻ nhỏ do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phần nhiều chỉ do nhiễm virus nhưng cũng rất khó loại trừ nguyên nhân do hen vì các biểu hiện của khò khè lần đầu của 2 tình trạng bệnh lý này rất giống nhau (9). Ho do nhiễm virus: Mặc dù ho tái đi tái lại cũng là 1 biểu hiện của hen, thế nhưng ho dai dẳng ở trẻ nhỏ lại ít khi có phối hợp với test methacholin hoặc histamin dương tính. Đồng thời ho do nhiễm virus cũng ít khi phối hợp với cơ địa dị ứng (atopy) và hoạt hóa bạch cầu ưa axit. Điều này gợi ý rằng ho dai dẳng đơn thuần thường là do hậu quả của nhiễm virus chứ hiếm khi là hen. Nghiên cứu đờm trên các trẻ bị ho kéo dài 2 tháng sau nhiễm virus thấy tăng bạch cầu ưa axit trong đờm rất thấp, chỉ chiếm 0,58%, trong khi đó nhóm trẻ bị hen chưa điều trị thì tỷ lệ này rất cao là 22,9%. Nghiên cứu test methacholine ở các trẻ bị ho đơn thuần cho thấy tỷ lệ (+) thấp, chỉ có 55%. Trong khi đó test này (+) ở tất cả các trẻ bị hen. Như vậy, từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy cần phải theo dõi trẻ lâu dài để phân biệt ho sau nhiễm siêu vi đường hô hấp với ho do hen. 3. TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN Hen và khò khè: Trong thực hành lâm sàng chúng ta thường rất hay gặp các trẻ đến khám vì khò khè. Vậy những trẻ nào bị khò khè được chẩn đoán là hen? Một số đặc điểm sau cần phải lưu ý ( 10,11): - Trẻ càng nhỏ thì càng có nhiều bệnh gây khò khè. - Khò khè ở trẻ còn bú được chia làm 2 loại chính: + Những trẻ khò khè tái phát thường xảy ra cùng với đợt nhiễm virus đường hô hấp nhưng không có biểu hiện thể tạng dị ứng hoặc tiền sử gia đình không có người bị dị HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 87 Hô hấp số 14/2018 ứng, những trẻ này thường tự hết khò khè khi trẻ lớn lên đến trước tuổi đi học thường không phải là hen. + Những trẻ có khò khè tái phát và có cơ địa dị ứng như chàm hoặc nổi mề đay thường không tự mất đi khi trẻ lớn lên thậm chí đến tuổi trưởng thành. Trẻ này hay bị viêm đường hô hấp từ nhỏ và sau này thường là hen. - Trẻ nhỏ có khò khè tái phát nếu kèm theo các biểu hiện dị ứng khác và tiền sử gia đình có người bị hen thì thường có biểu hiện hen rõ rệt khi trẻ lên 6 tuổi. - Điều trị bằng các thuốc chống viêm và thuốc giãn phế quản cho các trẻ khò khè tái phát thường có tác dụng hơn là điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên cũng không nên quá lạm dụng. - Phân loại khò khè ở trẻ dưới 5 tuổi như sau (hình 1) (12, 13): + Khò khè sớm tạm thời (transient early wheezing). Thường phối hợp với đẻ non và hít khói thuốc. + Khò khè sớm, dai dẳng (persistent early-onset wheezing). Thường liên quan đến nhiễm virus, không có tiền sử dị ứng. + Khò khè/hen muộn (late-onset wheezing/ asthma). Thường có biểu hiện dị ứng và tiền sử dị ứng. Hình 1. Các kiểu khò khè ở trẻ em diễn biến theo tuổi Vai trò của điều trị thử hen: Điều trị thử hen bằng các thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh khi cần và corticosteroids liều thấp trong thời gian ít nhất từ 2-3 tháng có thể giúp thầy thuốc có thêm bằng chứng để kết luận xem trẻ có bị hen hay không? Thông thường nếu trẻ đáp ứng với điều trị này với bằng chứng là giảm rõ rệt hoặc hết triệu chứng về ban ngày cũng như ban đêm, giảm hoặc hết các đợt khò khè và tăng lên khi ngừng điều trị thử thì nghiêng về chẩn đoán hen. Tuy nhiên vì hen là tình trạng bệnh lý hay thay đổi, có thời gian bệnh tự đỡ và có thời gian bệnh lại nặng lên do đó muốn chẩn đoán chắc chắn hơn, có thể lặp lại một đợt điều trị nữa nếu thấy cần