Cắt gan thùy đuôi do u gan

Cắt gan thùy đuôi hay phân thùy I (S1) nhằm mục tiêu lấy hết u về mặt đại thể, tránh làm tổn thương

các mạch máu lớn và đường mật phần gan để lại. Nghiên cứu mô tả phương pháp và kết quả phẫu thuật

cắt gan phân thùy S1 bao gồm các trường hợp được cắt phân thùy I hoặc kèm theo cắt phần gan khác do

bệnh lý u gan từ tháng 4/2016 đến tháng 4/2020. Kết quả: 8 bệnh nhân được phẫu thuật, nam/nữ = 6/2.

Giải phẫu bệnh sau mổ bao gồm: ung thư biểu mô tế bào gan (4 ca), ung thư đường mật gan trái (1 ca); u

mô đệm ruột non di căn (1 ca); tăng sản thể nốt lành tính (1 ca) và u máu (1 ca). Phương pháp mổ: cắt S1l

hay thùy Spiegel (3 ca); cắt S1c (1 ca); cắt kèm gan trái kèm S1l (2 ca); cắt S1c kèm phân thùy sau (1 ca);

cắt toàn bộ S1 kèm gan trái mở rộng (1 ca). Thời gian mổ dao động từ 90 – 230 phút, mất máu trong mổ:

100 – 850 ml. Biến chứng sau mổ: chảy máu (1 bệnh nhân), áp xe (1 bệnh nhân), tử vong (1 bệnh nhân).

Kết luận: cắt gan phân thùy đuôi (S1) kết hợp với một phần gan khác nhằm đạt diện cắt triệt căn có tỉ lệ

biến chứng và tử vong còn cao nên cần thận trọng. Kỹ thuật cắt S1 tùy thuộc vào vị trí, kích thước khối u.

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Cắt gan thùy đuôi do u gan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cắt gan thùy đuôi do u gan

