Chẩn đoán hen phế quản trẻ em

Hen phế quản là tình trạng viêm mạn tính của đường hô hấp với sự tham gia của nhiều tế

bào và thành phần tế bào làm tăng tính đáp ứng đường hô hấp gây ra hiện tượng tắc nghẽn,

hạn chế luồng khí thở do co thắt, phù nề, tăng tiết đờm làm xuất hiện các đợt khò khè, khó

thở, nặng ngực và ho tái diễn nhiều lần, thường xảy ra về đêm và sáng sớm có thể hồi phục

tự nhiên hoặc do điều trị. Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Chẩn đoán hen phế quản trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán hen phế quản trẻ em

Chẩn đoán hen phế quản trẻ em
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
85
Hô hấp số 14/2018
1. CƠ SỞ SINH LÝ BỆNH CỦA KHÒ KHÈ 
Khò khè (wheezing) là tiếng thở phát ra ở thì 
thở ra và có thể nghe được bằng tai thường hoặc 
bằng ống nghe. Cần phải phân biệt tiếng thở 
khò khè với tiếng thở rít và tiếng thở khụt khịt 
do tắc mũi. Tiếng thở rít chỉ nghe được ở thì thở 
vào còn tiếng thở khụt khịt nghe được ở cả hai 
thì thở vào và thở ra. Khò khè này chỉ được xác 
định sau khi bác sỹ đã hỏi bệnh và thăm khám 
trẻ kỹ càng chứ không chỉ dựa vào lời mô tả của 
cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ (1-3).
Tiếng thở khò khè phát ra khi có sự 
chuyển động hỗn loạn của luồng khí do tăng 
tốc độ qua chỗ hẹp cuả đường hô hấp. Trong 
các bệnh có hẹp ở đường hô hấp nhỏ như 
hen hoặc viêm tiểu phế quản đôi khi làm 
người ta có ấn tượng sai lầm rằng tiếng khò 
khè này phát ra từ chính chỗ hẹp ở đường hô 
hấp nhỏ. Điều đó không đúng vì về mặt lý 
thuyết tốc độ luồng khí đi qua chỗ hẹp này 
là quá yếu. Trong trường hợp này khò khè 
được phát ra ở khí và phế quản lớn bị hẹp lại 
thứ phát do đè ép gián tiếp trong thì thở ra. 
Điều này là do bệnh nhân phải cố gắng thở 
để đẩy không khí từ phế nang ra qua chỗ phế 
quản bị hẹp dẫn đến tăng áp lực trong khoang 
màng phổi. Chính sự tăng áp lực này lớn hơn 
áp lực trong lòng khí quản và phế quản lớn 
do đó làm cho chúng hẹp lại do động lực gây 
nên tiếng khò khè. Lý thuyết này dựa trên thí 
nghiệm đo áp lực phổi ở người lớn được thổi 
phồng lên sau khi tử vong và các bằng chứng 
về Xquang ở các bệnh nhân có hẹp đường hô 
hấp nhỏ (4-6). 
Ở trẻ nhỏ, khí và phế quản lớn thường 
mềm hơn, sức kháng của các phế quản nhỏ 
cao hơn nên dễ dẫn đến tăng áp lực trong 
khoang màng phổi vì vậy trẻ nhỏ dễ bị khò 
khè hơn so với trẻ lớn khi có các bệnh gây 
tắc nghẽn ở đường hô hấp nhỏ như hen phế 
quản, viêm tiểu phế quản cấp, dị vật đường 
thở, hạch lao chèn ép, vòng nhẫn mạch máu, 
xơ nang tuỵ, thiếu alpha
1
 antitrypsin, mềm 
sụn phế quản.v.v...
2. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CHẨN 
ĐOÁN HEN TRẺ EM 
Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm 
sàng do các trẻ này không thể đo được chức 
năng hô hấp. Các xét nghiệm về miễn dịch dị 
ứng cũng không đặc hiệu trong hen vì có thể 
dương tính trong nhiều bệnh khác như viêm 
mũi dị ứng, viêm da cơ địa dị ứng hoặc mày 
đay.v.v...
