Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại

Các ngân hàng thương mại (NHTM)- tổ chức trung gian tài chính,

đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành các chức năng của hệ

thống tài chính. Nếu các chức năng cơ bản của các NHTM- chức

năng tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung

gian tín dụng- bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thị

trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh

hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế. Khi tình trạng

căng thẳng của các tổ chức này tăng cao sẽ lan truyền ra cả hệ thống

tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực. Chính vì vậy,

nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng có ý nghĩa vô cùng

quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam vẫn dựa vào

ngân hàng làm trung tâm (bank based financial system). Trong bài

viết này, tác giả đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng Việt Nam

dựa trên dữ liệu bảng cân đối của các NHTM, qua đó chỉ ra những

giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, từ đó rút ra những bài học

cần thiết giúp các NHTM có thể phát triển ổn định và lành mạnh,

phòng ngừa những căng thẳng có thể xảy ra trong tương lai.

Từ khóa: Căng thẳng khu vực ngân hàng, bảng cân đối, căng thẳng

tài chính

pdf 9 trang phuongnguyen 7720
Bạn đang xem tài liệu "Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại

Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại
64
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 195- Tháng 8. 2018
Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ 
báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
Vũ Thị Kim Oanh
Ngày nhận: 21/05/2018 Ngày nhận bản sửa: 26/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/08/2018
Các ngân hàng thương mại (NHTM)- tổ chức trung gian tài chính, 
đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành các chức năng của hệ 
thống tài chính. Nếu các chức năng cơ bản của các NHTM- chức 
năng tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung 
gian tín dụng- bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thị 
trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh 
hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế. Khi tình trạng 
căng thẳng của các tổ chức này tăng cao sẽ lan truyền ra cả hệ thống 
tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực. Chính vì vậy, 
nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng có ý nghĩa vô cùng 
quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam vẫn dựa vào 
ngân hàng làm trung tâm (bank based financial system). Trong bài 
viết này, tác giả đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng Việt Nam 
dựa trên dữ liệu bảng cân đối của các NHTM, qua đó chỉ ra những 
giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, từ đó rút ra những bài học 
cần thiết giúp các NHTM có thể phát triển ổn định và lành mạnh, 
phòng ngừa những căng thẳng có thể xảy ra trong tương lai.
Từ khóa: Căng thẳng khu vực ngân hàng, bảng cân đối, căng thẳng 
tài chính
1. Khái quát về căng thẳng khu vực ngân 
hàng
ăng thẳng khu vực ngân hàng 
dù là khủng hoảng bên nợ hay 
là suy giảm bên tài sản đều ảnh 
hưởng đến bảng cân đối của 
ngân hàng (Mishkin, 1992). 
Căng thẳng khu vực ngân hàng có thể được 
hiểu là những thay đổi đột ngột trong hoạt động 
ngân hàng như rút tiền ồ ạt hay tăng trưởng tín 
dụng chậm lại hoặc cả hai ảnh hưởng đến việc 
