Chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2017
Mục tiêu: Chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) đã trở thành một phần chính yếu trong việc cung cấp chăm sóc
chất lượng cao cho bệnh nhân nặng mắc bệnh ác tính hay không ác tính. Thành lập vào tháng tám năm 2012
tại bệnh viện Phạm Ngoc Thạch (PNT) với đơn vị nội trú và phòng khám ngoại trú, đơn vị CSGN đã đánh dấu
một bước ngoặt đáng kể trong việc điều trị các bệnh lý phổi không lây nặng giai đoạn cuối. Nghiên cứu này
tổng kết và phân tích các trường hợp nhập CSGN tại đơn vị từ năm 2012 đến năm 2017.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu và quan sát. Tất cả các bệnh nhân nhập đơn vị CSGN từ tháng 8/2012
đến tháng 8/2017 được đưa vào nghiên cứu. Các yếu tố nhân chủng học như tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp và
các yếu tố khác như thời gian nằm viện, triệu chứng lâm sàng, phân loại bệnh và liều lượng thuốc morphine sử
dụng cũng được phân tích. Theo dõi bệnh nhân tại phòng khám sau xuất viện cũng được trình bày trong
nghiên cứu này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2017
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 369 - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĔM 2012 ĐẾN NĔM 2017 PHAN VƯƠNG KHẮC THÁI1, NGUYỄN THỊ HỒNG THƠM2 VÀ CỘNG SỰ TÓM TẮT Mục tiêu: Chĕm sóc giảm nhẹ (CSGN) đã trở thành một phần chính yếu trong việc cung cấp chĕm sóc chất lượng cao cho bệnh nhân nặng mắc bệnh ác tính hay không ác tính. Thành lập vào tháng tám nĕm 2012 tại bệnh viện Phạm Ngoc Thạch (PNT) với đơn vị nội trú và phòng khám ngoại trú, đơn vị CSGN đã đánh dấu một bước ngoặt đáng kể trong việc điều trị các bệnh lý phổi không lây nặng giai đoạn cuối. Nghiên cứu này tổng kết và phân tích các trường hợp nhập CSGN tại đơn vị từ nĕm 2012 đến nĕm 2017. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu và quan sát. Tất cả các bệnh nhân nhập đơn vị CSGN từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2017 được đưa vào nghiên cứu. Các yếu tố nhân chủng học như tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp và các yếu tố khác như thời gian nằm viện, triệu chứng lâm sàng, phân loại bệnh và liều lượng thuốc morphine sử dụng cũng được phân tích. Theo dõi bệnh nhân tại phòng khám sau xuất viện cũng được trình bày trong nghiên cứu này. Kết quả: Trong thời gian 5 nĕm từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2017, có tất cả 500 ca nhập đơn vị CSGN. Tuổi trung bình 60,22 +/- 14,20 (thay đổi từ 16-97). Tỷ lệ nam: nữ là 2,28. Bệnh nhân trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ 52,4%. Về nghề nghiệp, người già về hưu chiếm 44%.Thời gian nằm viện trung bình là 14 ngày. Bệnh nhân ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ đông nhất 49,6%. Về chẩn đoán bệnh, 87% bệnh nhân là ung thư. Các triệu chứng lâm sàng (trong 2 nĕm 2016 và 2017) thường gặp là ho (65% và 75%), đau ngực (66% và 55%) và khó thở (57% và 56%). Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng morphine trong hai nĕm 2016-2017 lần lượt là 61% và 66% trong đó số viên morphine sử dụng cao nhất là 6 viên. Số bệnh nhân sau xuất viện theo dõi tại phòng khám chiếm tỷ lệ 12% với số lần đến khám trung bình là 5, cao nhất là 30 lần. Kết luận: Qua 5 nĕm hoạt động, đơn vị CSGN đã điều trị cho 500 bệnh nhân bệnh phổi không lây nặng giai đoạn cuối. Mặc dù còn nhiều hạn chế, giảm nhẹ triệu chứng và cố gắng cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân một phần nào là mục tiêu chính của đơn vị. Chĕm sóc giảm nhẹ vẫn luôn là cần thiết cho bệnh nhân. Duy trì, lồng ghép và phát triển bền vững là mục tiêu trong tương lai của CSGN tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. ABSTRACT Palliative Care at Pham Ngoc Thach Hospital, Ho Chi Minh City from 2012 to 2017 Aim: Palliative Care (PC) has become a crucial component of providing high-quality care to critically ill patients with malignant or non-malignant diseases. Officially opened in August 2012 at Pham Ngoc Thach Hospital (PNTH) with in-patient unit and out-patient clinic, our PC unit marked a significant milestone in treatment of end-stage serious non-communicable lung diseases. This study summarizes and analyzes all cases admitted into the PC unit from 2012 to 2017. Method: Retrospective and descriptive study. All patients admitted into the PC unit from 8/2012 to 8/2017 were enrolled into the study. The demographic factors like age, sex, address, occupation, and other factors such as length of hospital stay, clinical symptoms, classification of the diseases and the doses of morphine 1 TS.BS. Trưởng Khoa - Bệnh viện Lao và Phổi Phạm Ngọc Thạch.TP.HCM 2 CNĐD - Bệnh viện Lao và Phổi Phạm Ngọc Thạch.TP.HCM ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 370 were analyzed. Follow-up patients at out-patient clinic after discharge were also presented in this study. Result: In the 5-year period from 8/2012 to 8/2017, there were a total of 500 cases admitted to the PC unit. The mean age was 60.22 +/- 14.20 (range from 16-97). Male -female ratio was 2.28. The percentage of patients over 60 years old was 52.4%. For occupation, the retired elderly accounted for 44% of cases. The mean length of hospital stay was 14 days, with the patients from Ho Chi Minh City (HCMC) accounting for the highest proportion, at 49.6% of all cases. In terms of diagnosis, 87% of patients were diagnosed with cancer. The common clinical symptoms (in the years 2016 and 2017) were cough (65% and 75%), chest pain (66% and 55%) and dyspnea (57% and 56%). The rate of morphineuse in 2016 and 2017 were 61% and 66%, respectively with the highest dose at 6 tablets. The follow-up patient percentage at out-patient clinic after discharge was 12% with the mean follow-up number of 5, and a maximum of 30 times. Conclusion: After 5 years in operation, our PC unit has served 500 patients with end- stage serious non- communicable lung diseases. In spite of many limitations, the unit continues to strive to alleviate the patients ‘symptoms and improve their quality of life somehow. PC is always necessary for patients. Maintainability, integration and sustainable development are the goals of PC at PNTH in the future. MỞ ĐẦU Chĕm sóc giảm nhẹ (CSGN) là một chuyên ngành đa nhóm (bao gồm nội khoa, điều dưỡng, nhóm công tác xã hội, tôn giáo và các chuyên khoa khác khi cần thiết) chú trọng vào việc cải thiện cuộc sống của bệnh nhân mắc phải bệnh nặng cũng như quan tâm đến gia đình của họ. Bằng việc điều trị