Khò khè do nhiễm virus:
Trước kia nhiều thầy thuốc cho rằng khò khè 
CHẨN ĐOÁN HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM
PGS.TS.BS NGUYỄN TIẾN DŨNG 
Hen phế quản là tình trạng viêm mạn tính của đường hô hấp với sự tham gia của nhiều tế 
bào và thành phần tế bào làm tăng tính đáp ứng đường hô hấp gây ra hiện tượng tắc nghẽn, 
hạn chế luồng khí thở do co thắt, phù nề, tăng tiết đờm làm xuất hiện các đợt khò khè, khó 
thở, nặng ngực và ho tái diễn nhiều lần, thường xảy ra về đêm và sáng sớm có thể hồi phục 
tự nhiên hoặc do điều trị. Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng.
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
86
Hô hấp số 14/2018
nhẹ và không thường xuyên thì thường tự 
khỏi khi trẻ lớn lên và họ thường chẩn đoán 
là viêm phế quản thể hen hoặc viêm phế quản 
co thắt từ đó họ điều trị bằng kháng sinh và 
các thuốc giảm ho hoặc giãn phế quản ngay 
cả khi trẻ bị khò khè tái phát. Tuy vậy những 
nghiên cứu gần đây cho thấy mặc dù có một 
số trẻ khi lớn lên hết khò khè nhưng người ta 
cũng không dùng thuật ngữ viêm phế quản co 
thắt nữa (7, 8). 
Một số trẻ dưới 1 tuổi, chủ yếu là con 
trai, có khò khè khi bị nhiễm virus đường hô 
hấp mà không phải do cơ địa dị ứng (atopy) 
thì các thay đổi về bạch cầu ưa axit và các tế 
bào viêm khác thường không tương xứng với 
mức độ khò khè. 
Một số nghiên cứu cho thấy các trẻ bị 
viêm tiểu phế quản do nhiễm virus hợp bào 
đường hô hấp (RSV) thì sau này hay bị khò 
khè tái phát. Người ta cho rằng nhiễm RSV 
cũng gây ra đáp ứng cytokine Th
2
 giống như 
atopy. Một số tác giả nhận thấy rằng khò khè 
trong nhiễm RSV thường phối hợp với tăng 
kháng thể IgE chống lại RSV cũng như đã 
chứng minh rằng có hiện tượng hoạt hoá bạch 
cầu ưa axit trong quá trình nhiễm RSV. Các 
kết quả nghiên cứu trên cho thấy khò khè do 
nhiễm RSV giống như hen ở chỗ là cả hai 
bệnh đều có quá trình viêm ở đường hô hấp. 
Khò khè tái phát rất thường gặp ở trẻ 
dưới 5 tuổi và thường hay phối hợp với nhiễm 
khuẩn đường hô hấp trên có thể lên tới 6-8 
lần/trẻ/năm. Nhiễm virus RSV hay rhinovirus 
thường phối hợp với khò khè tái phát. Khò 
khè ở trẻ nhỏ do nhiều nguyên nhân khác 
nhau trong đó phần nhiều chỉ do nhiễm virus 
nhưng cũng rất khó loại trừ nguyên nhân do 
hen vì các biểu hiện của khò khè lần đầu của 
2 tình trạng bệnh lý này rất giống nhau (9).
Ho do nhiễm virus:
Mặc dù ho tái đi tái lại cũng là 1 biểu hiện 
của hen, thế nhưng ho dai dẳng ở trẻ nhỏ lại 
ít khi có phối hợp với test methacholin hoặc 
histamin dương tính. Đồng thời ho do nhiễm 
virus cũng ít khi phối hợp với cơ địa dị ứng 
(atopy) và hoạt hóa bạch cầu ưa axit. Điều 
này gợi ý rằng ho dai dẳng đơn thuần thường 
là do hậu quả của nhiễm virus chứ hiếm khi 
là hen.
