Cập nhật mới về các vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ chuẩn bị mang thai, đang mang thai và sau khi sinh
Nghiên cứu ở các nước đang phát triển cho thấy nhu cầu về một số vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ
tăng cao hơn những chất khác trong giai đoạn chuẩn bị mang thai, đang mang thai và sau khi sinh.
Thực tế, bổ sung các vi chất dinh dưỡng không những giúp cải thiện sức khỏe của mẹ và sự phát
triển tối ưu của bé mà chúng còn có thể giải quyết được nhiều vấn đề lâm sàng. Những sản phẩm
chứa các vi chất dinh dưỡng này
Bạn đang xem tài liệu "Cập nhật mới về các vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ chuẩn bị mang thai, đang mang thai và sau khi sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cập nhật mới về các vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ chuẩn bị mang thai, đang mang thai và sau khi sinh
43 THÔNG TIN CẬP NHẬT Cập nhật mới về các vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ chuẩn bị mang thai, đang mang thai và sau khi sinh Nguyễn Thị Thanh Hà* Tóm tắt Nghiên cứu ở các nước đang phát triển cho thấy nhu cầu về một số vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ tăng cao hơn những chất khác trong giai đoạn chuẩn bị mang thai, đang mang thai và sau khi sinh. Thực tế, bổ sung các vi chất dinh dưỡng không những giúp cải thiện sức khỏe của mẹ và sự phát triển tối ưu của bé mà chúng còn có thể giải quyết được nhiều vấn đề lâm sàng. Những sản phẩm chứa các vi chất dinh dưỡng này có nhiều dạng khác nhau, được bán theo đơn hay bán tự do, không quá mắc tiền và rất dễ sử dụng. Từ khóa: omega-3, DHA, folate, folic acid, iron, iodine,vitamin D3, canxium, dự định mang thai, mang thai, sau khi sinh (hậu sản), mới sinh, vi chất dinh dưỡng, sức khỏe. Omega-3 triglycerides Một báo cáo đồng thuận của các cơ quan sức khoẻ sinh sản quốc tế năm 20071 đã đề nghị liều tối thiểu 200mg DHA hàng ngày cho với phụ nữ mang thai và cho con bú. Các tác giả tin rằng cung cấp đủ lượng DHA (có nguồn gốc từ khẩu phần axit béo omega-3 từ mẹ) hỗ trợ sự phát triển của não, có ích cho hệ thần kinh trung ương, cũng như sự tăng trưởng màng tế bào trong các mô khác của thai nhi trong tam cá nguyệt thứ ba và sự phát triển sớm ở trẻ sơ sinh. Điều này tương quan trực tiếp với nguy cơ sinh non và sinh thiếu tháng. Một nghiên cứu gần đây ở Mỹ so sánh các chỉ số ở trẻ sinh non tháng so với trẻ sinh đủ tháng đã phát hiện có sự tương quan thuận đáng kể (P <0,001) giữa tuổi thai và nồng độ các axit béo không no chuỗi dài (PUFAs), bao gồm DHA trong hệ tuần hoàn. Cũng có ý kiến cho rằng trẻ sơ sinh non tháng chưa phát triển khả năng tổng hợp PUFA, khiến bé có nguy cơ chậm phát triển hơn sau khi sinh. Nghiên cứu thứ hai ở Mỹ - Latin đã đánh giá mối quan hệ giữa khẩu phần Omega-3 của mẹ và các thông số tăng trưởng ở trẻ sơ sinh.3 * Bộ môn Sản ĐHYD.TP.HCM, Email: [email protected], DĐ: 0913777383 Kết quả cho thấy bổ sung liều trung bình 55mg/ngày (như DHA) trong tam cá nguyệt đầu tiên có tương quan tới sự gia tăng chu vi vòng đầu và cân nặng thai nhi so với trẻ sinh ra từ các bà mẹ trong nhóm dùng giả dược. Ngoài ra, ở nhóm sử dụng DHA giảm một nửa tỷ lệ trẻ sơ sinh đơn thai nhẹ cân (<2,5kg) và chậm phát triển trong tử cung, so với nhóm đối chứng (Hình 1). Những nghiên cứu này cho thấy bằng chứng duy trì đầy đủ Omega-3 cho người mẹ có thể ngăn ngừa sự ảnh hưởng bất lợi lên cân nặng và sự phát triển của trẻ. Nhiều báo cáo khuyến khích sử dụng Omega-3 trong giai