giảm đau, các triệu chứng khác, các vấn đề về tâm lý và tâm linh, việc dùng kỹ nĕng thông tin mới để thiết lập mục tiêu điều trị và giúp gắn kết việc điều trị với mục tiêu của từng cá nhân riêng biệt. Về lý tưởng, chĕm sóc giảm nhẹ bắt đầu từ khi chẩn đoán bệnh và kết hợp đồng thời với việc điều trị bệnh[1]. Ở Anh Quốc, các chuyên gia chĕm sóc sức khỏe phục vụ chủ yếu cho các bệnh nhân ung thư qua các nhóm nâng đỡ và nhà tế bần (hospice) đã phát triển nhanh trong 30 nĕm qua. Những đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ này đã chứng minh được tính hiệu quả, chấp nhận được. Tuy nhiên đa số bệnh nhân tử vong không nhận được những dịch vụ này mà nhận được những dịch vụ chĕm sóc từ bệnh viện, nhà an dưỡng (nursing home) và cộng đồng. Số bệnh nhân tĕng nhiều khả nĕng tử vong từ HIV/AIDS và số người già tĕng lên gần đây làm cho việc lồng ghép chĕm sóc giảm nhẹ vào bệnh viện, cộng đồng và các dịch vụ chĕm sóc sức khỏe ban đầu trở nên quan trọng. Chĕm sóc giảm nhẹ trở thành một phần từ giai đoạn chẩn đoán đến giai đoạn tử vong hơn là chỉ chú ý trong giai đoạn cuối cùng của bệnh[2]. Bệnh nhân ung thư phổi là những bệnh nhân có nguy cơ cao chịu nhiều đau khổ (suffering) do các triệu chứng nặng và dai dẳng, các rối loạn hô hấp đi kèm, tiến triển bệnh thường xuyên, và việc điều trị có thể làm nặng và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Chĕm sóc giảm nhẹ cho thấy có nhiều ích lợi cho bệnh nhân ung thư như là chất lượng cuộc sống tốt hơn, sự thỏa mãn ở bệnh nhân và gia đình tốt hơn, sự hiểu biết bệnh được cải thiện, ít gánh nặng triệu chứng, ít triệu chứng trầm cảm, chĕm sóc cuối đời ít nặng nề hơn và ngay cả cải thiện sống còn khi áp dụng chĕm sóc giảm nhẹ sớm. Vì những lý do này, nhiều tổ chức đã nhận thấy chĕm sóc giảm nhẹ như là một thành phần chính yếu trong chĕm sóc ung thư phổi, và chĕm sóc giảm nhẹ sớm được khuyến cáo cho bệnh nhân với bệnh di cĕn hay các triệu chứng dai dẳng. Hiểu sai về chĕm sóc giảm nhẹ thường đưa đến chuyển bệnh nhân đến chĕm sóc giảm nhẹ trễ. Không may, việc áp dụng chĕm sóc giảm nhẹ vừa ít vừa trễ thường gần đến giai đoạn cuối của bệnh, làm tĕng nguy cơ đau khổ cho bệnh nhân và cả người nhà của họ[3]. Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện hạng 1 trực thuộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh viện không chỉ khám, phát hiện và điều trị cho bệnh nhân lao mà còn cho bệnh nhân bệnh phổi với 4 khoa phổi và 1 khoa ung thư. Các bệnh nhân thuộc các thể bệnh phổi như là ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, dãn phế quản, bệnh phổi mô kẽ, xơ phổi, bệnh phổi nghề nghiệp, di chứng lao đường hô hấp. Nhiều bệnh nhân khi nhập viện đã ở giai đoạn muộn khi mà điều trị đặc hiệu bệnh không còn hiệu quả. Vì vậy nhu cầu chĕm sóc giảm nhẹ cho các bệnh lý phổi là cần thiết. Từ nĕm 2011, được sự giúp đỡ về chuyên môn kỹ thuật và tài chính của các tổ chức quốc tế và bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện đã cử các bác sĩ và điều dưỡng tham gia các lớp tập huấn ngắn và dài hạn về chĕm sóc giảm nhẹ trong cũng như ngoài nước. Vào ngày 26 tháng 7 nĕm 2012, đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ được thành lập tại bệnh viện với 6 giường, 3 bác sĩ và 2 điều dưỡng kiêm nhiệm