thực hiện các chức năng và tính toàn vẹn của hệ 
thống ngân hàng (Louis và Vouldis, 2013).
Căng thẳng khu vực ngân hàng xuất hiện khi có 
cú sốc ngoại sinh tác động đến hệ thống ngân 
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
65Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
hàng trong điều kiện hệ thống ngân hàng có 
những đặc tính dễ đổ vỡ. Nếu môi trường vĩ mô 
ổn định thì ngay cả khu vực ngân hàng mỏng 
manh cũng sẽ không phải trải qua căng thẳng 
hệ thống. Ngược lại, hệ thống ngân hàng vững 
mạnh vẫn có thể phải trải qua căng thẳng nếu 
có những cú sốc mạnh từ bên ngoài. Sự tương 
tác giữa độ lớn của cú sốc và đặc tính dễ đổ vỡ 
của ngân hàng sẽ xác định mức độ của căng 
thẳng khu vực ngân hàng (Hanschel và Monnin, 
2005). Căng thẳng của khu vực ngân hàng có 
thể được phản ánh thông qua các dữ liệu thị 
trường (giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng, 
sự biến động giá cố phiếu) và các dữ liệu 
bảng cân đối (suy giảm trong cho vay, trong 
tiền gửi, nợ xấu của ngân hàng tăng cao, giá trị 
các tài sản của ngân hàng giảm). 
Giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng thường 
phản ánh kỳ vọng của thị trường về viễn cảnh 
khu vực ngân hàng. Grimaldi (2010) cho rằng 
khi chỉ số này tăng có thể ám chỉ tình trạng 
tiềm ẩn bong bóng trong khi tình trạng suy 
giảm kéo dài chính là một dấu hiệu của căng 
thẳng. Cấu trúc bảng cân đối của ngân hàng, về 
mặt lý thuyết, cũng được coi là một kênh dẫn 
đến căng thẳng thị trường tài chính (Mittnik 
và Semmler, 2013). Giá tài sản giảm hay chất 
lượng tín dụng đi xuống dẫn đến giảm giá trị 
của các tài sản của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu 
cũng được sử dụng trong rất nhiều các nghiên 
cứu phản ánh căng thẳng của khu vực ngân 
hàng: Tỷ lệ nợ xấu tăng cao phản ánh suy giảm 
trong chất lượng tài sản của các ngân hàng. Khi 
chất lượng tài sản suy giảm, ảnh hưởng đến khả 
năng cấp vốn ra nền kinh tế của hệ thống ngân 
hàng, làm tăng chi phí vốn của các NHTM, gia 
tăng mức độ rủi ro của khu vực ngân hàng. Các 
ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản của 
mình, do đó, ảnh hưởng đến cấu trúc bảng cân 
đối của ngân hàng. Giảm giá trị các tài sản thế 
chấp, yếu tố quan trọng của cung tín dụng, dẫn 
đến cắt giảm tín dụng, khiến cho thị trường tài 
chính căng thẳng (Kappler và Schleer, 2013). 
Khi tiền gửi của ngân hàng giảm đột ngột, ảnh 
hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân 
hàng, ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản 
để đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh khoản 
đến hạn, dẫn đến cung tín dụng giảm, dẫn đến 
căng thẳng trên thị trường tài chính. 
Trong phân tích định lượng và lịch sử về khủng 
hoảng tài chính, Reinhart và Rogoff (2009) sử 
dụng các biến sau để xác định căng thẳng ngân 
hàng: i) Giá tương đối của cổ phiếu ngân hàng 
với thị trường; ii) Thay đổi trong tiền gửi ngân 
hàng (phản ánh việc rút tiền ồ ạt)- là dấu hiệu 
cho bên căng thẳng bên nợ; iii) Nợ xấu (phản 
ánh khủng hoảng tăng trong khu vực phi tài 
chính hoặc sự suy giảm giá bất động sản)- là 
dấu hiệu cho sự suy giảm bên tài sản (Reinhart 
và Rogoff, 2009).
2. Căng thẳng khu vực ngân hàng tại Việt 
Nam
Tại Việt Nam, để đánh giá căng thẳng khu 
vực ngân hàng, dữ liệu bảng cân đối1 đã được 
sử dụng, trong đó xem xét sự biến động của 
tỷ lệ tiền gửi/GDP, tỷ lệ cho vay/GDP và tỷ 
lệ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Dữ liệu sử 
dụng là số liệu theo quý của 12 NHTM tại Việt 
