Cập nhật phân loại các u biểu mô tuyến tiền liệt theo WHO 2016

Về mô bệnh học, carcinôm tuyến dạng nang là típ mô học thường

gặp nhất. Carcinôm tuyến dạng nang và các biến thể chiếm tỷ lệ 80 – 95% các

ung thư biểu mô tuyến tiền liệt. Việc phân biệt các biến thể là cần thiết vì phần

lớn chúng có tiên lượng xấu. Có ba đặc điểm về cấu trúc quan trọng để xác định

tính chất ác tính là: hóa sợi nhầy; cấu trúc dạng cầu thận và xâm lấn thần kinh.

Hệ thống phân độ mô học theo thang điểm Gleason được sử dụng phổ biến nhất

cho phân độ mô học carcinôm tuyến tiền liệt. Dựa vào điểm Gleason mà phân ra

các nhóm u: Gleason từ 2 – 4 điểm( biệt hóa tốt); Gleason từ 5 – 7 điểm( biệt hóa

vừa); Gleason từ 8 – 10 điểm( biệt hóa kém). Xét nghiệm hóa mô miễn dịch được

sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán phân biệt giữa carcinôm tuyến tiền liệt độ ác

cao với một số dạng cần chẩn đoán đặc hiệu như : carcinôm niệu mạc, viêm tuyến

tiền liệt dạng hạt/u mỡ vàng; carcinôm tuyến đại trực tràng và carcinôm di căn

đến tuyến tiền liệt. Xét nghiêm hóa mô miễn dịch còn được sử dụng nhằm xác định

tính chất ác tính với carcinôm tuyến ổ nhỏ trong các mẫu sinh thiết kim

pdf 9 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Cập nhật phân loại các u biểu mô tuyến tiền liệt theo WHO 2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cập nhật phân loại các u biểu mô tuyến tiền liệt theo WHO 2016