phụ trách. Khoa nhận chĕm sóc và điều trị cho bệnh nhân với các bệnh phổi không lây như ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, bệnh phổi mô kẽ, bệnh phổi nghề nghiệp, bệnh di chứng đường hô hấp do lao và một số bệnh phổi khác. Qua 5 nĕm hoạt động (từ 2012-2017), đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ đã điều ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 371 trị và chĕm sóc cho các bệnh nhân bệnh phổi nặng giai đoạn cuối, góp phần giảm một phần nào nỗi đau khổ cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Vì vậy, chúng tôi sẽ tổng kết các kết quả thu được sau thời gian 5 nĕm hoạt động tại đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tất cả các bệnh nhân nhập đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2017 được ghi nhận vào sổ nhận bệnh chĕm sóc giảm nhẹ. Các bệnh nhân sẽ được ghi nhận về giới, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, thời gian nằm viện. Từ nĕm 2016- 2017, các triệu chứng lâm sàng cũng như số lượng thuốc Morphine sử dụng cũng sẽ được ghi nhận thêm. Bệnh nhân sau khi xuất viện sẽ được quản lý tại phòng khám vào chiều thứ nĕm và thứ sáu từ 14 giờ đến 16 giờ tại phòng 133 (lồng ghép chung với phòng khám dịch vụ). Người nhà (trong trường hợp bệnh nhân quá yếu không đến tái khám được) hay bệnh nhân đến tái khám theo lịch hẹn và được cấp thuốc morphine theo dõi (7-10 ngày). Các dữ liệu về tuổi, giới, thời gian sử dụng thuốc và liều lượng thuốc morphine dùng cũng được ghi nhận ở các bệnh nhân tái khám này. KẾT QUẢ Tổng số bệnh nhân nhập viện Có tất cả 500 bệnh nhân trong thời gian nghiên cứu được phân chia theo các nĕm như sau: Tháng 8/2012-tháng12/2012 58 Nĕm 2013: 92 Nĕm 2014: 101 Nĕm 2015: 86 Nĕm 2016: 90 Tháng1/2017-Tháng 8/2017: 73 Tổng cộng: 500 Giới tính (nam/ nữ) qua các nĕm Tỷ lệ Nam:nữ là 2,28 với nam 348 ca chiếm tỷ lệ 69% và nữ 152 ca chiếm tỷ lệ 31%. Tuổi trung bình của bệnh nhân qua các nĕm Tuổi trung bình bệnh nhân là 60,25. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 16 và lớn tuổi nhất là 97. Số bệnh nhân trên và bằng 60 tuổi là 262 ca (52,4%). Số bệnh nhân nhỏ hơn hay bằng 40 tuổi là 41 (8,2%). Tuổi bệnh nhân CSGN nhập viện qua từng nĕm không khác nhau qua phân tích ANOVA với p=0,1878. Nghề nghiệp Các bệnh nhân được chia làm 6 nhóm nghề nghiệp và ghi nhận như sau: già 221 bệnh nhân (tỷ lệ 44%), nội trợ 47 (9%), lao động chân tay 49 (10%), lao động trí óc 24 (5%), sinh viên học sinh 10 (2%) và nghề nghiệp tự do 149 (30%). Thời gian nằm viện trung bình Thời gian nằm viện trung bình là 13,81 ngày với ngắn nhất là 1 ngày và lâu nhất là 83 ngày. Phân bố địa lý bệnh nhân CSGN Có 30 địa phương và Campuchia có bệnh nhân nằm tại BV PNT trong thời gian 5 nĕm từ 2012-2017. Thành phố Hồ Chí Minh có số bệnh nhân đông nhất 248 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 49,6%. Chẩn đoán bệnh Trong thời gian 5 nĕm từ 2012-2017, đa số bệnh nhân là ung thư (phổi, màng phổi, nơi khác) với 435 ca chiếm tỷ lệ 87%. Số thứ tự Chẩn đoán Số ca Tỷ lệ phần trĕm 1 K phổi,màng phổi, nơi khác 435 87% 2 Lymphoma 2 3 Sarcoma phần mềm 1 4 Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính/ lao phổi củ 15 3% 5 Bệnh phổi mô kẽ/ histiocytosis 3 6 Nấm phổi 4 7 Nhiễm vi trùng lao