Nghiên cứu đờm trên các trẻ bị ho kéo dài 
2 tháng sau nhiễm virus thấy tăng bạch cầu 
ưa axit trong đờm rất thấp, chỉ chiếm 0,58%, 
trong khi đó nhóm trẻ bị hen chưa điều trị thì 
tỷ lệ này rất cao là 22,9%. 
Nghiên cứu test methacholine ở các trẻ 
bị ho đơn thuần cho thấy tỷ lệ (+) thấp, chỉ 
có 55%. Trong khi đó test này (+) ở tất cả các 
trẻ bị hen.
Như vậy, từ các kết quả nghiên cứu trên 
cho thấy cần phải theo dõi trẻ lâu dài để phân 
biệt ho sau nhiễm siêu vi đường hô hấp với 
ho do hen.
3. TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN 
Hen và khò khè: 
Trong thực hành lâm sàng chúng ta thường 
rất hay gặp các trẻ đến khám vì khò khè. Vậy 
những trẻ nào bị khò khè được chẩn đoán là 
hen? Một số đặc điểm sau cần phải lưu ý ( 10,11): 
- Trẻ càng nhỏ thì càng có nhiều bệnh gây 
khò khè.
- Khò khè ở trẻ còn bú được chia làm 2 
loại chính:
+ Những trẻ khò khè tái phát thường xảy 
ra cùng với đợt nhiễm virus đường hô hấp 
nhưng không có biểu hiện thể tạng dị ứng 
hoặc tiền sử gia đình không có người bị dị 
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
87
Hô hấp số 14/2018
ứng, những trẻ này thường tự hết khò khè 
khi trẻ lớn lên đến trước tuổi đi học thường 
không phải là hen.
+ Những trẻ có khò khè tái phát và có cơ 
địa dị ứng như chàm hoặc nổi mề đay thường 
không tự mất đi khi trẻ lớn lên thậm chí đến 
tuổi trưởng thành. Trẻ này hay bị viêm đường 
hô hấp từ nhỏ và sau này thường là hen.
- Trẻ nhỏ có khò khè tái phát nếu kèm 
theo các biểu hiện dị ứng khác và tiền sử gia 
đình có người bị hen thì thường có biểu hiện 
hen rõ rệt khi trẻ lên 6 tuổi.
- Điều trị bằng các thuốc chống viêm và 
thuốc giãn phế quản cho các trẻ khò khè tái 
phát thường có tác dụng hơn là điều trị bằng 
kháng sinh. Tuy nhiên cũng không nên quá 
lạm dụng.
- Phân loại khò khè ở trẻ dưới 5 tuổi như 
sau (hình 1) (12, 13):
+ Khò khè sớm tạm thời (transient early 
wheezing). Thường phối hợp với đẻ non và 
hít khói thuốc.
+ Khò khè sớm, dai dẳng (persistent 
early-onset wheezing). Thường liên quan đến 
nhiễm virus, không có tiền sử dị ứng.
+ Khò khè/hen muộn (late-onset wheezing/
asthma). Thường có biểu hiện dị ứng và tiền 
sử dị ứng.