Cắt gan thùy đuôi do u gan
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
157TCNCYH 133 (9) - 2020
1Bệnh viện Bạch Mai
2Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên hệ: Trần Hiếu Học 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 23/08/2020
Ngày được chấp nhận: 02/10/2020
CẮT GAN THÙY ĐUÔI DO U GAN
Trần Quế Sơn1,2, Trần Mạnh Hùng1, Nguyễn Thế Hiệp1,2, Trần Minh Đức2 
và Trần Hiếu Học1,2, dd
Cắt gan thùy đuôi hay phân thùy I (S1) nhằm mục tiêu lấy hết u về mặt đại thể, tránh làm tổn thương 
các mạch máu lớn và đường mật phần gan để lại. Nghiên cứu mô tả phương pháp và kết quả phẫu thuật 
cắt gan phân thùy S1 bao gồm các trường hợp được cắt phân thùy I hoặc kèm theo cắt phần gan khác do 
bệnh lý u gan từ tháng 4/2016 đến tháng 4/2020. Kết quả: 8 bệnh nhân được phẫu thuật, nam/nữ = 6/2. 
Giải phẫu bệnh sau mổ bao gồm: ung thư biểu mô tế bào gan (4 ca), ung thư đường mật gan trái (1 ca); u 
mô đệm ruột non di căn (1 ca); tăng sản thể nốt lành tính (1 ca) và u máu (1 ca). Phương pháp mổ: cắt S1l 
hay thùy Spiegel (3 ca); cắt S1c (1 ca); cắt kèm gan trái kèm S1l (2 ca); cắt S1c kèm phân thùy sau (1 ca); 
cắt toàn bộ S1 kèm gan trái mở rộng (1 ca). Thời gian mổ dao động từ 90 – 230 phút, mất máu trong mổ: 
100 – 850 ml. Biến chứng sau mổ: chảy máu (1 bệnh nhân), áp xe (1 bệnh nhân), tử vong (1 bệnh nhân). 
Kết luận: cắt gan phân thùy đuôi (S1) kết hợp với một phần gan khác nhằm đạt diện cắt triệt căn có tỉ lệ 
biến chứng và tử vong còn cao nên cần thận trọng. Kỹ thuật cắt S1 tùy thuộc vào vị trí, kích thước khối u.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 Phân thùy I là thùy gan riêng biệt nằm giữa 
ngã ba: phía trên là hợp lưu tĩnh mạch gan 
giữa và trái, phía trước là rốn gan, phía sau 
là tĩnh mạch chủ dưới. Đường mật của phân 
thùy I thường đổ vào ống gan trái. Theo Kumon 
(1985), phân thùy I (S1) chia ra làm 3 phần: 
phần bên trái tĩnh mạch chủ (S1l) hay thùy 
Spiegel – phần này được nhìn thấy qua mạc nối 
nhỏ; phần nằm trước tĩnh mạch chủ (paracaval 
portion) và phần bên phải (S1r) nằm ở mặt lưng 
của tĩnh mạch cửa; phần bụng của S1r goi là 
củ đuôi S1c (caudate process).1,2 xCouinaud 
(1998) chia thùy đuôi dựa vào phân bố của tĩnh 
mạch cửa, đường mật và tĩnh mạch gan thành 
2 phần: phần bên trái là hạ phân thùy I hay 
thùy Spiegel và phần bên phải là hạ phân thùy 
IX (gồm củ đuôi – S1c) lấy đường đi của tĩnh 
mạch gan giữa làm đường phân chia.3 Trong 
bài viết này, chúng tôi dựa theo cách phân chia 
giải phẫu gan của Kumon
Tỷ lệ khối u ác tính ở phân thùy I cũng tương 
tự như các vị trí khác nhưng khả năng cắt bỏ 
được u thấp do sự phức tạp của vị trí giải phẫu 
cũng như khó khăn trong việc kiểm soát mạch 
máu. Trong các nghiên cứu được báo cáo, S1 
được cắt bỏ đơn thuần hoặc kết hợp với cắt 
phần gan khác như gan trái, thùy trái, gan phải 
hoặc thùy trung tâm. Với các trường hợp gan 
xơ, cắt S1 đơn độc nhằm đảm bảo chức năng 
của phần gan để lại.4,5,6 Kỹ thuật cắt S1 là một 
phẫu thuật khó, đòi hỏi kinh nghiệm trong phẫu 
thuật cắt gan, nắm chắc về giải phẫu và kiểm 
soát mạch máu. Đường tiếp cận u từ phía bên 
Từ khoá: U gan, phân thùy I, thùy Spiegel, cắt phân thùy I, thùy đuôi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