Cập nhật phân loại các u biểu mô tuyến tiền liệt theo WHO 2016
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017
108
Tóm tắt: Về mô bệnh học, carcinôm tuyến dạng nang là típ mô học thường 
gặp nhất. Carcinôm tuyến dạng nang và các biến thể chiếm tỷ lệ 80 – 95% các 
ung thư biểu mô tuyến tiền liệt. Việc phân biệt các biến thể là cần thiết vì phần 
lớn chúng có tiên lượng xấu. Có ba đặc điểm về cấu trúc quan trọng để xác định 
tính chất ác tính là: hóa sợi nhầy; cấu trúc dạng cầu thận và xâm lấn thần kinh. 
Hệ thống phân độ mô học theo thang điểm Gleason được sử dụng phổ biến nhất 
cho phân độ mô học carcinôm tuyến tiền liệt. Dựa vào điểm Gleason mà phân ra 
các nhóm u: Gleason từ 2 – 4 điểm( biệt hóa tốt); Gleason từ 5 – 7 điểm( biệt hóa 
vừa); Gleason từ 8 – 10 điểm( biệt hóa kém). Xét nghiệm hóa mô miễn dịch được 
sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán phân biệt giữa carcinôm tuyến tiền liệt độ ác 
cao với một số dạng cần chẩn đoán đặc hiệu như : carcinôm niệu mạc, viêm tuyến 
tiền liệt dạng hạt/u mỡ vàng; carcinôm tuyến đại trực tràng và carcinôm di căn 
đến tuyến tiền liệt. Xét nghiêm hóa mô miễn dịch còn được sử dụng nhằm xác định 
tính chất ác tính với carcinôm tuyến ổ nhỏ trong các mẫu sinh thiết kim.
UPDATE WHO 2016 CLASSIFICATION OF EPITHELIAL TUMORS OF 
THE PROSTATE
Abstract: Histologycally, acinar adenocarcinoma is the most common type. 
Acinar adenocarcinoma and it’s variants account for 80 – 95% of prostatic car-
cinomas. Recognition of these variants is important since most of them have a 
CẬP NHẬT PHÂN LOẠI CÁC U BIỂU MÔ TUYẾN TIỀN LIỆT
THEO WHO 2016
 Hoàng Văn Kỳ (1), Nguyễn Như Tấn (1)
(1) Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Văn Kỳ ([email protected])
Ngày nhận bài: 25/5/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 02/6/2017. 
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2017
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
109
worse prognosis. There are three features that have been use as the key diagnostic 
feature to establish malignancy: mucinous fibroplasia, glomerulation and peri-
neural invasion. The Gleason grading system is the most widely used for grading 
of prostatic carcinoma. Depending on the Gleason score, the tumors are stratified 
as: Gleason score 2 – 4( well differentiated); Gleason 5 – 7( moderately differenti-
ated); Gleason 8 – 10( poorly differentiated). Immunohistochemistry may be used 
mainly in differential diagnosis to distinguish the high – grade adenocarcinoma 
of the prostate from several specific diagnostic situation such as: urothelial car-
cinoma; granlunomatous prostatitis/ xanthoma; colorectal adenocarcinoma and 
metastatic adenocarcinoma of the prostate. Immunohistochemistry is also used to 
define malignancy in diagnosis of minimal adenocarcinoma on needle biosy.
BẢNG PHÂN LOẠI WHO 2016 CÁC U BIỂU MÔ TUYẾN TIỀN LIỆT
Phân loại mô bệnh
Mã bệnh
ICD – O(*)
I. Các u tuyến (Glandular Neoplasms)
 1.Carcinôm tuyến dạng nang (Acinar adenocarcinoma)
•	 Biến thể teo đét (Atrophic variant)
