Chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2017

Mục tiêu: Chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) đã trở thành một phần chính yếu trong việc cung cấp chăm sóc

chất lượng cao cho bệnh nhân nặng mắc bệnh ác tính hay không ác tính. Thành lập vào tháng tám năm 2012

tại bệnh viện Phạm Ngoc Thạch (PNT) với đơn vị nội trú và phòng khám ngoại trú, đơn vị CSGN đã đánh dấu

một bước ngoặt đáng kể trong việc điều trị các bệnh lý phổi không lây nặng giai đoạn cuối. Nghiên cứu này

tổng kết và phân tích các trường hợp nhập CSGN tại đơn vị từ năm 2012 đến năm 2017.

Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu và quan sát. Tất cả các bệnh nhân nhập đơn vị CSGN từ tháng 8/2012

đến tháng 8/2017 được đưa vào nghiên cứu. Các yếu tố nhân chủng học như tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp và

các yếu tố khác như thời gian nằm viện, triệu chứng lâm sàng, phân loại bệnh và liều lượng thuốc morphine sử

dụng cũng được phân tích. Theo dõi bệnh nhân tại phòng khám sau xuất viện cũng được trình bày trong

nghiên cứu này.

pdf 5 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2017

Chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2017
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
369 
- 
CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH, 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĔM 2012 ĐẾN NĔM 2017 
PHAN VƯƠNG KHẮC THÁI1, NGUYỄN THỊ HỒNG THƠM2 VÀ CỘNG SỰ 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Chĕm sóc giảm nhẹ (CSGN) đã trở thành một phần chính yếu trong việc cung cấp chĕm sóc 
chất lượng cao cho bệnh nhân nặng mắc bệnh ác tính hay không ác tính. Thành lập vào tháng tám nĕm 2012 
tại bệnh viện Phạm Ngoc Thạch (PNT) với đơn vị nội trú và phòng khám ngoại trú, đơn vị CSGN đã đánh dấu 
một bước ngoặt đáng kể trong việc điều trị các bệnh lý phổi không lây nặng giai đoạn cuối. Nghiên cứu này 
tổng kết và phân tích các trường hợp nhập CSGN tại đơn vị từ nĕm 2012 đến nĕm 2017. 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu và quan sát. Tất cả các bệnh nhân nhập đơn vị CSGN từ tháng 8/2012 
đến tháng 8/2017 được đưa vào nghiên cứu. Các yếu tố nhân chủng học như tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp và 
các yếu tố khác như thời gian nằm viện, triệu chứng lâm sàng, phân loại bệnh và liều lượng thuốc morphine sử 
dụng cũng được phân tích. Theo dõi bệnh nhân tại phòng khám sau xuất viện cũng được trình bày trong 
nghiên cứu này. 
Kết quả: Trong thời gian 5 nĕm từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2017, có tất cả 500 ca nhập đơn vị CSGN. 
Tuổi trung bình 60,22 +/- 14,20 (thay đổi từ 16-97). Tỷ lệ nam: nữ là 2,28. Bệnh nhân trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ 
52,4%. Về nghề nghiệp, người già về hưu chiếm 44%.Thời gian nằm viện trung bình là 14 ngày. Bệnh nhân ở 
thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ đông nhất 49,6%. Về chẩn đoán bệnh, 87% bệnh nhân là ung thư. Các triệu 
chứng lâm sàng (trong 2 nĕm 2016 và 2017) thường gặp là ho (65% và 75%), đau ngực (66% và 55%) và khó 
thở (57% và 56%). Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng morphine trong hai nĕm 2016-2017 lần lượt là 61% và 66% trong 
đó số viên morphine sử dụng cao nhất là 6 viên. Số bệnh nhân sau xuất viện theo dõi tại phòng khám chiếm tỷ 
lệ 12% với số lần đến khám trung bình là 5, cao nhất là 30 lần. 