không điển hình 2 8 Lao phổi, màng phổi, hạch do M.tb 25 5% 9 Viêm phổi 4 10 Phổi biệt trí 2 11 Tràn khí màng phổi 4 12 Nốt phổi 1 13 Thiếu máu 3 dòng 1 14 Ho ra máu chưa rõ nguyên nhân 1 Tổng cộng 500 Bảng 1. Chẩn đoán bệnh qua 5 nĕm Triệu chứng lâm sàng và sử dụng morphine trong 2 nĕm 2016-2017 Nĕm 2016, có 83 bệnh nhân được chẩn đoán K trong số 90 bệnh nhân nằm chĕm sóc giảm nhẹ. Triệu chứng lâm sàng ghi nhận như sau: ho 65% (54/83), đau ngực 66% (55/83), khó thở 57% ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 372 (48/83). Số bệnh nhân dùng morphine là 51 ca (61%), liều morphine dùng cao nhất là 4 viên (120mg)/ ngày. Nĕm 2017, có 60 bệnh nhân được chẩn đoán K trong số 73 bệnh nhân nằm chĕm sóc giảm nhẹ. Triệu chứng lâm sàng ghi nhận như sau: ho 75% (45/60), đau ngực 55% (33/60), khó thở 56% (34/60). Số bệnh nhân dùng morphine là 40 ca (66%), liều morphine dùng cao nhất là 6 viên (180mg)/ ngày. Theo dõi bệnh nhân Có 54 (12%) bệnh nhân ung thư trong tổng số 435 bệnh nhân theo dõi tại phòng khám CSGN. Giới tính nam có 32 ca (59,26%). Tuổi trung bình 59,57 (+/- 14,43), tuổi nhỏ nhất 20 và tuổi lớn nhất 84. Trung bình bệnh nhân đến khám là 5 lần, với ít nhất là 1 lần và nhiều nhất là 30 lần. Số viên morphine dùng thấp nhất là 1 cao nhất là 7, với trung bình là 2,5 viên. BÀN LUẬN Trong thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2017 (5 nĕm) có 500 bệnh nhân nằm đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ với trung bình 10 bệnh nhân mỗi tháng trong một đơn vị có 6 giường. Số liệu này không phải là nhiều so với nhu cầu các bệnh nhân bệnh ung thư cũng như bệnh phổi giai đoạn cuối tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Nhiều nguyên nhân đưa đến số bệnh không nhiều như là nhận thức các bác sĩ về chĕm sóc giảm nhẹ chưa cao, bản thân đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ cũng chưa đủ nhân sự chuyên sâu, và tâm lý bệnh nhân và người nhà cũng ngại nằm chĕm sóc giảm nhẹ. Đây cũng là những khó khĕn được đề cập nhiều ngay cả ở các nước phát triển[4]. Ở Việt Nam, sau khi được tư vấn bệnh từ bác sĩ, nhiều bệnh nhân và người nhà muốn xin về chĕm sóc tại nhà hay tìm kiếm phương pháp điều trị khác như thuốc nam, thuốc bắc. Về giới tính, nam chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ (nam: nữ = 2,28) phản ánh đúng phân bố nam nữ trong các bệnh, đặc biệt là ung thư phổi, nam có tỷ lệ cao hơn nữ có lẻ do nguyên nhân hút thuốc lá. Trong thời gian đầu thành lập đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ, đơn vị chỉ nhận bệnh nam, nên số bệnh nhân nam là 56 trên tổng số 58 ca, chỉ có 2 ca là nữ. Từ nĕm 2013, đơn vị đã mở rộng ra cho cả bệnh nhân nam và nữ. Trong một nghiên cứu ở Đan Mạch, các tác giả cho thấy nữ có tỷ lệ nhập viện cao hơn nam (39,5% so với 35,5%) và phân tích bằng hồi quy logistic đa biến cho thấy nữ nhập viện cao hơn nam (OR = 1,23; 95% CI:1,17-1,28) tuy nhiên sự khác nhau này chỉ thấy hơn nhà tế bần (hospice) (OR = 1,45; 95% CI:1,37-1,54) chứ không thấy ở đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ trong bệnh viện (OR = 1,06; 95% CI:1,00-1,11)[5]. Về tuổi bệnh nhân nhập viện, có tuổi trung bình là 60,22. Số bệnh nhân trên 60 tuổi là 262 ca chiếm tỷ lệ 52,4% và số bệnh nhân nhỏ hơn