Hình 1. Các kiểu khò khè ở trẻ em diễn biến theo tuổi
Vai trò của điều trị thử hen:
Điều trị thử hen bằng các thuốc giãn phế quản 
tác dụng nhanh khi cần và corticosteroids liều 
thấp trong thời gian ít nhất từ 2-3 tháng có 
thể giúp thầy thuốc có thêm bằng chứng để 
kết luận xem trẻ có bị hen hay không? Thông 
thường nếu trẻ đáp ứng với điều trị này với 
bằng chứng là giảm rõ rệt hoặc hết triệu chứng 
về ban ngày cũng như ban đêm, giảm hoặc 
hết các đợt khò khè và tăng lên khi ngừng 
điều trị thử thì nghiêng về chẩn đoán hen. Tuy 
nhiên vì hen là tình trạng bệnh lý hay thay 
đổi, có thời gian bệnh tự đỡ và có thời gian 
bệnh lại nặng lên do đó muốn chẩn đoán chắc 
chắn hơn, có thể lặp lại một đợt điều trị nữa 
nếu thấy cần thiết (9) . Ngoài ra khi điều trị thử 
bằng corticoide dạng hít cho trẻ nhỏ mà các 
triệu chứng lâm sàng không cải thiện cũng có 
thể có các lý do sau (7,14):
- Trẻ dùng thuốc không đủ liều hoặc kỹ 
thuật xịt thở không đúng.
- Trẻ có thể mắc bệnh khác chứ không 
phải bị bệnh hen.
- Bệnh hen nặng hơn so với liều điều trị 
thử.
Cần phân tích kỹ và tìm các lý do có thể 
xảy ra để quyết định làm thêm các thăm dò 
khác như chụp Xquang lồng ngực và các xét 
nghiệm khác nếu cần để xác định chẩn đoán
Vai trò của dị ứng trong hen trẻ em:
Các nghiên cứu cho thấy hậu quả của khò khè 
ở trẻ em có cơ địa dị ứng (atopy) và không có 
cơ địa dị ứng (atopy) rất khác nhau (5, 15). 
- Atopy ở trẻ em là nguyên nhân chủ yếu 
và duy nhất của quá trình viêm gây tăng bạch 
cầu ưa axit và tăng mẫn cảm không đặc hiệu 
của đường hô hấp. Hầu hết các trẻ lớn bị hen 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
88
Hô hấp số 14/2018
kể cả những trẻ trước đó có khò khè do nhiễm 
virus đường hô hấp đều là do dị ứng. Tuy 
nhiên ngay cả một số ít trẻ còn bú nếu có khò 
khè cộng thêm với các biểu hiện dị ứng thì 
nhiều khả năng là do hen.
- Người ta đã chứng minh được rằng nếu 
trẻ còn bú có test bì dương tính với các dị 
nguyên là các hạt trong không khí (airborne) 
thì sau này dễ bị bệnh hen.
- Wahn và cs nhận thấy rằng những trẻ 
còn bú của gia đình có tiền sử dị ứng thì dễ 
mẫn cảm với dị nguyên bụi nhà và lông mèo 
hơn so với trẻ ở gia đình không có biểu hiện 
dị ứng.
- Các test lẩy da và xét nghiệm IgE đặc 
hiệu với các dị nguyên nếu dương tính thì 
thường nghiêng về hen. Tuy nhiên với trẻ nhỏ 
dưới 3 tuổi thì các test này cũng ít đặc hiệu và 
nếu test này âm tính thì cũng không loại trừ 
được hen (9).
Vai trò của Xquang ngực:
Chụp Xquang ngực thường quy hoặc CT scan 
và MRI lồng ngực có thể giúp phát hiện các 
bệnh lý khác không phải hen đó là: viêm phổi, 
lao phổi, dị vật đường thở và các dị dạng bất 
thường trong lồng ngực như kén hơi bẩm 
sinh, vòng nhẫn mạch máu (9)...
Đo chức năng hô hấp hay sức cản đường thở 
hay lưu lượng đỉnh: 
Do hầu hết các trẻ dưới 5 tuổi không có khả 
năng thực hiện được các thao tác thở trong đo 
chức năng hô hấp, các thao tác thở ra trong 
thực hành đo sức cản đường thở, hay test kích 
thích phế quản và các test sinh lý khác do 
vậy các thăm dò chức năng này không có vai 
trò chính trong chẩn đoán hen ở trẻ này. Tuy 
nhiên một số ít trẻ có thể thực hiện được với 
sự giúp đỡ hướng dẫn của các kỹ thuật viên 
có kinh nghiệm. Khi đó các test này có thể 
giúp ích cho một số trẻ từ 4 tuổi trở lên (9).