Kết luận: Qua 5 nĕm hoạt động, đơn vị CSGN đã điều trị cho 500 bệnh nhân bệnh phổi không lây nặng 
giai đoạn cuối. Mặc dù còn nhiều hạn chế, giảm nhẹ triệu chứng và cố gắng cải thiện chất lượng cuộc sống 
bệnh nhân một phần nào là mục tiêu chính của đơn vị. Chĕm sóc giảm nhẹ vẫn luôn là cần thiết cho bệnh 
nhân. Duy trì, lồng ghép và phát triển bền vững là mục tiêu trong tương lai của CSGN tại bệnh viện Phạm Ngọc 
Thạch. 
ABSTRACT 
Palliative Care at Pham Ngoc Thach Hospital, Ho Chi Minh City from 2012 to 2017 
Aim: Palliative Care (PC) has become a crucial component of providing high-quality care to critically ill 
patients with malignant or non-malignant diseases. Officially opened in August 2012 at Pham Ngoc Thach 
Hospital (PNTH) with in-patient unit and out-patient clinic, our PC unit marked a significant milestone in 
treatment of end-stage serious non-communicable lung diseases. This study summarizes and analyzes all 
cases admitted into the PC unit from 2012 to 2017. 
Method: Retrospective and descriptive study. All patients admitted into the PC unit from 8/2012 to 8/2017 
were enrolled into the study. The demographic factors like age, sex, address, occupation, and other factors 
such as length of hospital stay, clinical symptoms, classification of the diseases and the doses of morphine 
1
 TS.BS. Trưởng Khoa - Bệnh viện Lao và Phổi Phạm Ngọc Thạch.TP.HCM 
2
 CNĐD - Bệnh viện Lao và Phổi Phạm Ngọc Thạch.TP.HCM 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
370 
were analyzed. Follow-up patients at out-patient clinic after discharge were also presented in this study. 
Result: In the 5-year period from 8/2012 to 8/2017, there were a total of 500 cases admitted to the PC unit. 
The mean age was 60.22 +/- 14.20 (range from 16-97). Male -female ratio was 2.28. The percentage of 
patients over 60 years old was 52.4%. For occupation, the retired elderly accounted for 44% of cases. The 
mean length of hospital stay was 14 days, with the patients from Ho Chi Minh City (HCMC) accounting for the 
highest proportion, at 49.6% of all cases. In terms of diagnosis, 87% of patients were diagnosed with cancer. 
The common clinical symptoms (in the years 2016 and 2017) were cough (65% and 75%), chest pain (66% and 
55%) and dyspnea (57% and 56%). The rate of morphineuse in 2016 and 2017 were 61% and 66%, 
respectively with the highest dose at 6 tablets. The follow-up patient percentage at out-patient clinic after 
discharge was 12% with the mean follow-up number of 5, and a maximum of 30 times. 
Conclusion: After 5 years in operation, our PC unit has served 500 patients with end- stage serious non-
communicable lung diseases. In spite of many limitations, the unit continues to strive to alleviate the patients 
‘symptoms and improve their quality of life somehow. PC is always necessary for patients. Maintainability, 
integration and sustainable development are the goals of PC at PNTH in the future. 
MỞ ĐẦU 
Chĕm sóc giảm nhẹ (CSGN) là một chuyên 
ngành đa nhóm (bao gồm nội khoa, điều dưỡng, 
nhóm công tác xã hội, tôn giáo và các chuyên khoa 
khác khi cần thiết) chú trọng vào việc cải thiện cuộc 
sống của bệnh nhân mắc phải bệnh nặng cũng như 
quan tâm đến gia đình của họ. Bằng việc điều trị 
giảm đau, các triệu chứng khác, các vấn đề về tâm 
lý và tâm linh, việc dùng kỹ nĕng thông tin mới để 
thiết lập mục tiêu điều trị và giúp gắn kết việc điều trị 
với mục tiêu của từng cá nhân riêng biệt. Về lý 
tưởng, chĕm sóc giảm nhẹ bắt đầu từ khi chẩn đoán 
bệnh và kết hợp đồng thời với việc điều trị bệnh[1]. 