Nam (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank, 
MB, ACB, Techcombank, EIB, Sacombank, 
SHB, VPBank, SCB) được lấy từ cơ sở dữ liệu 
Bankscope của BVD, báo cáo tài chính theo 
quý của các NHTM. Các ngân hàng được chọn 
vào mẫu nghiên cứu phải đảm bảo có thời gian 
hoạt động liên tục từ năm 2005 đến hết năm 
2016, đồng thời đảm bảo tính đại diện cho hệ 
thống NHTM Việt Nam với các NHTM Nhà 
nước và các NHTM cổ phần, có tổng tài sản 
chiếm hơn 70% giá trị tổng tài sản của toàn hệ 
thống.
Qua quan sát Hình 1 và Hình 2 có thể thấy 
giai đoạn 2008- 2009 và giai đoạn 2011- 2013 
chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trong quy 
mô huy động và cho vay của hệ thống ngân 
hàng, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng 
cũng suy giảm nghiêm trọng khi tỷ lệ nợ xấu 
tăng cao trên mức 3% vào các năm 2006 và giai 
đoạn từ năm 2011- 2014.
Những căng thẳng của hệ thống ngân hàng bắt 
1 Dữ liệu thị trường không được sử dụng để nghiên 
cứu do số lượng ngân hàng có cổ phiếu niêm yết trên 
sàn còn hạn chế (năm 2017 mới có 11 ngân hàng), do 
đó diễn biến giá của các cổ phiếu này không liên tục 
trong giai đoạn nghiên cứu và chưa phản ánh được 
diễn biến chung của thị trường ngân hàng.
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
đầu xuất hiện từ năm 2008. Tình trạng của các 
ngân hàng bị ảnh hưởng chủ yếu bởi tình trạng 
thanh khoản trong nước chặt chẽ hơn, lãi suất 
cao hơn, và sự suy giảm trong giá tài sản vào 
nửa đầu năm 2008 cũng như tình trạng tăng 
trưởng chậm lại trong nửa cuối của năm 2008. 
Tỷ lệ huy động vốn/GDP giảm mạnh từ 80,5% 
năm 2007 xuống 60,3% năm 2008 và duy trì ở 
mức thấp, khoảng 60% trong suốt năm 2008. 
Đến cuối năm 2010, tỷ lệ huy động vốn/GDP 
đã tăng lên mức 89,42% GDP. Tuy nhiên, trong 
suốt giai đoạn năm 2011 đến nửa đầu năm 
2013, tình hình huy động vốn của các NHTM 
gặp khó khăn, các NHTM đã đưa ra nhiều 
chương trình để thu hút vốn huy động nhưng 
tỷ lệ huy động vốn/GDP trong giai đoạn này 
rất thấp, quý 2/2012, tỷ lệ này chỉ đạt 53,09% 
GDP. Khả năng huy động giảm ảnh hưởng đến 
khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đồng 
thời giai đoạn năm 2011-2012 cũng là giai đoạn 
những khó khăn của nền kinh tế được bộc lộ 
rõ nét, tỷ lệ cho vay/GDP cũng giảm mạnh từ 
67,86% vào cuối năm 2011 xuống còn 52,77% 
vào quý 1/2012. Xét về tốc độ tăng trưởng Tín 
dụng/GDP, con số luôn cao vượt quá 10% trong 
suốt giai đoạn 1999- 2009, thậm chí đỉnh điểm 
đạt tới 31% (1999), 28% (2007) và 30% (2009). 
So với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ 
Tín dụng/GDP của Việt Nam có sự biến động 
mạnh trong suốt thập niên đầu thế kỷ 21, tốc độ 
tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam gấp năm lần 
tốc độ tăng trưởng GDP (đỉnh điểm năm 2007). 
Hơn nữa, việc mở rộng tín dụng quá mức giai 
đoạn 2008- 2010 tại nhiều ngân hàng lại tập 
trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao như 
kinh doanh bất động sản, chứng khoán càng 
khiến hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi 
ro. Tín dụng tăng mạnh trong khi quy mô huy 
động giảm, không tăng hoặc tăng rất ít đã khiến 
tỷ lệ cho vay/huy động tăng liên tục, các ngân 
hàng phải phụ thuộc vào nguồn tài trợ liên ngân 
hàng ngắn hạn, một số ngân hàng gặp vấn đề về 
thanh khoản nghiêm trọng khi Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam (NHNN) thắt chặt chính sách 
tiền tệ. Một số NHTMCP nhỏ rơi vào tình trạng 