hay bằng 40 tuổi là 41 ca (8,2%). Trong nghiên cứu của Đan Mạch đề cập ở trên, đa số bệnh nhân trên 60 tuổi (85%) và chỉ 0,9% bệnh nhân từ 18-39 tuổi cho thấy đa số bệnh nhân vào chĕm sóc giảm nhẹ là người già[5]. Điều này cũng phù hợp thực tế người già mắc bệnh ở giai đoạn cuối nhiều hơn, điều trị đặc hiệu bệnh không còn hữu ích nữa cũng như bệnh tái phát lại sau một thời gian điều trị vào lúc trẻ tuổi. Bệnh nhân lớn tuổi, không còn làm việc tỷ lệ 44% cho thấy có mối tương quan gi tuổi và nghề nghiệp. Số còn lại chiếm 56% bao gồm các bệnh nhân vẫn còn trong khả nĕng làm việc nào đó như nội trợ 47 (9%), lao động chân tay 49 (10%), lao động trí óc 24 (5%), sinh viên học sinh 10 (2%) và nghề nghiệp tự do 149 (30%). Khả nĕng vẫn còn làm việc có ý nghĩa nhiều với bệnh nhân, điều này cho thấy bệnh nhân mong muốn có thể tự xử lý ít nhất là các nhu cầu cơ bản của mình trong những giai đoạn cuối đời theo một nghiên cứu từ Thụy Điển[6]. Thời gian nằm viện trung bình là 13,81 ngày với 10 bệnh nhân nằm chỉ 1 ngày (tỷ lệ 2%). Các bệnh nhân này do bệnh nặng hay do tâm lý không đồng ý nằm chĕm sóc giảm nhẹ khi mới chuyển qua đã xin về. Giá trị trung vị của thời gian nằm viện là 10 ngày với tứ phân vị 6-18 ngày. Trong một nghiên cứu về thời gian nằm viện với một số yếu tố nguy cơ ở các trung tâm chĕm sóc giảm nhẹ trong 3 nĕm tại Thổ Nhĩ Kỳ, các tác giả thấy các yếu tố như ung thư, thiếu máu não và lớn tuổi có thời gian nằm viện ngắn, trái lại các yếu tố như nhiễm trùng bệnh viện, cao huyết áp, nuôi ĕn bằng đường tĩnh mạch và mở dạ dày qua da làm kéo dài thời gian nằm viện. Tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thường bệnh nhân từ các khoa khác chuyển đến, thường gặp nhất là khoa ung thư, chỉ khi nào các biện pháp điều trị không còn hiệu quả nữa, hay bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn cho điều trị ngoại, hóa trị và xạ trị, hay bệnh nhân có những tác dụng nặng phải ngừng việc điều trị. Vì vậy việc lồng ghép chĕm sóc giảm nhẹ vào các khoa này sẽ giúp ích nhiều cho bệnh nhân. Có 30 địa phương ở Việt Nam có bệnh nhân và 2 bệnh nhân ở Campuchia nằm tại đơn vị CSGN trong thời gian từ 2012 đến 2017. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số bệnh nhân đông nhất 248 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 49,6%. Các tỉnh gần như là Long An, Tiền Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp, và Tây Ninh cũng có số bệnh nhân chiếm tỷ lệ lần lượt là 7%, 4%, 4%, 3% và 3%. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 373 Về các bệnh nằm trong đơn vị CSGN tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, đa số là ung thư bao gồm phổi, màng phổi và một số các ung thư ở cơ quan khác như ung thư gan, ung thư đại tràng có di cĕn hay không đến phổi với tỷ lệ lên đến 87%, ngoài ra còn có 2 ca Lymphoma và 1 ca sarcoma phần mềm. Trên thế giới, ung thư phổi chiếm 12% tất cả các loại ung thư và có tỷ lệ tử vong cao nhất hàng nĕm ở nam và nữ. Mục đích chung là chữa và kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân. Hầu hết 60% các bệnh nhân khi chẩn đoán bệnh đã ở giai đoạn không điều trị tận gốc. Do đó điều trị giảm nhẹ và nâng đở là chọn lựa quan trọng[7]. Trong 2 nĕm 2016-2017, chỉ tính riêng các bệnh nhân ung thư tại