•	 Biến thể giả tăng sản (Pseudohyperplastic variant)
•	 Biến thể tuyến dạng bọt bào (Foamy gland variant)
•	 Biến thể dạng nhầy (Mucinous variant)
•	 Biến thể dạng tế bào nhẫn
(Signet ring – like cell variant)
•	 Biến thể tế bào khổng lồ đa dạng
(Pleomorphic giant cell variant)
•	 Biến thể dạng sarcôm (Sarcomatoid variant)
8140/3
8480/3
8490/3
8572/3
2.Tân sinh biểu mô tuyến tiền liệt, độ cao.
(High – grade, Prostatic Intraepithelial Neoplasia)
8148/2
3.Carcinôm trong ống (Intraductal carcinoma) 8500/2
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017
110
4.Carcinôm tuyến dạng ống (Ductal adenocarcinoma)
•	 Dạng sàng (cribriform)
•	 Dạng nhú (papillary)
•	 Dạng đặc (solid)
8500/3
8201/3
8260/3
8230/3
5.Carcinôm niệu mạc (Urothelial carcinoma) 8120/3
II. Các u biểu mô gai (Squamous neoplasms)
1.Carcinôm dạng gai tuyến (Adenosquamous carcinoma) 8560/3
2.Carcinôm tế bào gai (Squamous cell carcinoma) 8070/3
III. Carcinôm tế bào đáy (Basal cell carcinoma) 8047/3
(*): ICD – O: International Classfication of Diseases for Oncology.
I. MÔ BỆNH HỌC:
1.Carcinôm tuyến dạng nang và 
các biến thể (Acinar adenocarcinoma 
and variants):
a. Carcinôm tuyến dạng nang :
 Carcinôm tuyến dạng nang là típ 
mô học phổ biến nhất (được coi là típ 
mô học qui ước). Carcinôm tuyến dạng 
nang và các biến thể của nó chiếm tỷ lệ 
từ 80 – 95% các ung thư biểu mô tuyến 
tiền liệt. Hình ảnh vi thể của típ mô học 
này là cấu trúc tuyến dạng nang. Tuy 
nhiên để xác định tính chất ác tính của 
khối u cần dựa vào các yếu tố sau:
- Biến đổi về cấu trúc : Các bất 
thường về cấu trúc thường gặp là các 
nang tuyến nhỏ xếp sít sát, gia tăng 
mật độ và khác biệt với mô tuyến bao 
quanh. Có thể gặp cấu trúc dạng cầu 
thận (Glomeruloid structures). Các đặc 
điểm về xâm lấn như các tuyến nhỏ hợp 
lại dạng dây hoặc tế bào đơn độc xâm 
lấn giữa các vùng tuyến lành, xâm lấn 
thần kinh, xâm lấn mô mỡ hoặc vùng 
rìa tuyến tiền liệt.
- Vắng mặt lớp tế bào đáy ở quanh 
các tuyến bất thường.
- Các bất thường về nhân tế bào: 
kích thước nhân lớn, tăng sắc, bất 
thường màng nhân và chỉ số phân bào.
- Các biến đổi về bào tương: bào 
tương đa màu, bắt màu nhợt hoặc sáng 
hơn so với bào tương các tuyến lành.
- Chất chứa bất thường trong lòng 
nang tuyến: có thể gặp chất hoại tử, 
chất có dạng tinh thể, chất có dạng hạt 
màu hồng hoặc chất nhầy.
- Đối với các mẫu sinh thiết kim do 
mẫu có kích thước nhỏ, các yếu tố ác 
tính có thể không xuất hiện đầy đủ như 
trên. Vì vậy trước khi đưa ra một chẩn 
đoán xác định cần phải xem xét cẩn 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
111
thận, có thể cần đến sự hỗ trợ của xét 
nghiệm hóa mô miễn dịch. Trường hợp 
không đủ yếu tố để kết luận ác tính thì 
một chẩn đoán “Tăng sản nang tuyến 
không điển hình, nghĩ đến ác tính” 
được sử dụng.
b. Các biến thể của carcinôm tuyến 
tiền liệt:
- Biến thể dạng teo đét (Atrophic 
variant):
Chiếm tỷ lệ khoảng 2% các ung thư 
biểu mô tuyến tiền liệt trong các mẫu 
sinh thiết kim và chiếm tỷ lệ 16% các 