căng thẳng nghiêm trọng, phải nhận hỗ trợ 
thanh khoản khẩn cấp từ NHNN. Lãi biên của 
ngân hàng bị suy giảm do chi phí huy động vốn 
tăng cao trong khi lãi suất cho vay bị giới hạn. 
Chất lượng tài sản cũng suy giảm, tỷ lệ nợ xấu 
tăng liên tục, từ 1,79% năm 2007 đến 2,17% 
năm 2008 và 2,2% năm 2009.
Sang năm 2011, hệ thống ngân hàng của Việt 
Nam rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản 
nghiêm trọng hơn. Dòng tiền vào ra các NHTM 
biến động mạnh mẽ, quy mô huy động/GDP 
giảm mạnh qua các năm trong khi quy mô cho 
vay/GDP tăng đến 110,2%. Nếu xét về tỷ lệ 
tăng trưởng tiền gửi năm 2011 là 6,9%, trong 
khi cho vay/GDP tăng 15,3%. Giai đoạn này 
chứng kiến sự cạnh tranh mạnh mẽ trong khu 
vực ngân hàng và chủ yếu bằng hình thức cạnh 
tranh lãi suất: Các NHTM đua nhau tăng lãi 
suất dưới nhiều hình thức, nhưng nguy hại hơn 
là lãi suất huy động được quy định đồng đều 
ở các kỳ hạn và các kỳ hạn được quy định rất 
Hình 1. Tỷ lệ Huy động/GDP và Cho vay/GDP 
giai đoạn 2005- 2016
Hình 2. Tỉ lệ nợ xấu các NHTM Việt Nam 
giai đoạn 2005- 2016
Nguồn: Báo cáo tài chính các NHTM
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
ngắn, 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng..., 
và hầu như các loại tiền gửi huy động từ 1 năm 
trở lên không khuyến khích người gửi tiền, 
và bản thân các NHTM cũng không mặn mà 
huy động với kỳ hạn dài bởi không xác định 
được xu hướng biến động lãi suất trong tương 
lai (Bảng 1). Điều này làm cho nguồn vốn của 
ngân hàng bất ổn về cơ cấu kỳ hạn và phản 
ánh sự yếu kém về thanh khoản. Vốn huy động 
toàn hệ thống bắt đầu sụt giảm kể từ sau ngày 
7/9/2011, khách hàng có xu hướng rút tiền khỏi 
ngân hàng. Nếu nhìn vào cơ cấu tiền gửi của 
các NHTM, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng 
trên 34%, phát hành giấy tờ có giá chiếm trên 
11%, còn nguồn tiền gửi thanh toán chiếm tới 
54,6%. Do tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng 
cao nên đã làm cho cơ cấu nguồn vốn của ngân 
hàng không ổn định, và do đó việc cấp tín dụng 
ra nền kinh tế, nhất là cho vay trung và dài hạn 
bị hạn chế.
Tỉ lệ cho vay/huy động (LDR) vẫn ở mức cao 
trong năm 2011. Theo số liệu của NHNN, năm 
2011, LDR tăng vọt lên 90,9%, số liệu này của 
IMF là 109% vào tháng 10/2011. Nếu tính cả 
lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng (TCTD) 
tìm cách lách trần tín dụng (20%) và trần tỉ 
lệ tín dụng phi sản xuất (16%) thông qua các 
hình thức khác như đầu tư vào trái phiếu doanh 
Bảng 1. Lãi suất huy động một số ngân hàng lớn tại Hà Nội tháng 5/2011
Đơn vị tính: %
 Kỳ hạn BIDV VCB CTG ACB STB TCB MB EIB 
 1 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85
 2 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85
 3 tháng 14 14 14 13,88 14 13,45 14 13,85
 6 tháng 14 14 14 13,88 14 13,00 14 13,85
 9 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85
 12 tháng 13 14 14 14,00 14 11,95 14 13,85
 24 tháng 13 12 11 11,40 14 14 12,00
Nguồn: Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Hoàng Yến và Bùi Thanh Hương, 2011
Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của các NHTM
Hình 3. Tỷ lệ LDR tại một số ngân hàng thương mại
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
nghiệp, ủy thác đầu tư và các khoản phải thu 
khác thì tỉ lệ này có thể còn cao hơn nhiều. Hơn 
nữa, sự mất cân đối giữa tín dụng và huy động 
chủ yếu xảy ra ở một số NHTM cổ phần (Hình 
3). 
Đây là nguyên nhân chính khiến các ngân hàng 