Ở Anh Quốc, các chuyên gia chĕm sóc sức khỏe 
phục vụ chủ yếu cho các bệnh nhân ung thư qua các 
nhóm nâng đỡ và nhà tế bần (hospice) đã phát triển 
nhanh trong 30 nĕm qua. Những đơn vị chĕm sóc 
giảm nhẹ này đã chứng minh được tính hiệu quả, 
chấp nhận được. Tuy nhiên đa số bệnh nhân tử 
vong không nhận được những dịch vụ này mà nhận 
được những dịch vụ chĕm sóc từ bệnh viện, nhà an 
dưỡng (nursing home) và cộng đồng. Số bệnh nhân 
tĕng nhiều khả nĕng tử vong từ HIV/AIDS và số 
người già tĕng lên gần đây làm cho việc lồng ghép 
chĕm sóc giảm nhẹ vào bệnh viện, cộng đồng và 
các dịch vụ chĕm sóc sức khỏe ban đầu trở nên 
quan trọng. Chĕm sóc giảm nhẹ trở thành một phần 
từ giai đoạn chẩn đoán đến giai đoạn tử vong hơn là 
chỉ chú ý trong giai đoạn cuối cùng của bệnh[2]. 
Bệnh nhân ung thư phổi là những bệnh nhân có 
nguy cơ cao chịu nhiều đau khổ (suffering) do các 
triệu chứng nặng và dai dẳng, các rối loạn hô hấp đi 
kèm, tiến triển bệnh thường xuyên, và việc điều trị 
có thể làm nặng và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc 
sống. Chĕm sóc giảm nhẹ cho thấy có nhiều ích lợi 
cho bệnh nhân ung thư như là chất lượng cuộc sống 
tốt hơn, sự thỏa mãn ở bệnh nhân và gia đình tốt 
hơn, sự hiểu biết bệnh được cải thiện, ít gánh nặng 
triệu chứng, ít triệu chứng trầm cảm, chĕm sóc cuối 
đời ít nặng nề hơn và ngay cả cải thiện sống còn khi 
áp dụng chĕm sóc giảm nhẹ sớm. Vì những lý do 
này, nhiều tổ chức đã nhận thấy chĕm sóc giảm nhẹ 
như là một thành phần chính yếu trong chĕm sóc 
ung thư phổi, và chĕm sóc giảm nhẹ sớm được 
khuyến cáo cho bệnh nhân với bệnh di cĕn hay các 
triệu chứng dai dẳng. Hiểu sai về chĕm sóc giảm 
nhẹ thường đưa đến chuyển bệnh nhân đến chĕm 
sóc giảm nhẹ trễ. Không may, việc áp dụng chĕm 
sóc giảm nhẹ vừa ít vừa trễ thường gần đến giai 
đoạn cuối của bệnh, làm tĕng nguy cơ đau khổ cho 
bệnh nhân và cả người nhà của họ[3]. 
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện hạng 
1 trực thuộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh 
viện không chỉ khám, phát hiện và điều trị cho bệnh 
nhân lao mà còn cho bệnh nhân bệnh phổi với 4 
khoa phổi và 1 khoa ung thư. Các bệnh nhân thuộc 
các thể bệnh phổi như là ung thư phổi, bệnh phổi tắc 
nghẽn mãn tính, dãn phế quản, bệnh phổi mô kẽ, xơ 
phổi, bệnh phổi nghề nghiệp, di chứng lao đường hô 
hấp. Nhiều bệnh nhân khi nhập viện đã ở giai đoạn 
muộn khi mà điều trị đặc hiệu bệnh không còn hiệu 
quả. Vì vậy nhu cầu chĕm sóc giảm nhẹ cho các 
bệnh lý phổi là cần thiết. Từ nĕm 2011, được sự 
giúp đỡ về chuyên môn kỹ thuật và tài chính của các 
tổ chức quốc tế và bệnh viện Ung Bướu thành phố 
Hồ Chí Minh, bệnh viện đã cử các bác sĩ và điều 
dưỡng tham gia các lớp tập huấn ngắn và dài hạn 
về chĕm sóc giảm nhẹ trong cũng như ngoài nước. 