158 TCNCYH 133 (9) - 2020
trái (Left-side approach) được áp dụng để cắt 
bỏ những khối u nằm ở S1l hay thùy Spiegel 
hoặc cắt gan trái kết hợp với cắt phân thùy 
I.5,6,7,8,9 Bài viết này nhằm mô tả đặc điểm bệnh 
nhân và kết quả cắt phân thùy I, mà chủ yếu là 
thùy Spigel nhân các trường hợp được phẫu 
thuật tại Bệnh viện Bạch Mai.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Tiêu chuẩn chọn: Bao gồm các trường hợp 
được cắt S1 đơn độc có/hoặc không kèm theo 
phần gan khác do u gan.
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu, mô tả 
đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán, phương pháp 
phẫu thuật và kết quả sau mổ.
Kỹ thuật mổ: gồm các bước sau:
Bệnh nhân nằm ngửa, đường mổ rộng 
(dưới sườn hai bên, Mercedes, chữ J hoặc 
đường trắng giữa trên và dưới rốn) tùy thuộc 
vào vị trí và kích thước phần gan dự kiến cắt 
bỏ. Giải phóng toàn bộ gan: cắt dây chằng tròn, 
dây chằng liềm, dây chằng vành và dây chằng 
tam giác trái và phải.
Tiếp cận từ bên trái: cắt mạc nối nhỏ sát chỗ 
bám vào gan. Vén thùy Spiegel sang phải, mở 
phúc mạc dọc bờ trái tĩnh mạch chủ dưới đoạn 
sau gan, cắt dây chằng Arantius, dây chằng 
quanh tĩnh mạch chủ. Thắt các tĩnh mạch phân 
thùy I đổ trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới bằng 
chỉ line hoặc vicryl 4.0..9
Tiếp cận từ bên phải: cắt dây chằng gan tá 
tràng, dây chằng gan – đại tràng, hạ đại tràng 
góc gan. Bộc lộ tĩnh mạch chủ dưới sau gan, 
tách tuyến thượng thận phải xuống dưới, nhìn 
rõ các tĩnh mạch Makuchi.9
Bộc lộ cuống gan, sử dụng kéo phẫu tích 
tách và bộc lộ luồn dây nâng cuống Glisson gan 
phải và trái, kẹp cuống gan toàn bộ: 15’ - 5’ (15 
phút cặp cuống - 5 phút thả kẹp cuống) khi tiến 
hành cắt nhu mô gan. Cắt nhu mô gan bằng 
kìm Kelly nhỏ, mảnh kết hợp sử dụng dao Lig-
asure trong mổ. Khi cắt nhu mô gan luôn kiểm 
soát tốt tĩnh mạch cửa trái, nhìn rõ tĩnh mạch 
chủ dưới sau gan. Khâu các điểm rỉ máu bằng 
chỉ monosyl 4.0. Kiểm tra rỉ mật bằng miếng 
gạc trắng đặt vào diện cắt gan. Có một số tác 
giả cắt túi mật và luồn ống thông số 6 vào ống 
cổ túi mật để bơm kiểm tra điểm rò mật diện 
cắt gan. Rửa trường mổ, kiểm tra cầm máu, rỉ 
mật, đặt dẫn lưu diện cắt gan. Đóng bụng hai 
lớp mũi rời.
A. 
B. 
C. 
Ảnh 1. Giải phóng hạ phân thùy I (hay thùy 
Spiegel). A - U gan vị trí thùy hạ phân thùy I, B 
- Cắt dây chằng quanh tĩnh mạch chủ, C - Thắt 
tĩnh mạch hạ phân thùy I
Nguồn: Theo Torres (2017).6
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
159TCNCYH 133 (9) - 2020
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân và phương pháp phẫu thuật
Đặc điểm
và bệnh 
nhân
Tuổi Giới Chẩn đoán
Kích 
thước 
u (mm)
Tổn thương Cắt gan
Phẫu 
thuật kết 
hợp
Bệnh nhân 
1
69 Nam
Ung thư tế 
bào gan S1c/
Đã cắt gan trái
17x13
Gan xơ đầu đinh 
2 thùy
S1c
Cắt túi 
mật, dẫn 
lưu mật
Bệnh nhân 
2
59 Nam
Ung thư tế 
bào gan gan 
trái
120x98
Gan xơ, u lớn toàn 
bộ gan trái, chắc 
lấn sang phân thùy 
trước
S1r+S1l+
gan trái mở 
rộng
-
Bệnh nhân 
3
82 Nam U mô đệm S1 65x58
U ở S1 (Spiegel), 
1 u ruột non cách 
Treitz 20 cm có u 
2x3 cm
S1l 
Cắt đoạn 
ruột non
Bệnh nhân 
4
45 Nam U máu S1 137x85
Nhiều u máu thùy 
gan trái (5 – 10 
mm)
S1l -
Bệnh nhân 
5
62 Nữ
U Klatskin IIIb 
– sỏi gan trái
32x38