Trong các test kể trên thì đo lưu lượng 
đỉnh là dễ thực hiện hơn cả cho các trẻ ở lứa 
tuổi này. Khi thực hiện đo lưu lượng đỉnh 
(PEF) nếu thấy:
- Thay đổi PEF: Khi sử dụng peak flow 
meter để đo PEF cho trẻ thì cần nghĩ đến hen 
khi:
+ PEF tăng trên 15% sau 15-20 phút hít 
thuốc giãn phế quản kích thích β
2
, hoặc
+ PEF thay đổi hơn 20% giữa lần đo buổi 
sáng với lần đo buổi chiều cách nhau 12 giờ 
đối với bệnh nhân đang được dùng thuốc giãn 
phế quản hoặc trên 10% đối với bệnh nhân 
không đang dùng thuốc giãn phế quản.
+ PEF giảm hơn 15% sau 6 phút chạy 
hoặc gắng sức.
Đo khí FeNO thì thở ra:
Đo nồng độ khí NO ở thì thở ra (FeNO) có 
thể thực hiện được cho trẻ từ 1-5 tuổi. Nồng 
độ khí FeNo tăng lên và kéo dài trên 4 tuần 
ở các trẻ nhiễm khuẩn hô hấp trên có ho và 
khò khè tái diễn ở trẻ dưới 5 tuổi thì khả 
năng sau này dễ phát triển thành hen. Điều 
này có thể giúp thầy thuốc chẩn đoán hen dễ 
dàng hơn. Tuy nhiên do chi phí cao nên test 
này chỉ có thể thực hiện ở một số ít cơ sở y 
tế mà thôi (15).
Các yếu tố nguy cơ:
Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ cũng có 
những đóng góp đáng kể trong thực hành lâm 
sàng chẩn đoán hen ở trẻ dưới 5 tuổi. Nghiên 
cứu chỉ số tiên đoán hen (Asthma Predictive 
Index-API) cho thấy các trẻ có API (+) có 
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
89
Hô hấp số 14/2018
nghĩa là trẻ dưới 3 tuổi có từ 4 lần khò khè/
năm và có ít nhất 1 trong 2 tiêu chuẩn chính 
là bố hoặc mẹ bị hen hoặc trẻ bị chàm da 
(eczema) được bác sỹ chẩn đoán hoặc 2 trong 
3 tiêu chuẩn phụ là trẻ bị viêm mũi dị ứng do 
bác sỹ chẩn đoán, có đợt khò khè xảy ra ngoài 
đợt cảm lạnh và bạch cầu ái toan máu ngoại 
vi ≥ 4% thì có nguy cơ trở thành hen sau này 
gấp 4-10 lần so với trẻ khác có API (-) (16).
4. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Chẩn đoán phân biệt cần phải được đặt ra 
trước khi đưa ra quyết định chẩn đoán xác 
định hen. Các chẩn đoán phân biệt ưu tiên cần 
dựa theo tuổi (9, 12, 17, 18 ).
Trẻ còn bú:
Các chẩn đoán phân biệt khác cần đặt ra là: 
- Viêm tiểu phế quản
- Các đợt nhiễm virus đường hô hấp trên
- Rối loạn miễn dịch
- Trào ngược dạ dày, thực quản
- Các dị tật ở bộ máy hô hấp như: Mềm 
sụn khí phế quản, Hẹp phế quản
- Các dị tật tim bẩm sinh và mạch máu
- Bệnh xơ nang (cystic fibrosis) v.v
- Lao sơ nhiễm, hạch lao chèn ép vào phế 
quản
- Các khối u như u trung thất, nang phổi 
bẩm sinh
Trẻ nhỏ trước tuổi đi học: 
Cần lưu ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh 
sau:
- Các đợt nhiễm virus đường hô hấp dưới 
rất thường gặp ở trẻ nhỏ
- Dị vật đường thở
- Luồng trào ngược dạ dày – thực quản
- Bệnh xơ nang (cystic fibrosis)
- Rối loạn miễn dịch v.v...