thiết (9) . Ngoài ra khi điều trị thử bằng corticoide dạng hít cho trẻ nhỏ mà các triệu chứng lâm sàng không cải thiện cũng có thể có các lý do sau (7,14): - Trẻ dùng thuốc không đủ liều hoặc kỹ thuật xịt thở không đúng. - Trẻ có thể mắc bệnh khác chứ không phải bị bệnh hen. - Bệnh hen nặng hơn so với liều điều trị thử. Cần phân tích kỹ và tìm các lý do có thể xảy ra để quyết định làm thêm các thăm dò khác như chụp Xquang lồng ngực và các xét nghiệm khác nếu cần để xác định chẩn đoán Vai trò của dị ứng trong hen trẻ em: Các nghiên cứu cho thấy hậu quả của khò khè ở trẻ em có cơ địa dị ứng (atopy) và không có cơ địa dị ứng (atopy) rất khác nhau (5, 15). - Atopy ở trẻ em là nguyên nhân chủ yếu và duy nhất của quá trình viêm gây tăng bạch cầu ưa axit và tăng mẫn cảm không đặc hiệu của đường hô hấp. Hầu hết các trẻ lớn bị hen HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 88 Hô hấp số 14/2018 kể cả những trẻ trước đó có khò khè do nhiễm virus đường hô hấp đều là do dị ứng. Tuy nhiên ngay cả một số ít trẻ còn bú nếu có khò khè cộng thêm với các biểu hiện dị ứng thì nhiều khả năng là do hen. - Người ta đã chứng minh được rằng nếu trẻ còn bú có test bì dương tính với các dị nguyên là các hạt trong không khí (airborne) thì sau này dễ bị bệnh hen. - Wahn và cs nhận thấy rằng những trẻ còn bú của gia đình có tiền sử dị ứng thì dễ mẫn cảm với dị nguyên bụi nhà và lông mèo hơn so với trẻ ở gia đình không có biểu hiện dị ứng. - Các test lẩy da và xét nghiệm IgE đặc hiệu với các dị nguyên nếu dương tính thì thường nghiêng về hen. Tuy nhiên với trẻ nhỏ dưới 3 tuổi thì các test này cũng ít đặc hiệu và nếu test này âm tính thì cũng không loại trừ được hen (9). Vai trò của Xquang ngực: Chụp Xquang ngực thường quy hoặc CT scan và MRI lồng ngực có thể giúp phát hiện các bệnh lý khác không phải hen đó là: viêm phổi, lao phổi, dị vật đường thở và các dị dạng bất thường trong lồng ngực như kén hơi bẩm sinh, vòng nhẫn mạch máu (9)... Đo chức năng hô hấp hay sức cản đường thở hay lưu lượng đỉnh: Do hầu hết các trẻ dưới 5 tuổi không có khả năng thực hiện được các thao tác thở trong đo chức năng hô hấp, các thao tác thở ra trong thực hành đo sức cản đường thở, hay test kích thích phế quản và các test sinh lý khác do vậy các thăm dò chức năng này không có vai trò chính trong chẩn đoán hen ở trẻ này. Tuy nhiên một số ít trẻ có thể thực hiện được với sự giúp đỡ hướng dẫn của các kỹ thuật viên có kinh nghiệm. Khi đó các test này có thể giúp ích cho một số trẻ từ 4 tuổi trở lên (9). Trong các test kể trên thì đo lưu lượng đỉnh là dễ thực hiện hơn cả cho các trẻ ở lứa tuổi này. Khi thực hiện đo lưu lượng đỉnh (PEF) nếu thấy: - Thay đổi PEF: Khi sử dụng peak flow meter để đo PEF cho trẻ thì cần nghĩ đến hen khi: + PEF tăng trên 15% sau 15-20 phút hít thuốc giãn phế quản kích thích β 2 , hoặc + PEF thay đổi hơn 20% giữa lần đo buổi sáng với lần đo buổi chiều cách nhau 12 giờ đối với bệnh nhân đang được dùng thuốc giãn phế quản hoặc trên 10% đối với bệnh nhân không đang dùng thuốc giãn phế quản. + PEF giảm hơn 15% sau 6 phút chạy hoặc gắng sức. Đo khí FeNO thì thở ra: Đo nồng độ khí NO ở thì thở ra (FeNO) có thể thực hiện được cho trẻ từ 1-5 tuổi. Nồng độ khí FeNo tăng lên và kéo dài trên 4 tuần ở các trẻ nhiễm khuẩn hô hấp trên có ho và khò khè tái diễn ở trẻ dưới 5 tuổi thì khả năng sau này dễ phát triển thành hen. Điều này có thể giúp thầy thuốc chẩn đoán hen dễ dàng hơn. Tuy nhiên do chi phí cao nên test này chỉ có thể thực hiện ở một số ít cơ sở y tế mà thôi (15). Các