Gan ứ mật, stent 
ống mật chủ.
S1l+gan trái
Cắt túi mật, 
nối OGP – 
ruột
Bệnh nhân 
6
69 Nam
Ung thư tế 
bào gan gan 
trái
94x77 Nhân 1,5 cm ở S8 S1l+gan trái
Khoét 
nhân S8
Bệnh nhân 
7
36 Nữ
Tăng sản thể 
nốt lành tính
37x36 - S1l -
6 trường hợp ung thư nằm ở phân thùy S1, trong đó một trường hợp do u mô đệm từ ruột non 
di căn vào phân thùy 1.
III. KẾT QUẢ
Từ 4/2016 – 12/2020, chúng tôi mổ cắt gan 
cho 178 trường hợp với chẩn đoán là: ung thư 
biểu mô tế bào gan: 144 bệnh nhân (80,7%), 
ung thư đường mật: 9 bệnh nhân (5,1%), u 
máu gan: 13 bệnh nhân (7,3%), tăng sản thể 
nốt gan (HNF): 6 bệnh nhân (3,4%), ung thư 
túi mật xâm lấn gan: 3 bệnh nhân (1,7%), sỏi 
gan trái: 1 bệnh nhân (0,6%), GIST ruột non di 
căn gan: 1 bệnh nhân (0,6%), ung thư biểu mô 
tế bào gan + ung thư đường mật: 1 bệnh nhân 
(0,6%). Trong số đó có 8 trường hợp cắt gan 
phân thùy I được báo cáo trong bài viết này.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
160 TCNCYH 133 (9) - 2020
Bảng 2. Kết quả phẫu thuật
Đặc điểm 
và bệnh 
nhân
Thời 
gian mổ
(phút)
Mất máu
(ml)
Truyền 
máu
(ml)
Biến 
chứng
Nằm viện
(ngày)
Điều trị 
sau mổ
Theo dõi xa 
sau mổ
Bệnh 
nhân 1
105 200 0 Áp xe 9
TACE 2 
lần
Sống, chưa 
tái phát
Bệnh 
nhân 2
230 850 1000 Chảy máu 2 - Tử vong
Bệnh 
nhân 3
180 100 0 Không 8 Glivec
Sống, chưa 
di căn
Bệnh 
nhân 4
110 150 0 Không 8 -
Sống, khỏe 
mạnh
Bệnh 
nhân 5
210 250 0 Không 8 Hóa chất 15 tháng
Bệnh 
nhân 6
180 500 2550 Không 8 - Sống
Bệnh 
nhân 7
90 100 0 Không 7 - Sống
Bệnh 
nhân 8
180 100 0 Không 8 - Sống
Chỉ có 1 bệnh nhân phải truyền máu trong mổ, thời gian nằm viện trung bình 8 ngày, 2 trường 
hợp có biến chứng (1 trường hợp tử vong do chảy máu).
IV. BÀN LUẬN
Phân chia thùy gan được nhiều tác giả đề 
cập đến với các trường phái khác nhau, trong 
đó có ba trường phái chính đó là: Anh – Mỹ 
(Goldsmith, Woodburne, Healey, Schroy), Pháp 
(Couinaud) và Việt Nam (Tôn Thất Tùng). Theo 
Tôn Thất Tùng, phân thùy I không chia và được 
gọi là thùy Spiegel. Do vậy, gan được chia 
thành 2 thùy cổ điển, 2 nửa gan, 5 phân thùy và 
8 hạ phân thùy. 
Năm 1985, Kumon chia phân thùy I thành 
3 phần gồm: củ đuôi (S1c - Caudate process), 
phần trước tĩnh mạch chủ dưới (S1p - Paraca
val portion) và phần bên trái (S1l) là thùy Spie-
gel.
Năm 1998, Couinaud chia phân thùy I dựa 
vào phân bố tĩnh mạch cửa, đường mật và 
tĩnh mạch gan thành hai phần: phần bên trái 
là phân thùy I (thùy Spiegel) và phần bên phải 
là hạ phân thùy IX lấy đường đi của tĩnh mạch 
gan giữa làm đường phân chia. Phần bụng của 
hạ phân thùy IX (hạ phân thùy IXb) là củ đuôi.1,3. 
Về phương diện giải phẫu, phân thùy I nằm ở 
vị trí “hiểm hóc” giữa các cấu trúc mạch máu 
lớn: phía trên là hợp lưu tĩnh mạch gan giữa 
và trái, phía trước là cuống gan trái, phía sau 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
161TCNCYH 133 (9) - 2020
là tĩnh mạch chủ dưới. Thùy này có những tĩnh 
mạch độc lập với các tĩnh mạch gan và đổ trực 
tiếp vào tĩnh mạch chủ. Phân thùy I cũng có hệ 
động mạch và đường mật tương đối độc lập. 
Khi khối ung thư gan phát triển ở phân thùy I thì 
giải phẫu động mạch cấp máu cho khối u có sự 
biến đổi. Nếu u nằm ở thùy Spiegel thì u được 
cấp máu chủ yếu ở các nhánh gần của động 