Vào ngày 26 tháng 7 nĕm 2012, đơn vị chĕm sóc 
giảm nhẹ được thành lập tại bệnh viện với 6 giường, 
3 bác sĩ và 2 điều dưỡng kiêm nhiệm phụ trách. 
Khoa nhận chĕm sóc và điều trị cho bệnh nhân với 
các bệnh phổi không lây như ung thư phổi, bệnh 
phổi tắc nghẽn mãn tính, bệnh phổi mô kẽ, bệnh 
phổi nghề nghiệp, bệnh di chứng đường hô hấp do 
lao và một số bệnh phổi khác. Qua 5 nĕm hoạt động 
(từ 2012-2017), đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ đã điều 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
371 
trị và chĕm sóc cho các bệnh nhân bệnh phổi nặng 
giai đoạn cuối, góp phần giảm một phần nào nỗi đau 
khổ cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. 
Vì vậy, chúng tôi sẽ tổng kết các kết quả thu 
được sau thời gian 5 nĕm hoạt động tại đơn vị chĕm 
sóc giảm nhẹ bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tất cả các bệnh nhân nhập đơn vị chĕm sóc 
giảm nhẹ từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2017 được 
ghi nhận vào sổ nhận bệnh chĕm sóc giảm nhẹ. Các 
bệnh nhân sẽ được ghi nhận về giới, tuổi, nghề 
nghiệp, địa chỉ, thời gian nằm viện. Từ nĕm 2016-
2017, các triệu chứng lâm sàng cũng như số lượng 
thuốc Morphine sử dụng cũng sẽ được ghi nhận 
thêm. Bệnh nhân sau khi xuất viện sẽ được quản lý 
tại phòng khám vào chiều thứ nĕm và thứ sáu từ 14 
giờ đến 16 giờ tại phòng 133 (lồng ghép chung với 
phòng khám dịch vụ). Người nhà (trong trường hợp 
bệnh nhân quá yếu không đến tái khám được) hay 
bệnh nhân đến tái khám theo lịch hẹn và được cấp 
thuốc morphine theo dõi (7-10 ngày). Các dữ liệu về 
tuổi, giới, thời gian sử dụng thuốc và liều lượng 
thuốc morphine dùng cũng được ghi nhận ở các 
bệnh nhân tái khám này. 
KẾT QUẢ 
Tổng số bệnh nhân nhập viện 
Có tất cả 500 bệnh nhân trong thời gian nghiên 
cứu được phân chia theo các nĕm như sau: 
Tháng 8/2012-tháng12/2012 58 
Nĕm 2013: 92 
Nĕm 2014: 101 
Nĕm 2015: 86 
Nĕm 2016: 90 
Tháng1/2017-Tháng 8/2017: 73 
Tổng cộng: 500 
Giới tính (nam/ nữ) qua các nĕm 
Tỷ lệ Nam:nữ là 2,28 với nam 348 ca chiếm tỷ 
lệ 69% và nữ 152 ca chiếm tỷ lệ 31%. 
Tuổi trung bình của bệnh nhân qua các nĕm 
Tuổi trung bình bệnh nhân là 60,25. Bệnh nhân 
nhỏ tuổi nhất là 16 và lớn tuổi nhất là 97. Số bệnh 
nhân trên và bằng 60 tuổi là 262 ca (52,4%). Số 
bệnh nhân nhỏ hơn hay bằng 40 tuổi là 41 (8,2%). 
Tuổi bệnh nhân CSGN nhập viện qua từng nĕm 
không khác nhau qua phân tích ANOVA với 
p=0,1878. 