carcinôm ở các mẫu sinh thiết trọn u. 
Cấu trúc u gồm các đám tuyến teo đét. 
Việc chẩn đoán biến thể này có thể khó 
khăn do có ít sự biến đổi bất thường về 
nhân tế bào. Các yếu tố để chẩn đoán ác 
tính chủ yếu dựa vào tính chất xâm lấn 
của các đám tuyến đơn độc.
- Biến thể giả tăng sản 
(Pseudohyperplastic variant):
Cấu trúc u gồm các tuyến tăng sản 
dạng nhú và phân nhánh. Nhân tế bào 
hình tròn và không tăng tầng. Ngoài ra 
có thể gặp xen lẫn các ổ đám có cấu 
trúc dạng nang.
- Biến thể tuyến dạng bọt bào 
(Foamy gland variant):
Chiếm tỷ lệ khoảng 0,2 – 2 % các 
ung thư biểu mô tuyến tiền liệt. Biến 
thể này có đặc điểm là bào tương tế bào 
u rộng dạng bọt bào. Nhân tế bào nhỏ, 
vón (pyknotic), tỷ lệ nhân/bào tương 
thấp. Do đặc điểm như vậy nên việc 
chẩn đoán ác tính cần dựa vào các yếu 
tố: các đám tuyến tăng mật độ, xâm lấn 
và các đám chất chế tiết không tế bào 
bắt màu hồng nhạt.
- Biến thể nhầy (Mucinous variant):
Chiếm tỷ lệ khoảng 0,2% các ung 
thư biểu mô tuyến tiền liệt. Cấu trúc 
u gồm các ổ, đám tuyến đơn độc xen 
lẫn với các hốc nhầy xâm lấn trong mô 
đệm. Tiêu chuẩn để chẩn đoán biến thể 
này khi có ít nhất 25% thành phần u là 
chất nhầy ngoài tế bào và thường không 
gặp hình ảnh chế nhầy trong tế bào.
- Biến thể dạng tế bào nhẫn (Signet 
ring – Like cell variant):
Loại này rất hiếm gặp, ước tính chỉ 
gặp 30 trường hợp trong số 100.000 ung 
thư biểu mô tuyến tiền liệt. Đặc điểm 
của biến thể này là gặp các không bào 
(vacuoles) trong các tế bào u. Không 
giống các u tế bào nhẫn ở nơi khác là 
các tế bào u không chế nhầy và các hốc 
sáng trong tế bào không phải là chất 
nhầy. Tiêu chuẩn để chẩn đoán là tế 
bào dạng nhẫn ít nhất chiếm 25% thành 
phần khối u.
- Biến thể tế bào khổng lồ đa dạng 
(Pleomorphic giant cell variant):
Đây là một biến thể rất hiếm gặp 
trong carcinôm tuyến tiền liệt. Có 
ít hơn 10 trường hợp được ghi nhận 
trong y văn. Cấu trúc u gồm các tế bào 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017
112
có nhân lớn, đa dạng (nhưng thường 
không gặp dạng tế bào thoi). Hình ảnh 
bất thường nhân và đa dạng tế bào gặp 
từ 5 – 70% khối u và thường xen lẫn 
với các ổ carcinôm tuyến típ quy ước, 
các ổ tế bào nhỏ thần kinh nội tiết, các 
đám carcinôm gai hoặc carcinôm dạng 
ống – tuyến.
- Biến thể dạng sarcôm (sarcomatoid 
variant):
Thường gặp ở lứa tuổi cao, trung 
bình là 68 tuổi. khoảng ½ số bệnh nhân 
có tiền sử bị carcinôm tuyến tiền liệt 
đã được điều trị bằng liệu pháp nội tiết 
hoặc xạ trị. Cấu trúc u gồm 2 thành 
phần biểu mô và trung mô (vì vậy còn 
được gọi là carcinosarcoma). Thành 
phần biểu mô thường là carcinôm tuyến 
có độ Gleason cao. Thành phần trung 
mô thường gồm sarcôm dạng tế bào 
thoi không đặc hiệu hoặc có thể gặp các 
dạng biệt hóa sarcôm xương, sarcôm 
sụn, sarcôm cơ vân,..
Hình 1: (A)Carcinôm tuyến dạng nang. (B)Carcinôm tuyến dạng bọt bào.
 (C)Carcinôm tuyến dạng teo đét. (D)Carcinôm tuyến dạng nhầy.
 ( Nguồn : Histologic classification of carcinoma of the prostate). [5]
Carcinôm tuyến dạng ống (Ductal 
adenocarcinoma).