mạch gan phải và/hoặc gan trái. Nếu khối u ở vị 
trí này kích thước lớn, nó có thể được cấp máu 
thêm bởi các nhánh phụ khác của động mạch 
ngoài gan. Nếu khối u nằm ở phần bên phải 
hay củ đuôi thì u được cấp máu chủ yếu bởi 
động mạch gan phải và một phần từ động mạch 
gan trái. Với u nằm ở phần trước tĩnh mạch chủ 
thì thường được cấp máu bởi động mạch gan 
phải hoặc gan chung. Trong trường hợp u tái 
phát sau mổ ở thùy Spiegel thì u được cấp máu 
bởi các nhánh động mạch ngoài gan, tái phát 
ở củ đuôi thì khối u được cấp máu bởi động 
mạch dưới hoành phải. Những đặc điểm này có 
ý nghĩa trong việc điều trị nút động mạch gan 
hóa chất (TACE) đối với các khối ung thư biểu 
mô tế bào gan nằm ở phân thùy I.4
Cắt S1 được chỉ định trong các trường hợp: 
khối u nguyên phát S1, u gan nằm ở vị trí sát 
S1 hoặc u đường mật rốn gan (u Klatskin). Khi 
đó S1 được cắt bỏ cùng với phần gan có u để 
đảm bảo tính chất triệt căn.7,10,11 Chỉ định mổ 
của chúng tôi bao gồm: ung thư biểu mô tế bào 
gan (4 ca), ung thư đường mật gan trái (1 ca), u 
mô đệm ruột non di căn S1 (1 ca), u máu (1 ca), 
tăng sản thể nốt (1 ca). Trong đó 4 bệnh nhân 
khối u nằm khu trú ở thùy Spigel, một bệnh 
nhân có u nằm ở S1c xâm lấn hạ phân thùy VI 
được cắt S1 cùng phân thùy sau, 3 trường hợp 
còn lại S1 được cắt cùng với gan trái. Đặc biệt 
một bệnh nhân được chẩn đoán sau mổ là u S1 
do u mô đệm ruột non di căn vào gan. Trong 
mổ, khối u gan ở thùy Spiegel chắc, phúc mạc 
nhẵn, ruột non cách góc Treitz 20 cm có khối 
u chắc 2 x 2 cm nằm ở bờ mạc treo, xử trí cắt 
thùy Spiegel và cắt đoạn ruột non có u, nối hai 
đầu ruột tận tận. Sau mổ 8 ngày, bệnh nhân tiếp 
tục được điều trị bằng Glivec.
Cắt gan S1 vẫn là một phẫu thuật khó đặc 
biệt là u ở vị trí S1c, S1r, S1-paracaval por-
tion.5,7,10 Tại Việt Nam, thông báo cắt gan phân 
thùy I còn rất ít. Trịnh Hồng Sơn thông báo 3 
trường hợp cắt S1 (2006), 1 trường hợp cắt S1 
do khối ung thư tế bào gan khổng lồ (2012) có 
mô tả các bước phẫu tích để cắt S1. Tùy thuộc 
vào kích thước khối u, vị trí u và tình trạng xơ 
gan mà có lựa chọn phương pháp phẫu thuật 
hợp lý. Thông thường, để cắt u ở các vị trí của 
phân thùy I, có thể có những cách tiếp cận 
từ bên trái, từ bên phải, thậm chí phải xẻ đôi 
gan đi trực tiếp vào nhu mô giữa gan phải và 
trái.5,9,11,12,13 Với u nằm ở thùy Spiegel hoặc củ 
đuôi thì có thể cắt u đơn độc hoặc kết hợp với 
phần gan bên trái hoặc phải. Chúng tôi nhận 
thấy với các khối u nằm khu trú ở thùy Spiegel 
thì việc tiếp cận u từ bên trái tương đối thuận 
lợi. Sau khi giải phóng mạc nối nhỏ, thắt các 
nhánh tuần hoàn bàng hệ đi vào u, cắt dây 
chằng tĩnh mạch, thắt các nhánh tĩnh mạch đổ 
vào tĩnh mạch chủ là có thể bộc lộ được bờ 
dưới và mặt sau thùy Spiegel. Để tách hoàn 
toàn thùy Spiegel ra khỏi phần gan trái, ta có thể 
sử dụng phương pháp treo gan được giới thiệu 
bởi Lopez-Andujar (2009). Khi đó thùy Spiegel 
sẽ tách hoàn toàn ra khỏi tĩnh mạch gan trái và 
tĩnh mạch gan giữa, vén được cuống gan trái 
sang bên phải và nhu mô gan được cắt phía 
trên của sợi dây nâng gan.13
Trong nghiên cứu, chúng tôi cắt thùy Spie-
gel đơn độc cho 3 bệnh nhân, khối u nằm ở vị 
trí này tương đối khu trú, bộc lộ được hoàn toàn 
khối u sau khi giải phóng thùy gan trái và mạc 