Nghề nghiệp 
Các bệnh nhân được chia làm 6 nhóm nghề 
nghiệp và ghi nhận như sau: già 221 bệnh nhân 
(tỷ lệ 44%), nội trợ 47 (9%), lao động chân tay 49 
(10%), lao động trí óc 24 (5%), sinh viên học sinh 10 
(2%) và nghề nghiệp tự do 149 (30%). 
Thời gian nằm viện trung bình 
Thời gian nằm viện trung bình là 13,81 ngày với 
ngắn nhất là 1 ngày và lâu nhất là 83 ngày. 
Phân bố địa lý bệnh nhân CSGN 
Có 30 địa phương và Campuchia có bệnh nhân 
nằm tại BV PNT trong thời gian 5 nĕm từ 2012-2017. 
Thành phố Hồ Chí Minh có số bệnh nhân đông nhất 
248 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 49,6%. 
Chẩn đoán bệnh 
Trong thời gian 5 nĕm từ 2012-2017, đa số 
bệnh nhân là ung thư (phổi, màng phổi, nơi khác) 
với 435 ca chiếm tỷ lệ 87%. 
Số 
thứ 
tự 
Chẩn đoán 
Số ca Tỷ lệ 
phần 
trĕm 
1 K phổi,màng phổi, nơi khác 435 87% 
2 Lymphoma 2 
3 Sarcoma phần mềm 1 
4 Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính/ 
lao phổi củ 15 3% 
5 Bệnh phổi mô kẽ/ histiocytosis 3 
6 Nấm phổi 4 
7 Nhiễm vi trùng lao không điển 
hình 
2 
8 Lao phổi, màng phổi, hạch do 
M.tb 
25 5% 
9 Viêm phổi 4 
10 Phổi biệt trí 2 
11 Tràn khí màng phổi 4 
12 Nốt phổi 1 
13 Thiếu máu 3 dòng 1 
14 Ho ra máu chưa rõ nguyên nhân 1 
Tổng cộng 500 
Bảng 1. Chẩn đoán bệnh qua 5 nĕm 
Triệu chứng lâm sàng và sử dụng morphine 
trong 2 nĕm 2016-2017 
Nĕm 2016, có 83 bệnh nhân được chẩn đoán K 
trong số 90 bệnh nhân nằm chĕm sóc giảm nhẹ. 
Triệu chứng lâm sàng ghi nhận như sau: ho 65% 
(54/83), đau ngực 66% (55/83), khó thở 57% 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
372 
(48/83). Số bệnh nhân dùng morphine là 51 ca 
(61%), liều morphine dùng cao nhất là 4 viên 
(120mg)/ ngày. 
Nĕm 2017, có 60 bệnh nhân được chẩn đoán K 
trong số 73 bệnh nhân nằm chĕm sóc giảm nhẹ. 
Triệu chứng lâm sàng ghi nhận như sau: ho 75% 
(45/60), đau ngực 55% (33/60), khó thở 56% 
(34/60). Số bệnh nhân dùng morphine là 40 ca 
(66%), liều morphine dùng cao nhất là 6 viên 
(180mg)/ ngày. 
Theo dõi bệnh nhân 
Có 54 (12%) bệnh nhân ung thư trong tổng số 
435 bệnh nhân theo dõi tại phòng khám CSGN. 
Giới tính nam có 32 ca (59,26%). Tuổi trung 
bình 59,57 (+/- 14,43), tuổi nhỏ nhất 20 và tuổi lớn 
nhất 84. Trung bình bệnh nhân đến khám là 5 lần, 
với ít nhất là 1 lần và nhiều nhất là 30 lần. Số viên 
morphine dùng thấp nhất là 1 cao nhất là 7, với trung 
bình là 2,5 viên. 