đoạn trước khi mang thai và sau khi sinh. Một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy việc bổ sung DHA trong suốt thai kỳ (>130mg/ngày) có thể giúp cải thiện nhận thức, phát triển cử động và thị lực của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Trong giai đoạn trước thụ thai, hàm lượng DHA cao hơn có tương quan thuận với sự cải thiện hình thái phôi ở phụ nữ trải qua điều trị vô sinh.4 Sắt và folate Có bằng chứng hỗ trợ cho việc sử dụng axit folic như một chất bổ sung, giúp duy trì sự phát triển khỏe mạnh của bào thai bằng cách giảm thiểu nguy cơ phát triển các bất thường trong hệ thần kinh trung 44 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 ương (vd: dị tật ống thần kinh). Phân tích gộp gần đây trên 17 thử nghiệm lâm sàng chất lượng cao, so sánh việc sử dụng kết hợp folate, sắt và nhiều vi chất dinh dưỡng với việc dùng sắt hoặc folate đơn thuần ở phụ nữ mang thai. Kết quả cho thấy bổ sung ít nhất 400μg axit folic kết hợp với sắt và các vi chất dinh dưỡng hằng ngày, làm giảm 8% nguy cơ sinh non và giảm 12% nguy cơ trẻ nhẹ cân so với sử dụng sắt hoặc folate riêng lẻ. Mức axit folic này cũng đã được xác định trong một nghiên cứu bổ sung về tính an toàn trong nửa sau của thai kỳ, trong đó không tìm thấy các folate không chuyển hóa trong máu mẹ và thai.5 Do đó, lượng axit folic này có thể được coi là an toàn và hiệu quả trong thời kỳ mang thai và tránh được hiện tượng "liều cao" sử dụng trong các sản phẩm bổ sung folate khác. Hình 1. Giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân (<2500g) và bị chậm tăng trưởng trong tử cung (IUGR), con của những phụ nữ bổ sung quá ít DHA trong thời kỳ mang thai. Dữ liệu trích dẫn từ nghiên cứu của Ramakrishnan và CS 2013 (*P<0.05). Folate cũng có những ảnh hưởng nhất định trước khi mang thai. Một phân tích gộp trên năm thử nghiệm lâm sàng cho thấy dùng 400μg axit folic/ngày trong chế độ dinh dưỡng ít nhất một tháng trước khi thụ thai và trong suốt tam cá nguyệt đầu tiên hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc dị tật ống thần kinh.6 Báo cáo này cũng cho thấy sử dụng mức liều này có thể giảm 30% nguy cơ phải kết thúc thai kỳ do dị tật thai nhi. Các nhà nghiên cứu trên có một đánh giá tổng quan tiếp theo năm 2015 và phát hiện kết quả trước đó vẫn đúng.7 Họ còn có phát hiện là bổ sung cũng với liều lượng đó có thể ngăn ngừa sự tái xuất hiện của dị tật ống thần kinh. Cung cấp sắt đầy đủ có ảnh hưởng trực tiếp đến hồng cầu của mẹ vì họ có nhu cầu sắt tăng lên trong thời gian mang thai để đáp ứng cho bào thai đang phát triển. Trong giai đoạn này, thể tích máu tăng theo cấp số nhân, trong khi huyết áp của người mẹ vẫn không thay đổi. Sắt cũng rất quan trọng cho sự phát triển của hồng cầu thai nhi. Sắt nguyên tố là một thành phần thiết yếu của huyết sắc tố. Các quốc gia có khẩu phần ăn với hàm lượng protein thấp và tiêu thụ nhiều đậu nành và thực vật chứa phytate, thường có tỷ lệ thiếu sắt và/hoặc thiếu máu do thiếu sắt cao hơn. Các chiến lược bổ sung sắt đã chứng minh rõ ràng sự cải thiện tình trạng thiếu sắt và các bệnh liên quan.8 Một đánh giá tổng quan trên 44 thử nghiệm lâm sàng gần đây với hơn 40.000 phụ nữ đã báo cáo một số phát hiện chính, bao gồm giảm đáng kể tần suất thiếu máu do thiếu sắt ở các bà mẹ hoặc thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ đang bổ sung sắt so với không bổ sung sắt hoặc dùng giả dược. Đối với thiếu máu ở người mẹ, sắt kết hợp với folate thậm chí còn làm giảm tỷ lệ thiếu máu gần hai