nối nhỏ. Lượng máu trong mổ mất ít và không 
phải truyền máu sau mổ. Hai trường hợp khối 
u nằm ở củ đuôi (S1c). Trường hợp thứ nhất 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
162 TCNCYH 133 (9) - 2020
có tiền sử đã được cắt gan trái, khối u tái phát 
tại vị trí củ đuôi (S1c) với kích thước là 17x13 
mm. Tổn thương trong mổ là gan xơ đầu đinh 
cả hai thùy. Bệnh nhân này không được đo thể 
tích gan, do đó chúng tôi chỉ cắt gan phần S1c 
mà không chỉ định cắt kèm theo phân thùy sau 
nhằm đảm bảo lượng gan còn lại đủ thể tích 
tránh suy gan sau mổ. Trong phẫu thuật, chúng 
tôi cố gắng cắt phần gan cách xa bờ u ≥ 1 cm 
để đảm bảo diện cắt âm tính. Trường hợp còn 
lại u lớn 60x54 mm nằm ở S1c xâm lấn vào hạ 
phân thùy VII, u dính vào tĩnh mạch gan phải. 
Trường hợp này, chúng tôi lựa chọn cắt S1c + 
phân thùy sau, có kiểm soát cuống gan chọn 
lọc ngoài gan theo tác giả Takasaki, lượng máu 
mất trong mổ khoảng 100 ml. Trong tất cả các 
mẫu bệnh phẩm sau mổ đều cho biết thông tin 
về kích thước u, bản chất u, khoảng cách u đến 
diện cắt, diện cắt có còn u hay không để tiên 
lượng khả năng tái phát sau mổ.
Nghiên cứu chưa gặp trường hợp u nằm 
ở trước tĩnh mạch chủ (S1-paracaval portion). 
Đây là một trong những vị trí khó phẫu thuật 
nhất và chưa được báo cáo ở Việt Nam. Tùy 
thuộc vào kích thước khối u, vị trí u tiếp xúc với 
tĩnh mạch gan giữa và chức năng gan trước 
mổ mà lựa chọn giải pháp cắt gan qua ngả 
trước bao gồm hạ phân thùy IV + S1 hoặc cắt 
hạ phân thùy IV+ phân thùy trước + S1.5,7,8,10,12 
Wang (2015) báo cáo kết quả của phương pháp 
này cho 49 bệnh nhân thấy rằng kích thước u 
tương đối lớn, trung bình là 7,3 cm (dao động 
2,4 – 18 cm), lượng máu mất trong mổ trung 
bình 700 ml (200 – 3000 ml). Phần lớn các khối 
u là ung thư biểu mô tế bào gan (43/49 bệnh 
nhân), ung thư đường mật (3/49 bệnh nhân), 
ung thu hỗn hợp gan và đường mật (1/49 bệnh 
nhân). Chỉ có 14/49 bệnh nhân cắt S1 đơn độc, 
còn lại 35/49 trường hợp còn lại thực hiện kỹ 
thuật cắt phân thùy I kết hợp với cắt hạ phân 
thùy IV (22 trường hợp phải cắt tĩnh mạch gan 
giữa). Với kỹ thuật này, tỷ lệ sống không bệnh 
sau 1 năm, 3 năm và 5 năm lần lượt là 66,3%, 
40,7% và 27,1%. Tỉ lệ sống thêm toàn bộ sau 
1 năm, 3 năm, 5 năm lần lượt là 83,5%, 61,1% 
và 36,4%.12
Phẫu thuật đảm bảo tính triệt căn luôn được 
đặt ra, đòi hỏi phải cắt gan rộng, cắt ghép mạch 
máu bị xâm lấn như tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch 
chủ. Tuy nhiên, với các khối u ác tính nằm ở hạ 
phân thùy I thì việc diện cắt u ≥ 1 cm là không 
cần thiết.12 Hawkins (2005) nghiên cứu từ 150 
trường hợp được cắt hạ phân thùy I thì tỷ lệ cắt 
S1 đơn độc là 21 bệnh nhân (14%), tỷ lệ cắt và 
tạo hình tĩnh mạch cửa là 16 bệnh nhân, tạo 
hình tĩnh mạch chủ là 15 bệnh nhân. Tuy vậy, 
tỷ lệ diện cắt vẫn còn tế bào ung thư là 20%, 
biến chứng chung sau mổ là 55% và tử vong 
sau mổ là 6% có nguyên nhân chủ yếu là chảy 
máu cho thấy sự khó khăn và phức tạp khi cắt 
phân thùy I.7
Những trường hợp u gan có tỷ lệ gan xơ khá 
cao, là một yếu tố gây chảy máu trong và sau 
mổ. Một trong những vị trí chảy máu hay gặp 
khi thực hiện kỹ thuật cắt gan qua ngả trước là 
từ các nhánh mạch nhỏ ở tĩnh mạch cửa, tĩnh 