BÀN LUẬN 
Trong thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 
8/2017 (5 nĕm) có 500 bệnh nhân nằm đơn vị chĕm 
sóc giảm nhẹ với trung bình 10 bệnh nhân mỗi tháng 
trong một đơn vị có 6 giường. Số liệu này không 
phải là nhiều so với nhu cầu các bệnh nhân bệnh 
ung thư cũng như bệnh phổi giai đoạn cuối tại bệnh 
viện Phạm Ngọc Thạch. Nhiều nguyên nhân đưa 
đến số bệnh không nhiều như là nhận thức các bác 
sĩ về chĕm sóc giảm nhẹ chưa cao, bản thân đơn vị 
chĕm sóc giảm nhẹ cũng chưa đủ nhân sự chuyên 
sâu, và tâm lý bệnh nhân và người nhà cũng ngại 
nằm chĕm sóc giảm nhẹ. Đây cũng là những khó 
khĕn được đề cập nhiều ngay cả ở các nước phát 
triển[4]. Ở Việt Nam, sau khi được tư vấn bệnh từ 
bác sĩ, nhiều bệnh nhân và người nhà muốn xin về 
chĕm sóc tại nhà hay tìm kiếm phương pháp điều trị 
khác như thuốc nam, thuốc bắc. 
Về giới tính, nam chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ 
(nam: nữ = 2,28) phản ánh đúng phân bố nam nữ 
trong các bệnh, đặc biệt là ung thư phổi, nam có tỷ 
lệ cao hơn nữ có lẻ do nguyên nhân hút thuốc lá. 
Trong thời gian đầu thành lập đơn vị chĕm sóc giảm 
nhẹ, đơn vị chỉ nhận bệnh nam, nên số bệnh nhân 
nam là 56 trên tổng số 58 ca, chỉ có 2 ca là nữ. Từ 
nĕm 2013, đơn vị đã mở rộng ra cho cả bệnh nhân 
nam và nữ. Trong một nghiên cứu ở Đan Mạch, các 
tác giả cho thấy nữ có tỷ lệ nhập viện cao hơn nam 
(39,5% so với 35,5%) và phân tích bằng hồi quy 
logistic đa biến cho thấy nữ nhập viện cao hơn nam 
(OR = 1,23; 95% CI:1,17-1,28) tuy nhiên sự khác 
nhau này chỉ thấy hơn nhà tế bần (hospice) 
(OR = 1,45; 95% CI:1,37-1,54) chứ không thấy ở 
đơn vị chĕm sóc giảm nhẹ trong bệnh viện 
(OR = 1,06; 95% CI:1,00-1,11)[5]. 
Về tuổi bệnh nhân nhập viện, có tuổi trung bình 
là 60,22. Số bệnh nhân trên 60 tuổi là 262 ca chiếm 
tỷ lệ 52,4% và số bệnh nhân nhỏ hơn hay bằng 40 
tuổi là 41 ca (8,2%). Trong nghiên cứu của 
Đan Mạch đề cập ở trên, đa số bệnh nhân trên 60 
tuổi (85%) và chỉ 0,9% bệnh nhân từ 18-39 tuổi cho 
thấy đa số bệnh nhân vào chĕm sóc giảm nhẹ là 
người già[5]. Điều này cũng phù hợp thực tế người 
già mắc bệnh ở giai đoạn cuối nhiều hơn, điều trị 
đặc hiệu bệnh không còn hữu ích nữa cũng như 
bệnh tái phát lại sau một thời gian điều trị vào lúc 
trẻ tuổi. 
Bệnh nhân lớn tuổi, không còn làm việc tỷ lệ 
44% cho thấy có mối tương quan gi tuổi và nghề 
nghiệp. Số còn lại chiếm 56% bao gồm các bệnh 
nhân vẫn còn trong khả nĕng làm việc nào đó như 
nội trợ 47 (9%), lao động chân tay 49 (10%), lao 
động trí óc 24 (5%), sinh viên học sinh 10 (2%) và 
nghề nghiệp tự do 149 (30%). Khả nĕng vẫn còn làm 
việc có ý nghĩa nhiều với bệnh nhân, điều này cho 
thấy bệnh nhân mong muốn có thể tự xử lý ít nhất là 
các nhu cầu cơ bản của mình trong những giai đoạn 
cuối đời theo một nghiên cứu từ Thụy Điển[6]. 