Là một phân típ của carcinôm tuyến 
tiền liệt, chiếm tỷ lệ 0,2 – 0,8 % các 
ung thư biểu mô tuyến tiền liệt. Hình 
ảnh vi thể tế bào u có hình trụ cao, nhân 
thon dài, tăng sắc. Có ba dạng cấu trúc 
thường gặp là dạng sàng, dạng nhú và 
dạng đặc.
Tân sinh biểu mô tuyến tiền 
liệt, độ cao (High grade, Prostatic 
Intraepithelial Neoplasia - HGPIN).
HGPIN gặp khoảng 5% trong các 
mẫu sinh thiết kim và hơn 85% các ung 
thư tuyến tiền liệt cùng gặp sự xuất hiện 
của HGPIN. Hình ảnh vi thể có sự tăng 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
113
sinh các tế bào chế tiết, tạo thành nhiều 
ổ. Màng đáy mất liên tục với một số 
đám tuyến có xu hướng xâm lấn. Có 4 
dạng mô học thường gặp trong HGPIN 
là: dạng búi (tufting), dạng vi nhú 
(micropapillary), dạng sàng (cribriform) 
và dạng phẳng (flat). Các biến thể khác 
có thể gặp như: dạng nhẫn, dạng nhầy, 
dạng tế bào nhỏ, dạng bọt,...
Carcinôm trong ống (Intraductal 
carcinoma).
Carcinôm nội ống gặp ở khoảng 
2,8% trong các mẫu sinh thiết tuyến 
tiền liệt. Đặc điểm mô bệnh học là các 
tế bào biểu mô ác tính còn trong giới 
hạn của nang và ống tuyến tiền liệt. 
Vẫn còn thấy cấu trúc màng đáy. Dạng 
cấu trúc thường gặp của carcinôm nội 
ống là dạng sàng hoặc dạng đặc kèm 
theo bất thường nhân (kích thước nhân 
tế bào có thể gấp 6 lần so với nhân tế 
bào bình thường).
Carcinôm niệu mạc (Urothelial 
carcinoma).
Carcinôm niệu mạc nguyên phát ở 
tuyến tiền liệt là rất hiếm gặp mà thường 
là thứ phát do carcinôm niệu mạc bàng 
quang xâm lấn vào với tỷ lệ gặp khoảng 
4%. Với các u nguyên phát thường xuất 
phát từ đoạn trung tâm của các ống 
tuyến tiền liệt. Cấu trúc mô bệnh học 
giống như carcinôm niệu mạc ở đường 
tiết niệu tuy nhiên có thể gặp một số 
vùng biệt hóa tuyến hoặc biệt hóa gai.
Các u biểu mô gai (Squamous 
neoplasms).
Gồm hai biến thể là carinôm gai - 
tuyến và carcinôm tế bào gai chiếm tỷ 
lệ khoảng 0,6% các carcinôm tuyến tiền 
liệt. Khoảng 50% loại ung thư này xuất 
hiện sau các ung thư tuyến tiền liệt được 
điều trị bằng liệu pháp nội tiết hoặc xạ 
trị. Carcinôm tế bào gai cũng giống 
như cấu trúc carcinôm tế bào gai ở nơi 
khác. Carcinôm gai – tuyến gồm thành 
phần gai xen lẫn thành phần tuyến. Lưu 
ý carcinôm tế bào gai nguyên phát của 
tuyến tiền liệt cần phải phân biệt với 
carcinôm tế bào gai từ bàng quang hoặc 
từ đường tiết niệu xâm lấn vào tuyến 
tiền liệt.
Carcinôm tế bào đáy (Basal Cell 
Carcinoma).
Hiếm gặp ở tuyến tiền liệt, còn 
được gọi là carcinôm bọc dạng tuyến 
(Adenoid cystic carcinoma). Cấu trúc u 
gồm các vùng tạo bọc dạng tuyến hoặc 
dạng sàng xen lẫn các ổ đám dầy đặc tế 
bào đáy. Tế bào u có thể xâm lấn lớp cơ 
niêm vùng cổ bàng quang. Tỷ lệ phân 
bào thay đổi từ 0 – 60 phân bào / vi 
trường lớn. Các yếu tố khác giúp chẩn 
đoán ác tính như xâm lấn mô đệm, xâm 
lấn thần kinh, mô hoại tử. 
II. PHÂN ĐỘ MÔ HỌC CỦA 
CARCINÔM TUYẾN TIỀN LIỆT
Phân độ mô học của carcinôm tuyến 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017
114
tiền liệt giúp cho các bác sĩ lâm sàng có 
định hướng tốt cho việc lập kế hoạch 