phần ba (Hình 2). Hình 2. Tần suất thiếu sắt, thiếu máu hoặc thiếu máu do thiếu sắt (IDA) kéo dài trong các nghiên cứu bổ sung sắt (***P<0,01). Dữ liệu trích dẫn từ nghiên cứu của Pena-Rosas và cs. 2015.10 Vitamin D3 và canxi Vitamin D3 giữ vai trò quan trọng trong lâm sàng và giúp ngăn ngừa sự thiếu hụt canxi bằng cách thúc đẩy vận chuyển 45 THÔNG TIN CẬP NHẬT canxi trong ruột. Do đó, đa số các thử nghiệm lâm sàng đã coi sự kết hợp này như một sự bổ sung, hỗ trợ hấp thu canxi vào cơ thể mẹ và cho sự phát triển khung xương thai nhi. Vitamin D3 cũng đóng một vai trò độc lập khác như một chất điều hòa miễn dịch phân tử trong bệnh sinh của tiền sản giật,9 và thiếu hụt thần kinh nhận thức ở trẻ sơ sinh/trẻ nhỏ. Những thai phụ đã dùng vitamin D3 200 IU/ngày kết hợp với canxi trong suốt thai kỳ có mật độ xương sống và xương đùi tốt hơn sau khi sinh.10 Phác đồ tương tự cũng được chứng minh giúp cải thiện trọng lượng trẻ sơ sinh.11 Bổ sung canxi kết hợp D3 cũng làm giảm nguy cơ mắc rối loạn chức năng thận ở người mẹ; sinh non và cân nặng dưới mức trung bình ở trẻ sơ sinh. Một phát hiện gần đây cho thấy thiếu hụt vitamin D có khả năng làm tăng nguy cơ đái tháo đường thai kỳ.12 Nếu không điều trị, tình trạng này có thể dẫn đến tiền sản giật, nhiễm khuẩn âm đạo và tăng khả năng phải mổ lấy thai. Đái tháo đường thai kỳ đặc biệt liên quan tới việc thay đổi thói quen ăn uống đồ Tây ở các nền văn hoá châu Á, đặc biệt là tiêu thụ carbohydrate, dẫn đến gia tăng tỷ lệ kháng insulin, mất cân bằng chuyển hóa và biến chứng tim mạch. Phát hiện từ một thử nghiệm nhỏ ở Iran cho thấy bổ sung vitamin D3 cho 80 phụ nữ mang thai có dấu hiệu đái tháo đường thai kỳ giúp giảm ba lần tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường sau đó (nhóm đối chứng là 34,8% so với nhóm thử nghiệm là 11,4%, P <0,01), liên quan nghịch với sự gia tăng gấp ba lần đáp ứng trong các thử nghiệm glucose (nhóm đối chứng là 10,9% so với nhóm kiểm tra là 35,9%, P <0,005).13 Việc bổ sung canxi và vitamin D ít nhất sáu tuần trong một nghiên cứu độc lập trên những phụ nữ có nền văn hoá giống nhau cho thấy thời gian nằm viện và tỉ lệ mổ sanh giảm 60% cũng như không xuất hiện chứng macrosomia (thai to vượt mức), so với tỷ lệ mắc là 13% ở trẻ sơ sinh thuộc nhóm chứng. Iốt Sử dụng iốt trong thực phẩm đã góp phần rất lớn vào việc giảm tỷ lệ rối loạn tuyến giáp và thai nhi đần độn ở các nước đang phát triển. Thực phẩm chức năng chứa iốt (100 µg/ngày) bổ sung từ tam cá nguyệt thứ hai đã được chứng minh giúp ngăn ngừa sự chậm phát triển và dị tật thần kinh liên quan đến khiếm khuyết tuyến giáp ở người mẹ. Do đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo bổ sung ít nhất 150 µg/ngày để đảm bảo cung cấp iốt đầy đủ trong thời gian mang thai.14 Nhu cầu này tăng nhẹ ở các bà mẹ cho con bú, dựa trên những dấu hiệu cho thấy iốt của người mẹ hỗ trợ chức năng não và tuyến giáp của trẻ sơ sinh thông qua sự thay đổi nồng độ trong sữa mẹ. Mặc dù vậy, tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ ở nữ giới gần gấp đôi nam giới và tăng theo cấp số theo độ tuổi, điều đáng ngạc nhiên là iốt đã được kê đơn trong nhiều thập kỷ qua và vẫn tiếp tục được kê đơn cho tất cả các giai đoạn của chu kỳ sinh sản ở các nước phương Tây.15 Mặc dù các quốc gia châu Á có lượng Iốt ăn vào cao hơn thông qua các nguồn thực phẩm như rong biển và động vật có vỏ nhưng nhu cầu vẫn được duy trì ở mức WHO khuyến cáo để phòng ngừa các khiếm khuyết trong phát triển ở trẻ nhỏ. Tổng kết Bốn