Thời gian nằm viện trung bình là 13,81 ngày với 
10 bệnh nhân nằm chỉ 1 ngày (tỷ lệ 2%). Các bệnh 
nhân này do bệnh nặng hay do tâm lý không đồng ý 
nằm chĕm sóc giảm nhẹ khi mới chuyển qua đã xin 
về. Giá trị trung vị của thời gian nằm viện là 10 ngày 
với tứ phân vị 6-18 ngày. Trong một nghiên cứu về 
thời gian nằm viện với một số yếu tố nguy cơ ở các 
trung tâm chĕm sóc giảm nhẹ trong 3 nĕm tại 
Thổ Nhĩ Kỳ, các tác giả thấy các yếu tố như ung thư, 
thiếu máu não và lớn tuổi có thời gian nằm viện 
ngắn, trái lại các yếu tố như nhiễm trùng bệnh viện, 
cao huyết áp, nuôi ĕn bằng đường tĩnh mạch và mở 
dạ dày qua da làm kéo dài thời gian nằm viện. 
Tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thường bệnh nhân 
từ các khoa khác chuyển đến, thường gặp nhất là 
khoa ung thư, chỉ khi nào các biện pháp điều trị 
không còn hiệu quả nữa, hay bệnh nhân không đủ 
tiêu chuẩn cho điều trị ngoại, hóa trị và xạ trị, hay 
bệnh nhân có những tác dụng nặng phải ngừng việc 
điều trị. Vì vậy việc lồng ghép chĕm sóc giảm nhẹ 
vào các khoa này sẽ giúp ích nhiều cho bệnh nhân. 
Có 30 địa phương ở Việt Nam có bệnh nhân và 
2 bệnh nhân ở Campuchia nằm tại đơn vị CSGN 
trong thời gian từ 2012 đến 2017. Thành phố Hồ Chí 
Minh là nơi có số bệnh nhân đông nhất 248 bệnh 
nhân chiếm tỷ lệ 49,6%. Các tỉnh gần như là Long 
An, Tiền Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp, và Tây Ninh 
cũng có số bệnh nhân chiếm tỷ lệ lần lượt là 7%, 
4%, 4%, 3% và 3%. 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
373 
Về các bệnh nằm trong đơn vị CSGN tại bệnh 
viện Phạm Ngọc Thạch, đa số là ung thư bao gồm 
phổi, màng phổi và một số các ung thư ở cơ quan 
khác như ung thư gan, ung thư đại tràng có di cĕn 
hay không đến phổi với tỷ lệ lên đến 87%, ngoài ra 
còn có 2 ca Lymphoma và 1 ca sarcoma phần mềm. 
Trên thế giới, ung thư phổi chiếm 12% tất cả các loại 
ung thư và có tỷ lệ tử vong cao nhất hàng nĕm ở 
nam và nữ. Mục đích chung là chữa và kéo dài thời 
gian sống cho bệnh nhân. Hầu hết 60% các bệnh 
nhân khi chẩn đoán bệnh đã ở giai đoạn không điều 
trị tận gốc. Do đó điều trị giảm nhẹ và nâng đở là 
chọn lựa quan trọng[7]. 
Trong 2 nĕm 2016-2017, chỉ tính riêng các bệnh 
nhân ung thư tại đơn vị CSGN, 3 triệu chứng thường 
gặp nhất là ho, đau ngực và khó thở lần lượt chiếm 
tỷ lệ 65%, 66% và 57% trong nĕm 2016 và 75%, 
55% và 56% trong nĕm 2017. So với y vĕn trên 
thế giới tỷ lệ triệu chứng ho 47%-86%, đau ngực 
25%-50% và khó thở 48%-69%[7]. Ngoài ra còn rất 
nhiều triệu chứng khác ghi nhận được ở bệnh nhân 
trong 2 nĕm 2016-2017 như là đau đầu, rối loạn tri 
giác, sốt, vàng mắt, đau lưng, loét mông, yếu nữa 
người, tê tay, đau hạ sườn phải, nôn, nấc cụt, nuốt 
nghẹn, chán ĕn, sụt cân, đi cầu phân đen, ho ra 
máu, ảo giác, tiêu chảy, khàn giọng, phù tay và 
chướng bụng. 