yếu tố nguy cơ: Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ cũng có những đóng góp đáng kể trong thực hành lâm sàng chẩn đoán hen ở trẻ dưới 5 tuổi. Nghiên cứu chỉ số tiên đoán hen (Asthma Predictive Index-API) cho thấy các trẻ có API (+) có HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 89 Hô hấp số 14/2018 nghĩa là trẻ dưới 3 tuổi có từ 4 lần khò khè/ năm và có ít nhất 1 trong 2 tiêu chuẩn chính là bố hoặc mẹ bị hen hoặc trẻ bị chàm da (eczema) được bác sỹ chẩn đoán hoặc 2 trong 3 tiêu chuẩn phụ là trẻ bị viêm mũi dị ứng do bác sỹ chẩn đoán, có đợt khò khè xảy ra ngoài đợt cảm lạnh và bạch cầu ái toan máu ngoại vi ≥ 4% thì có nguy cơ trở thành hen sau này gấp 4-10 lần so với trẻ khác có API (-) (16). 4. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT Chẩn đoán phân biệt cần phải được đặt ra trước khi đưa ra quyết định chẩn đoán xác định hen. Các chẩn đoán phân biệt ưu tiên cần dựa theo tuổi (9, 12, 17, 18 ). Trẻ còn bú: Các chẩn đoán phân biệt khác cần đặt ra là: - Viêm tiểu phế quản - Các đợt nhiễm virus đường hô hấp trên - Rối loạn miễn dịch - Trào ngược dạ dày, thực quản - Các dị tật ở bộ máy hô hấp như: Mềm sụn khí phế quản, Hẹp phế quản - Các dị tật tim bẩm sinh và mạch máu - Bệnh xơ nang (cystic fibrosis) v.v - Lao sơ nhiễm, hạch lao chèn ép vào phế quản - Các khối u như u trung thất, nang phổi bẩm sinh Trẻ nhỏ trước tuổi đi học: Cần lưu ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau: - Các đợt nhiễm virus đường hô hấp dưới rất thường gặp ở trẻ nhỏ - Dị vật đường thở - Luồng trào ngược dạ dày – thực quản - Bệnh xơ nang (cystic fibrosis) - Rối loạn miễn dịch v.v... - Lao sơ nhiễm - Các khối u chèn ép, nang phổi bẩm sinh Trẻ ở tuổi học đường: Cần phải chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác có thể gây ho dai dẳng và khò khè như: - Viêm xoang - Rối loạn miễn dịch như thiếu hụt IgG có thể gặp ở trẻ nhỏ với các biểu hiện viêm tai giữa, viêm xoang và ho kéo dài - Viêm mũi, dị dạng vách ngăn mũi gây chảy mũi sau cũng gây ho kéo dài - Trào ngược dạ dày thực quản 5. CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH Chẩn đoán xác định hen ở trẻ dưới 5 tuổi chủ yếu dựa vào lâm sàng là chính, dựa vào hỏi bệnh sử và khám lâm sàng chi tiết, tỷ mỷ để phân biệt với một số bệnh khác có khò khè như viêm tiểu phế quản và các đợt nhiễm virus đường hô hấp rất thường gặp ở trẻ lứa tuổi này trước khi đưa ra quyết định chẩn đoán hen. Những trường hợp khó mới cần làm thêm các xét nghiệm, Xquang, nội soi và thăm dò chức năng khác (9,17). Một trẻ có các biểu hiện lâm sàng sau đây là những yếu tố gợi ý trẻ có bị hen hay không? (bảng 1). Một số trường hợp khác đã tiến hành các bước chẩn đoán như trên mà vẫn chưa thể xác định được có hen hay không thì áp dụng biện pháp điều trị thử. Điều trị thử để giúp chẩn đoán xác định luôn luôn là biện pháp cuối cùng. HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 90 Hô hấp số 14/2018 Bảng 1. Các yếu tố gợi ý và ít gợi ý hen Yếu tố gợi ý hen Yếu tố ít gợi ý hen Có khò khè kèm theo 1 trong 2 triệu chứng là ho và hoặc khó thở và có bất cứ biểu hiện nào sau đây: • Triệu chứng tái phát thường xuyên, nặng hơn về đêm hoặc sáng sớm • Xảy ra khi gắng sức, cười, khóc hay tiếp xúc với thuốc lá, không khí lạnh, thú nuôi... • Xảy ra ngoài đợt nhiễm khuẩn hô hấp • Có tiền sử dị ứng như viêm mũi dị ứng hoặc chàm da • Tiền sử gia đình như cha, mẹ, anh chị em ruột bị hen hoặc dị ứng • Khám phổi nghe thấy ran rít ran ngáy • Đáp ứng với điều trị thử hen