điều trị và tiên lượng. Đối với carcinôm 
tuyến tiền liệt thì hệ thống phân độ mô 
học theo thang điểm Gleason được dử 
dụng rộng rãi. Hệ thống phân độ này 
dựa chủ yếu vào sự biến đổi cấu trúc 
biểu mô tuyến. Tùy theo các dạng mô 
học riêng biệt mà phân ra các mức độ từ 
1 – 5 điểm với sự biệt hóa giảm dần. Hai 
dạng mô học phổ biến thứ nhất và thứ 
hai của u được cộng lại và cho ra điểm 
Gleason. Trong tổng số điểm Gleason, 
điểm của dạng mô học phổ biến nhất 
được đặt trước. Trường hợp khối u chỉ 
có một dạng mô học thì điểm Gleason 
được tính gấp đôi điểm của dạng mô 
học này. Trường hợp khối u có trên 
ba dạng mô học thì điểm Gleason thứ 
nhất là điểm của dạng mô học phổ biến, 
điểm Gleason thứ hai là điểm của dạng 
mô học có độ Gleason cao hơn trong số 
các dạng mô học còn lại. Dựa vào điểm 
Gleason mà đánh giá được mức độ biệt 
hóa cũng như tiên lượng với các khối 
u .
Gleason 2 – 4 điểm: Biệt hóa tốt.
Gleason 5 – 7 điểm: Biệt hóa vừa.
Gleason 8 – 10 điểm: Biệt hóa xấu.
Việc phân độ mô học theo thang 
điểm Gleason thường được áp dụng các 
carcinôm tuyến dạng nang (típ mô học 
qui ước), tuy nhiên cũng có thể áp dụng 
với một số biến thể của carcinôm tuyến. 
Với các biến thể dạng ống, dạng nhầy, 
dạng tế bào nhẫn, dạng sarcôm thường 
được xếp vào nhóm có độ mô học cao 
( điểm Gleason 8 – 10). Tuy nhiên 
một số tác giả khác đề xuất rằng phân 
độ mô học theo bảng Gleason không 
nên áp dụng cho các biến thể trên do 
chúng có các đặc điểm về cấu trúc mô 
học riêng biệt.
Hình 2 : Hệ thống phân độ mô học 
Gleason trong carciôm tuyến tiền liệt.
 ( Nguồn : Tumors of the kidney and 
male urogenital system). [3]
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
115
 III. VAI TRÒ CỦA HÓA MÔ MIỄN DỊCH TRONG CHẨN ĐOÁN 
CÁC U BIỂU MÔ TUYẾN TIỀN LIỆT
Xét nghiệm hóa mô miễn dịch 
thường được sử dụng chủ yếu để phân 
biệt các ung thư biểu mô tuyến tiền liệt, 
độ ác cao với một số dạng chẩn đoán 
đặc biệt như: Carcinôm niệu mạc, viêm 
tuyến tiền liệt dạng hạt, u mỡ vàng, 
carci nôm tuyến đại trực tràng và biểu 
mô carci nôm tuyến di căn đến tuyến 
tiền liệt. Hóa mô miễn dịch còn được sử 
dụng để chẩn đoán xác định carcinôm 
tuyến tiền liệt nhỏ ở các mẫu sinh thiết 
kim.
1. Chẩn đoán xác định carcinôm 
tuyến tiền liệt nhỏ ở các mẫu sinh 
thiết kim:
Carcinôm tuyến tiền liệt nhỏ ở 
các mẫu sinh thiết kim thường có kích 
thước nhỏ( < 1mm) vì vậy đôi khi rất 
khó khăn trong vấn đề chẩn đoán xác 
định có ung thư hay không. Bộ ba dấu 
ấn miễn dịch được sử dụng là 34βE12; 
P63 và AMACR. Trong đó 34βE12 và 
P63 cho biết sự có mặt hay không của 
các tế bào đáy, vì trong carcinôm tuyến 
tiền liệt xâm lấn không có sự hiện diện 
của tế bào đáy. AMACR dương tính 
80 – 100% với tế bào ung thư biểu mô 
tuyến tiền liệt.
Hình 3 : Nhuộm hóa mô miễn dịch p63 dương tính mạnh với tế bào đáy
( Nguồn : Immunohistology of the prostate, bladder, kidney and testis). [4]
2. Chẩn đoán phân biệt giữa 
carcinôm tuyến tiền liệt kém biệt hóa 
với carcinôm niệu mạc:
Hai dấu ấn( markers) thường sử 