đơn vị CSGN, 3 triệu chứng thường gặp nhất là ho, đau ngực và khó thở lần lượt chiếm tỷ lệ 65%, 66% và 57% trong nĕm 2016 và 75%, 55% và 56% trong nĕm 2017. So với y vĕn trên thế giới tỷ lệ triệu chứng ho 47%-86%, đau ngực 25%-50% và khó thở 48%-69%[7]. Ngoài ra còn rất nhiều triệu chứng khác ghi nhận được ở bệnh nhân trong 2 nĕm 2016-2017 như là đau đầu, rối loạn tri giác, sốt, vàng mắt, đau lưng, loét mông, yếu nữa người, tê tay, đau hạ sườn phải, nôn, nấc cụt, nuốt nghẹn, chán ĕn, sụt cân, đi cầu phân đen, ho ra máu, ảo giác, tiêu chảy, khàn giọng, phù tay và chướng bụng. Bệnh nhân sau khi nằm nội trú, xuất viện được hẹn theo dõi tại phòng khám. Số bệnh nhân theo dõi tại phòng khám chiếm tỷ lệ 12%. Các bệnh nhân sẽ được theo dõi và cho morphine ngoại trú. Nếu bệnh nhân yếu không thể đến tái khám, người nhà có thể đến lảnh thuốc tại bệnh viện. Số lần tái khám theo dỏi ở bệnh nhân cao nhất là 30 lần, trung bình là 5 lần. KẾT LUẬN Qua 5 nĕm (2012-2017) từ khi được thành lập và duy trì đến nay, được sự giúp đỡ và hỗ trợ, động viên của các tổ chức quốc tế cũng như Ban Giám đốc và nhiều khoa phòng bệnh viện, đơn vị CSGN bệnh viện Phạm Ngọc Thạch đã góp một phần trong việc điều trị, giảm nỗi đau cho bệnh nhân ung thư cũng như bệnh nhân mắc các bệnh phổi mãn tính không lây khác. Tiếp tục duy trì phát triển ổn định và bền vững là việc cần thiết trong tương lai ở bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Chĕm sóc giảm nhẹ là cần thiết và mang tính nhân vĕn. Nhiều bệnh nhân vẫn chưa tiếp cận chĕm sóc giảm nhẹ về cuối đời. Lồng ghép chĕm sóc giảm nhẹ vào một số khoa có số bệnh nhân mắc bệnh mãn tính nặng nhiều là việc nên cân nhắc và thực hiện trong tương lai. Thành lập nhóm chĕm sóc giảm nhẹ để có thể cho hướng điều trị chĕm sóc giảm nhẹ đến bệnh nhân trong mọi trường hợp. Duy trì, phát triển và đào tạo chuyên sâu về chĕm sóc giảm nhẹ cho đội ngũ nhân viên y tế cũng như từng bước liên kết với nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau như nhóm công tác xã hội, bác sĩ tâm lý, chuyên gia lĩnh vực tôn giáo thành một nhóm đa thành phần để góp phần phục vụ bệnh nhân tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Morrisin, K.A.a.R., Palliative care for the Seriously Ill. N England J Med, 2015. 373(8): p. 747-55. 2. Higginson, I., Palliative care: a review of past changes and future trends. J Public Health Med, 1993. 15(1): p. 3-8. 3. Bade, B.C. and G.A. Silvestri, Palliative Care in Lung Cancer: A Review. Semin Respir Crit Care Med, 2016. 37(5): p. 750-759. 4. Hawley, P., Barriers to Access to Palliative Care. Palliat Care, 2017. 10: p. 1178224216688887. 5. Adsersen, M., et al., Is admittance to specialised palliative care among cancer patients related to sex, age and cancer diagnosis? A nation-wide study from the Danish Palliative Care Database (DPD). BMC Palliat Care, 2017. 16(1): p. 21. 6. Eriksson, L., I. Oster, and M. Lindberg, The meaning of occupation for patients in palliative care when in hospital. Palliat Support Care, 2016. 14(5): p. 541-52. 7. Farbicka, P. and A. Nowicki, Palliative care in patients with lung cancer. Contemp Oncol (Pozn), 2013. 17(3): p. 238-45.
File đính kèm:
cham_soc_giam_nhe_tai_benh_vien_pham_ngoc_thach_thanh_pho_ho.pdf