- Lao sơ nhiễm
- Các khối u chèn ép, nang phổi bẩm sinh
Trẻ ở tuổi học đường:
Cần phải chẩn đoán phân biệt với các bệnh 
khác có thể gây ho dai dẳng và khò khè như: 
- Viêm xoang
- Rối loạn miễn dịch như thiếu hụt IgG có 
thể gặp ở trẻ nhỏ với các biểu hiện viêm tai 
giữa, viêm xoang và ho kéo dài
- Viêm mũi, dị dạng vách ngăn mũi gây 
chảy mũi sau cũng gây ho kéo dài
- Trào ngược dạ dày thực quản
5. CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH
Chẩn đoán xác định hen ở trẻ dưới 5 tuổi chủ 
yếu dựa vào lâm sàng là chính, dựa vào hỏi 
bệnh sử và khám lâm sàng chi tiết, tỷ mỷ để 
phân biệt với một số bệnh khác có khò khè 
như viêm tiểu phế quản và các đợt nhiễm 
virus đường hô hấp rất thường gặp ở trẻ lứa 
tuổi này trước khi đưa ra quyết định chẩn 
đoán hen. Những trường hợp khó mới cần 
làm thêm các xét nghiệm, Xquang, nội soi và 
thăm dò chức năng khác (9,17). Một trẻ có các 
biểu hiện lâm sàng sau đây là những yếu tố 
gợi ý trẻ có bị hen hay không? (bảng 1).
Một số trường hợp khác đã tiến hành các 
bước chẩn đoán như trên mà vẫn chưa thể xác 
định được có hen hay không thì áp dụng biện 
pháp điều trị thử. Điều trị thử để giúp chẩn 
đoán xác định luôn luôn là biện pháp cuối 
cùng.
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
90
Hô hấp số 14/2018
Bảng 1. Các yếu tố gợi ý và ít gợi ý hen
Yếu tố gợi ý hen Yếu tố ít gợi ý hen
Có khò khè kèm theo 1 trong 2 triệu chứng là ho 
và hoặc khó thở và có bất cứ biểu hiện nào sau 
đây:
•	 Triệu chứng tái phát thường xuyên, nặng hơn 
về đêm hoặc sáng sớm
•	 Xảy ra khi gắng sức, cười, khóc hay tiếp xúc 
với thuốc lá, không khí lạnh, thú nuôi...
•	 Xảy ra ngoài đợt nhiễm khuẩn hô hấp
•	 Có tiền sử dị ứng như viêm mũi dị ứng hoặc 
chàm da
•	 Tiền sử gia đình như cha, mẹ, anh chị em ruột 
bị hen hoặc dị ứng
•	 Khám phổi nghe thấy ran rít ran ngáy
•	 Đáp ứng với điều trị thử hen
Có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào sau 
đây:
•	 Các triệu chứng chỉ xảy ra khi có đợt nhiễm 
khuẩn hô hấp trên do cảm lạnh, cảm cúm
•	 Ho đơn thuần không kèm theo khò khè, khó 
thở
•	 Nhiều lần nghe phổi bình thường mặc dù 
bệnh nhân có triệu chứng
•	 Có dấu hiệu hoặc triệu chứng gợi ý chẩn 
đoán khác ngoài hen
•	 Không đáp ứng với điều trị thử hen bằng các 
thuốc giãn phế quản và thuốc dự phòng hen
Tài liệu tham khảo
1. James Paton, Patrick Bindels, Ann McMurray, 
Jodie Biggins, Rebecca Nantanda, and Marianne 
Stubbe Østergaard. A young child with a history of 
wheeze. NPJ Prim Care Respir Med. 2017; 27: 19. 