Có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào sau đây: • Các triệu chứng chỉ xảy ra khi có đợt nhiễm khuẩn hô hấp trên do cảm lạnh, cảm cúm • Ho đơn thuần không kèm theo khò khè, khó thở • Nhiều lần nghe phổi bình thường mặc dù bệnh nhân có triệu chứng • Có dấu hiệu hoặc triệu chứng gợi ý chẩn đoán khác ngoài hen • Không đáp ứng với điều trị thử hen bằng các thuốc giãn phế quản và thuốc dự phòng hen Tài liệu tham khảo 1. James Paton, Patrick Bindels, Ann McMurray, Jodie Biggins, Rebecca Nantanda, and Marianne Stubbe Østergaard. A young child with a history of wheeze. NPJ Prim Care Respir Med. 2017; 27: 19. 2. Schultz A, Brand PL. Episodic viral wheeze and multiple trigger wheeze in preschool children: a useful distinction for clinicians? Paediatr Respir Rev. 2011 Sep;12(3):160-4 3. Soh JE, Kim KM, Kwon JW, Kim HY, Seo JH, Kim HB Lee SY, Jang GC, Song DJ, Kim WK, Jung YH, Hong SJ, Shim JY. Recurrent wheeze and its relationship with lung function and airway inflammation in preschool children: a cross- sectional study in South Korea. BMJ Open. 2017 Oct 8;7(10):e018010 4. Nguyễn Tiến Dũng. Xử trí khò khè ở trẻ em. Tài liệu huấn luyện dành cho cán bộ tuyến tỉnh, huyện. Chương trình NKHHCT trẻ em. Nhà xuất bản Y học 1998. tr 67-79 5. Nguyễn Tiến Dũng. Viêm mũi dị ứng và hen, cơ sở của quan niệm ”một đường hô hấp”. Thông tin Dược lâm sàng. Trường ĐH Dược Hà Nội. 6/2007, tr 10-15 6. Respiratory Expert Group, Therapeutic Guidelines Limited. Therapeutic Guidelines: Respiratory, Version 4. Therapeutic Guidelines Limited, Melbourne, 2009. 7. Godfrey S. The use of bronchial challenge to diagnose asthma in preschool children. Prim Care Respir J. 2009 Mar;18(1):10-4. 8. van de Kant KD, Klaassen EM, Jöbsis Q, Nijhuis AJ, van Schayck OC, Dompeling E. Early diagnosis of asthma in young children by using non-invasive biomarkers of airway inflammation and early lung function measurements: study protocol of a case-control study. BMC Public Health. 2009 Jun 29;9:210. 9. GINA. Diagnose and Management of Asthma in Children 5 years and Younger, Pocket Guide for Health Professionals, 2016. 10. Brand PL, Caudri D, Eber E, Gaillard EA, Garcia- Marcos L, Hedlin G, Henderson J, Kuehni CE, Merkus PJ, Pedersen S, Valiulis A, Wennergren G, Bush A. Classification and pharmacological treatment of preschool wheezing: changes since 2008. Eur Respir J. 2014 Apr;43(4):1172-7 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH 91 Hô hấp số 14/2018 11. British Thoracic Society (BTS), Scottish Intercollegiate Guidelines Network (SIGN). British Guideline on the management of Asthma. A national clinical guideline. BTS/SIGN, Edinburgh, 2016 12. GINA. Pocket guide for asthma management and prevention in children. 2010 13. NAC (National Asthma Council Australia). Asthma Management Handbook 2015. Sixth Edition. 14. Watts B. Outpatient management of asthma in children age 5-11 years: guidelines for practice. J Am Acad Nurse Pract. 2009 May;21(5):261-9. 15. Malmber LP, Pelkonen AS, Haahtela T, Turpeinen M. Exhaled nitric oxide rather than lung function distinguishes preschool children with probable asthma. Thorax. 2003 Jun;58(6):494-9. 16. Castro-Rodríguez JA, Holberg CJ, Wright AL, Martinez FD. A clinical index to define risk of asthma in young children with recurrent wheezing. Am J Respir Crit Care Med. 2000 Oct;162(4 Pt 1):1403-6. 17. Hội Hô hấp và Hội Nhi khoa Việt Nam. Khuyến cáo chẩn đoán và điều trị hen trẻ em dưới 5 tuổi. Nhà xuất bản Y học, 2015
File đính kèm:
chan_doan_hen_phe_quan_tre_em.pdf