loại vi chất dinh dưỡng trên là những chất đã được thảo luận nhiều nhất, liên quan đến hỗ trợ sức khoẻ của bà mẹ và thai nhi, tối ưu hóa sức khoẻ sinh sản trước khi mang thai. Bất kỳ chiến lược bổ sung nào có chứa các chất dinh dưỡng này sẽ có thể hỗ trợ lâm sàng cho phụ nữ ở những giai đoạn này. Nếu không ngăn ngừa được thì ít nhất các vi chất trên cũng có thể giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh có thể có cho mẹ và làm giảm hậu quả trung và dài hạn đối với trẻ sơ sinh. Tài liệu tham khảo 1. Koletzko, B., I. Cetin, and J.T. Brenna, Dietary fat intakes for pregnant and lactating women. Br J Nutr, 2007. 98(5): p. 873-7. 2. Baack, M.L., et al., What is the relationship 46 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 between gestational age and docosahexaenoic acid (DHA) and arachidonic acid (ARA) levels? Prostaglandins Leukot Essent Fatty Acids, 2015. 100: p. 5-11. 3. Ramakrishnan, U., et al., Effects of docosahexaenoic acid supplementation during pregnancy on gestational age and size at birth: randomized, double-blind, placebo-controlled trial in Mexico. Food Nutr Bull, 2010. 31(2 Suppl): p. S108-16. 4. Hammiche, F., et al., Increased preconception omega-3 polyunsaturated fatty acid intake improves embryo morphology. Fertil Steril, 2011. 95(5): p. 1820-3. 5. Pentieva, K., et al., Evidence from a Randomized Trial That Exposure to Supplemental Folic Acid at Recommended Levels during Pregnancy Does Not Lead to Increased Unmetabolized Folic Acid Concentrations in Maternal or Cord Blood. J Nutr, 2016. 146(3): p. 494-500. 6. De-Regil, L.M., et al., Effects and safety of periconceptional folate supplementation for preventing birth defects. Cochrane Database Syst Rev, 2010(10): p. Cd007950. 7. De-Regil, L.M., et al., Effects and safety of periconceptional oral folate supplementation for preventing birth defects. Cochrane Database Syst Rev, 2015(12): p. Cd007950. 8. Pena-Rosas, J.P., et al., Daily oral iron supplementation during pregnancy. Cochrane Database Syst Rev, 2015(7): p. Cd004736. 9. Tamblyn, J.A., et al., Dysregulation of maternal and placental vitamin D metabolism in preeclampsia. Placenta, 2017. 50: p. 70- 77. 10. Diogenes, M.E., et al., Effect of calcium plus vitamin D supplementation during pregnancy in Brazilian adolescent mothers: a randomized, placebo-controlled trial. Am J Clin Nutr, 2013. 98(1): p. 82-91. 11. Diogenes, M.E., et al., Calcium Plus Vitamin D Supplementation During the Third Trimester of Pregnancy in Adolescents Accustomed to Low Calcium Diets Does Not Affect Infant Bone Mass at Early Lactation in a Randomized Controlled Trial. J Nutr, 2015. 145(7): p. 1515-23. 12. Triunfo, S., A. Lanzone, and P.G. Lindqvist, Low maternal circulating levels of vitamin D as potential determinant in the development of gestational diabetes mellitus. J Endocrinol Invest, 2017. 13. Shahgheibi, S., F. Farhadifar, and B. Pouya, The effect of vitamin D supplementation on gestational diabetes in high-risk women: Results from a randomized placebo- controlled trial. J Res Med Sci, 2016. 21: p. 2. 14. WHO, Vitamin and Mineral requirements in human nutrition, W.H. Organization, Editor. 2004 15. De Leo, S., E.N. Pearce, and L.E. Braverman, Iốtine Supplementation in Women During Preconception, Pregnancy, and Lactation: Current Clinical Practice by U.S. Obstetricians and Midwives. Thyroid, 2017. 27(3): p. 434-439.
File đính kèm:
cap_nhat_moi_ve_cac_vi_chat_dinh_duong_cho_phu_nu_chuan_bi_m.pdf