2. Schultz A, Brand PL. Episodic viral wheeze and 
multiple trigger wheeze in preschool children: a 
useful distinction for clinicians? Paediatr Respir 
Rev. 2011 Sep;12(3):160-4
3. Soh JE, Kim KM, Kwon JW, Kim HY, Seo JH, 
Kim HB Lee SY, Jang GC, Song DJ, Kim WK, 
Jung YH, Hong SJ, Shim JY. Recurrent wheeze 
and its relationship with lung function and airway 
inflammation in preschool children: a cross-
sectional study in South Korea. BMJ Open. 2017 
Oct 8;7(10):e018010
4. Nguyễn Tiến Dũng. Xử trí khò khè ở trẻ em. 
Tài liệu huấn luyện dành cho cán bộ tuyến tỉnh, 
huyện. Chương trình NKHHCT trẻ em. Nhà xuất 
bản Y học 1998. tr 67-79
5. Nguyễn Tiến Dũng. Viêm mũi dị ứng và hen, cơ 
sở của quan niệm ”một đường hô hấp”. Thông 
tin Dược lâm sàng. Trường ĐH Dược Hà Nội. 
6/2007, tr 10-15
6. Respiratory Expert Group, Therapeutic Guidelines 
Limited. Therapeutic Guidelines: Respiratory, 
Version 4. Therapeutic Guidelines Limited, 
Melbourne, 2009.
7. Godfrey S. The use of bronchial challenge to 
diagnose asthma in preschool children. Prim Care 
Respir J. 2009 Mar;18(1):10-4.
8. van de Kant KD, Klaassen EM, Jöbsis Q, Nijhuis 
AJ, van Schayck OC, Dompeling E. Early diagnosis 
of asthma in young children by using non-invasive 
biomarkers of airway inflammation and early 
lung function measurements: study protocol of a 
case-control study. BMC Public Health. 2009 Jun 
29;9:210.
9. GINA. Diagnose and Management of Asthma in 
Children 5 years and Younger, Pocket Guide for 
Health Professionals, 2016.
10. Brand PL, Caudri D, Eber E, Gaillard EA, Garcia-
Marcos L, Hedlin G, Henderson J, Kuehni CE, 
Merkus PJ, Pedersen S, Valiulis A, Wennergren 
G, Bush A. Classification and pharmacological 
treatment of preschool wheezing: changes since 
2008. Eur Respir J. 2014 Apr;43(4):1172-7
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
91
Hô hấp số 14/2018
11. British Thoracic Society (BTS), Scottish 
Intercollegiate Guidelines Network (SIGN). British 
Guideline on the management of Asthma. A 
national clinical guideline. BTS/SIGN, Edinburgh, 
2016
12. GINA. Pocket guide for asthma management and 
prevention in children. 2010
13. NAC (National Asthma Council Australia). Asthma 
Management Handbook 2015. Sixth Edition.
14. Watts B. Outpatient management of asthma in 
children age 5-11 years: guidelines for practice. J 
Am Acad Nurse Pract. 2009 May;21(5):261-9.
15. Malmber LP, Pelkonen AS, Haahtela T, Turpeinen 
M. Exhaled nitric oxide rather than lung function 
distinguishes preschool children with probable 
asthma. Thorax. 2003 Jun;58(6):494-9.
16. Castro-Rodríguez JA, Holberg CJ, Wright AL, 
Martinez FD. A clinical index to define risk of 
asthma in young children with recurrent wheezing. 
Am J Respir Crit Care Med. 2000 Oct;162(4 Pt 
1):1403-6.
17. Hội Hô hấp và Hội Nhi khoa Việt Nam. Khuyến 
cáo chẩn đoán và điều trị hen trẻ em dưới 5 tuổi. 
Nhà xuất bản Y học, 2015

File đính kèm:

  • pdfchan_doan_hen_phe_quan_tre_em.pdf