dụng là PSA và GATA3. Trong đó PSA 
dương tính 90 – 95% carcinôm tuyến 
tiền liệt độ ác cao( Gleason 8 – 10) và 
PSA âm tính với carcinôm niệu mạc. 
Ngược lại GATA3 dương tính trong 
80% carcinôm niệu mạc độ ác cao và 
âm tính trong carcinôm tuyến tiền liệt.
3. Chẩn đoán phân biệt giữa 
carcinôm tuyến tiền liệt độ ác cao với 
viêm tuyến tiền liệt dạng hạt hoặc u 
mỡ vàng:
Sử dụng nhuộm miễn dịch với các 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017
116
kháng thể AE1/AE3 và CAM5.2 phát 
hiện tế bào ung thư biểu mô tuyến tiền 
liệt nhuộm miễn dịch với kháng thể 
CD68 để phát hiện mô bào trong các 
tổn thương viêm và u mỡ vàng.
4. Chẩn đoán phân biệt giữa 
carcinôm tuyến tiền liệt độ ác cao với 
carcinôm tuyến bàng quang:
Thường sử dụng các dấu ấn PSA, 
PAP, CDX2 và CEA. Trong đó PSA và 
PAP dương tín 90 – 95% với carcinôm 
tuyến tiền liệt độ ác cao và chỉ có biểu 
hiện < 5% với CDX2 và CEA. Trong 
khi CDX2 và CEA dương tính 47 – 
65% với carci nôm tuyến bàng quang 
và âm tính với PSA, PAP.
5. Chẩn đoán phân biệt giữa 
carcinôm tuyến tiền liệt độ ác cao với 
carcinôm tuyến đại trực tràng:
Sử dụng hai dấu ấn là PSA và 
CDX2. Trong đó PSA dương tính với 
carcinôm tuyến tiền liệt và âm tính với 
carcinôm tuyến đại trực tràng và ngược 
lại CDX2 dương tính với carcinôm 
tuyến đại trực tràng, rất hiếm dương 
tính với carcinôm tuyến tiền liệt.
6. Chẩn đoán các ung thư biểu 
mô tuyến di căn:
Hai dấu ấn miễn dịch thương được 
sử dụng là PSA và PAP, có tỷ lệ dương 
tính cao với carcinôm tuyến tiền liệt, từ 
đó chứng minh nguồn gốc nguyên phát 
của khối u. Các ung thư biểu mô di căn 
đến tuyến tiền liệt thường âm tính với 
PSA và PAP. Tuy nhiên cũng cần lưu ý 
PSA và PAP không phải là các dấu ấn 
đặc hiệu tuyệt đối với carcinôm tuyến 
tiền liệt vì nó có thể dương tính trong 
một số loại u khác như: các u tuyến 
nước bọt, u thần kinh nội tiết, carcinôm 
tuyến của bàng quang, bướu quái trưởng 
thành...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hứa Thị Ngọc Hà (2014): Hóa 
mô miễn dịch trong chẩn đoán, tiên 
lượng và điều trị bệnh; Nhà xuất bản y 
học thành phố Hồ Chí Minh.
2. Trần Phương Hạnh, Nguyễn Sào 
Trung (2011): Giải phẫu bệnh học; Nhà 
xuất bản giáo dục Việt Nam; tr 499 – 
520.
3.Damjanov. I and Mikuz. G 
(2007): Tumors of the kidney and male 
urogenital system in Cancer Gradding 
Manual; Springer ; 55 – 63.
4. Netto. GJ and Epstain. IJ (2010) 
: Immunohistology of the prostate, 
bladder, kidney and testis in Diagnostic 
immunohistochemistry; 3rd edition; 
philadelphia saunders; 593 - 661.
5. Mikuz.G (2007): Histologic 
classification of carcinoma of the 
prostate in Clinical pathology of 
urologic tumors; Informa UK Ltd; 106 
– 116.
6. Moch.H...et al (2016): WHO 
Classification of tumors of urinary 
system and male gennital organs ; 4th 
edition, Lyon IARC , 135 – 174.
7. Rosai . J (2011) : Male 
reproductive system in surgical 
pathology, 10th edition, Elsevier Inc, 
1287 – 1333.

File đính kèm:

  • pdfcap_nhat_phan_loai_cac_u_bieu_mo_tuyen_tien_liet_theo_who_20.pdf