mạch gan. Để giảm mất máu trong mổ, huyết 
áp nên để thấp 90/60 mmHg, duy trì áp lực tĩnh 
mạch trung ương khoảng 5 cm nước, tất cả các 
vị trí rỉ máu nên được khâu bằng những mũi 
chỉ monosyl 4.0 hoặc prolen 4.0. Dù đây là một 
kỹ thuật khó, mạo hiểm nhưng là lựa chọn phù 
hợp và an toàn để cắt bỏ khối u nằm ở S1r 
hoặc phần u gan trung tâm dính vào S1r có kích 
thước lớn.5,12
Trong nghiên này, một trường hợp tử vong 
sau mổ do chảy máu (bệnh nhân số 2) được 
chẩn đoán là khối u lớn gan trái do ung thư biểu 
mô tế bào gan. Tổn thương trong mổ: xơ gan 
Child A, phân thùy sau phì đại, khối u gan trái 
lấn sang ranh giới của phân thùy trước, cuống 
gan chưa bị xâm lấn, lượng gan lành dự kiến để 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
163TCNCYH 133 (9) - 2020
lại tương đối lớn. Phần gan cắt bỏ bao gồm tĩnh 
mạch gan trái và tĩnh mạch gan giữa, gan trái, 
một phần phân thùy trước, thùy Spiegel và S1r. 
Trong mổ truyền 4 đơn vị khối hồng cầu 250 
ml. Sau mổ ngày thứ 2 có chảy máu, tụt huyết 
áp và tử vong. Đây là một trường hợp khó do 
kích thước u rất lớn (120 x 98 mm) chiếm toàn 
bộ gan trái và lấn một phần sang phần gan 
phân thùy trước. Từ trường hợp này, chúng tôi 
thấy rằng với các khối u gan kích thước lớn thì 
phải tiên lượng khả năng cắt bỏ được gan hay 
không, tính toán kỹ thể tích gan để lại, có thể 
phải nút động mạch gan trước mổ và phải đảm 
bảo thật tốt kỹ thuật kiểm soát mạch máu và 
diện cắt gan.2,14
V. KẾT LUẬN
Chỉ định cắt phân thùy I đơn độc do u gan 
hoặc được cắt kèm theo với một phần gan khác 
nhằm đảm bảo diện cắt triệt căn. Cắt gan S1l 
và S1c có thể thực hiện an toàn và hiệu quả. Kỹ 
thuật cắt S1 tùy thuộc vào vị trí, kích thước khối 
u. Với khối u tiến triển, kích thước lớn cần phải 
cân nhắc chỉ định phẫu thuật cắt u.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả chân thành cảm ơn Đảng ủy, 
Ban lãnh đạo Bệnh viện, các Bác sĩ, nhân viên 
điều đưỡng Khoa Ngoại, Bệnh viện Bạch Mai 
đã tham gia phẫu thuật, chăm sóc và theo dõi 
sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kumon M. Anatomical Study of the Cau-
date Lobe with Special Reference to Portal Ve-
nous and Biliary Branches Using Corrosion Liv-
er Casts and Clinical Application. Liver Cancer 
2017; 6 (2): 161-170.
2. Salloum C., Lahat E., Lim C., et al. Lap-
aroscopic Isolated Resection of Caudate Lobe 
(Segment 1): A Safe and Versatile Technique. J 
Am Coll Surg 2016; 222 (5): 61-66.
3. Abdalla E. K., Vauthey J. N. and Couinaud 
C. The caudate lobe of the liver: implications of 
embryology and anatomy for surgery. Surg On-
col Clin N Am 2002; 11 (4): 835-848.
4. Miyayama S., Yamashiro M., Yoshie Y., 
et al. Hepatocellular carcinoma in the caudate 
lobe of the liver: variations of its feeding branch-
es on arteriography. Jpn J Radiol 2010; 28 (8): 
555-562.
5. Liu P., Qiu B.A., Bai G., et al. Choice of 
approach for hepatectomy for hepatocellular 
carcinoma located in the caudate lobe: isolated 
or combined lobectomy? World J Gastroenterol 
2012; 18 (29): 3904-3909.
6. Torres O. J. M., Vasques R. R., Gama-Fil-
ho O. P., et al. Isolated caudate lobectomy: 
Left-sided approach. Case reports. Int J Surg 
Case Rep 2017; 37 (8): 240-243.
7. Hawkins W. G., DeMatteo R. P., Cohen 