Bệnh nhân sau khi nằm nội trú, xuất viện được 
hẹn theo dõi tại phòng khám. Số bệnh nhân theo dõi 
tại phòng khám chiếm tỷ lệ 12%. Các bệnh nhân sẽ 
được theo dõi và cho morphine ngoại trú. Nếu bệnh 
nhân yếu không thể đến tái khám, người nhà có thể 
đến lảnh thuốc tại bệnh viện. Số lần tái khám theo 
dỏi ở bệnh nhân cao nhất là 30 lần, trung bình là 
5 lần. 
KẾT LUẬN 
Qua 5 nĕm (2012-2017) từ khi được thành lập 
và duy trì đến nay, được sự giúp đỡ và hỗ trợ, động 
viên của các tổ chức quốc tế cũng như Ban Giám 
đốc và nhiều khoa phòng bệnh viện, đơn vị CSGN 
bệnh viện Phạm Ngọc Thạch đã góp một phần trong 
việc điều trị, giảm nỗi đau cho bệnh nhân ung thư 
cũng như bệnh nhân mắc các bệnh phổi mãn tính 
không lây khác. Tiếp tục duy trì phát triển ổn định và 
bền vững là việc cần thiết trong tương lai ở bệnh 
viện Phạm Ngọc Thạch. 
Chĕm sóc giảm nhẹ là cần thiết và mang tính 
nhân vĕn. Nhiều bệnh nhân vẫn chưa tiếp cận chĕm 
sóc giảm nhẹ về cuối đời. Lồng ghép chĕm sóc giảm 
nhẹ vào một số khoa có số bệnh nhân mắc bệnh 
mãn tính nặng nhiều là việc nên cân nhắc và thực 
hiện trong tương lai. Thành lập nhóm chĕm sóc giảm 
nhẹ để có thể cho hướng điều trị chĕm sóc giảm nhẹ 
đến bệnh nhân trong mọi trường hợp. Duy trì, phát 
triển và đào tạo chuyên sâu về chĕm sóc giảm nhẹ 
cho đội ngũ nhân viên y tế cũng như từng bước liên 
kết với nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau như 
nhóm công tác xã hội, bác sĩ tâm lý, chuyên gia lĩnh 
vực tôn giáo thành một nhóm đa thành phần để góp 
phần phục vụ bệnh nhân tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Morrisin, K.A.a.R., Palliative care for the 
Seriously Ill. N England J Med, 2015. 373(8): p. 
747-55. 
2. Higginson, I., Palliative care: a review of past 
changes and future trends. J Public Health Med, 
1993. 15(1): p. 3-8. 
3. Bade, B.C. and G.A. Silvestri, Palliative Care in 
Lung Cancer: A Review. Semin Respir Crit Care 
Med, 2016. 37(5): p. 750-759. 
4. Hawley, P., Barriers to Access to Palliative Care. 
Palliat Care, 2017. 10: p. 1178224216688887. 
5. Adsersen, M., et al., Is admittance to specialised 
palliative care among cancer patients related to 
sex, age and cancer diagnosis? A nation-wide 
study from the Danish Palliative Care Database 
(DPD). BMC Palliat Care, 2017. 16(1): p. 21. 
6. Eriksson, L., I. Oster, and M. Lindberg, The 
meaning of occupation for patients in palliative 
care when in hospital. Palliat Support Care, 
2016. 14(5): p. 541-52. 
7. Farbicka, P. and A. Nowicki, Palliative care in 
patients with lung cancer. Contemp Oncol 
(Pozn), 2013. 17(3): p. 238-45. 

File đính kèm:

  • pdfcham_soc_giam_nhe_tai_benh_vien_pham_ngoc_thach_thanh_pho_ho.pdf