M. S., et al. Caudate hepatectomy for cancer: a 
single institution experience with 150 patients. J 
Am Coll Surg 2005; 200 (3): 345-352.
8. Jin Y., Wang L., Yu Y. Q., et al. Anatomic 
isolated caudate lobectomy: Is it possible to es-
tablish a standard surgical flow? World J Gas-
troenterol 2017; 23 (41): 7433-7439.
9. Chaib E., Ribeiro M. A., Silva Fde S., et al. 
Caudate lobectomy: tumor location, topograph-
ic classification, and technique using right- and 
left-sided approaches to the liver. Am J Surg 
2008; 196 (2): 245-251.
10. Sakoda M., Ueno S., Kubo F., et al. Sur-
gery for hepatocellular carcinoma located in the 
caudate lobe. World J Surg 2009; 33 (9): 1922-
1926.
11. Dumitrascu T., Ionescu M. I. Caudate 
Lobectomy for Perihilar Cholangiocarcinoma - 
Current Evidence. Chirurgia (Bucur) 2019; 114 
(3): 317-325.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
164 TCNCYH 133 (9) - 2020
12. Wang Z. G., Lau W., Fu S. Y., et al. An-
terior hepatic parenchymal transection for com-
plete caudate lobectomy to treat liver cancer 
situated in or involving the paracaval portion of 
the caudate lobe. J Gastrointest Surg 2015; 19 
(5): 880-886.
13. Lopez-Andujar R., Montalva E., Bruna 
M., et al. Step-by-step isolated resection of seg-
ment 1 of the liver using the hanging maneuver. 
Am J Surg 2009; 198 (3): 42-48.
14. Xu G., Tong J., Ji J., et al. Laparoscopic 
caudate lobectomy: a multicenter, propensity 
score-matched report of safety, feasibility, and 
early outcomes. Surg Endosc 2020; 3 (4)
Summary
CAUDATE HEPATECTOMY FOR LIVER TUMORS
The caudate lobectomy of the liver is technically demanding, with the disparate goals of preserv-
ing major vascular and biliary structures without compromising tumor clearance. Our objective was 
to assess our results with resection of the caudate lobe for hepatic tumors. From April 2016 to April 
2020, we performed isolated and combined caudate resection with other partial hepatectomy for 
tumors in 8 patients. Clinicopathologic correlates, surgical methods were analyzed. Results: Of the 8 
patients identified, the male - female ratio was 6/2, 4 (50%) underwent an isolated caudate lobecto-
my and 4 (50%) underwent caudate lobectomy as part of a more extensive hepatectomy. The most 
common indication was hepatocellular carcinoma (4 patients), followed by cholangiocarcinoma (1 
patient), liver metastatic of gastrointestinal stromal tumors (GIST) (1 patient), focal nodular hyperpla-
sia (1 patient) and hepatic hemangioma (1 patient). The operating time ranges from 90 to 230 min-
utes, intraoperative blood loss ranges from 100 to 850 milliliters. The postoperative complication was 
reported in 2 patients (25%) including bleeding (one patient), intra-abdominal abscess (one patient) 
and one patient (12.5%) died as a result of these complications. Conclusion: Isolated or combined 
caudate lobectomy (S1l and S1c) with other partial hepatectomy to reach negative microscopic mar-
gins remains with high morbidity and mortality. Approaches to caudate lobectomy should be careful 
and dependent on size and location of the lesion.
Keywords: Liver tumor, caudate lobe, Spiegel’s lobe, caudate lobectomy

File đính kèm:

  • pdfcat_gan_thuy_duoi_do_u_gan.pdf