thuộc nhóm này phải cạnh tranh lãi suất huy 
động bằng mọi giá. Đây cũng là nguyên nhân 
chính khiến cho tiền gửi rút trước kỳ hạn toàn 
ngành tăng mạnh, đặc biệt vào nửa cuối năm 
2011. Tính đến 31/12/2011, doanh số này tăng 
gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010. Các 
TCTD chủ yếu tập trung cho vay ngắn hạn thay 
vì dài hạn. Doanh số cho vay tăng gấp hơn hai 
lần nhưng dư nợ bình quân chỉ tăng 13%. Việc 
thu hẹp kỳ hạn cho vay giúp TCTD linh hoạt 
hơn trong việc kiểm soát hạn mức tăng trưởng 
tín dụng tại thời điểm cuối năm không vượt quá 
20%. Doanh số tiền gửi rút trước hạn trong kỳ 
liên tục tăng mạnh cùng với kỳ hạn tiền ngắn 
khiến các TCTD luôn ở trong tình trạng căng 
thẳng thanh khoản do phải liên tục cân đối kỳ 
hạn giữa cho vay và huy động. Nhiều TCTD 
phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng (TT2) 
khiến lãi suất trên thị trường này tăng mạnh ở 
nhiều thời điểm. 
Theo số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính 
Quốc gia, tỉ lệ huy động TT2/Tổng tài sản tăng 
từ 16% năm 2010 lên 21,3% năm 2011. Có 
một vài TCTD tỉ lệ này chiếm tới 50% tổng tài 
sản, huy động TT2 tăng tới 56% so với cùng 
kỳ 2010. Tỉ lệ huy động TT2/Tổng tài sản tăng 
mạnh ở nhóm NHTMCP, nhóm ngân hàng 
liên doanh (NHLD) và ngân hàng nước ngoài 
(NHNNg). Tuy vẫn duy trì được lợi 
nhuận cao trong năm 2011 nhưng 
thành quả này của các NHTM Việt 
Nam không thực sự bền vững. Tỉ lệ 
nợ xấu, nợ quá hạn trên tổng dư nợ 
của hầu hết các ngân hàng đều tăng 
mạnh so với năm trước. Theo công 
bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu tăng lên 
đến 3,3% tổng tài sản năm 2011 và 
tiếp tục tăng lên 4,09% năm 2012. 
Nếu nhìn vào cơ cấu dư nợ, tín dụng 
phi sản xuất (lĩnh vực chứng khoán, 
bất động sản, tiêu dùng) biến động 
từ 30-50% có thể dự đoán mức nợ 
xấu của hệ thống ngân hàng khi thị 
trường chứng khoán và bất động 
Bảng 2. Lãi suất huy động và cho vay VND tháng 1/2011 đến tháng 6/2011 
Đơn vị tính: %
Lãi suất huy 
động VND 
bình quân
 Lãi suất cho vay VND 
 Bình 
quân 
 Khu vực nông nghiệp 
nông thôn, xuất khẩu 
 Khu vực sản 
xuất kinh doanh 
 Khu vực phi 
sản xuất 
 Tháng 1/2011 12,44 15,74 15,00 16,50 19,00
 Tháng 2/2011 13,04 16,23 15,00 16,50 19,00
 Tháng 3/2011 13,50 16,23 15,00 16,50 20,00
 Tháng 4/2011 13,41 17,00 15,00 16,76 20,00
 Tháng 5/2011 N/A 18,30 17,65 18,85 N/A
 Tháng 6/2011 N/A 18,74 18,00 19,20 23,50
Nguồn: NHNN
Hình 4. Biến động doanh số tiền gửi rút trước kỳ hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
sản bước vào tình trạng đóng băng vào thời kỳ 
hậu khủng hoảng. Nhìn vào cơ cấu nợ xấu và 
xu hướng biến động của các khoản nợ này từ 
năm 2007 đến nay có thể thấy tỷ lệ nợ xấu có 
xu hướng gia tăng nhanh chóng (tốc độ tăng 
tới 30% năm 2011 so với 2010). Trong tổng 
số nợ xấu đến tháng 8/2011, nợ nhóm 3 chiếm 
30,18%, nhóm 4 chiếm 20,53% và nhóm 5 
chiếm trên 49%. Theo số liệu của 08 NHTM 
đã công bố báo cáo tài chính riêng lẻ quý 
IV/2011 thì chỉ có VCB có tỷ lệ nợ xấu giảm 
nhẹ, còn lại đều có tỉ lệ nợ xấu tăng cao. Riêng 
Habubank, tỉ lệ nợ xấu tăng mạnh từ 2,39% 
năm 2010 lên 4,69% năm 2011. Nợ quá hạn 
(nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng tăng mạnh 
vào cuối 2011. Dư nợ quá hạn theo báo cáo 
của các TCTD tại thời điểm 31/12/2011 chiếm 
11,09% tổng dư nợ cho vay và tăng 3,32% so 
với năm 2010. Dấu hiệu xả hàng của thị trường 
bất động sản, vỡ nợ các trung tâm “tín dụng 
đen” là những dấu hiệu phản ánh và đe dọa khả 
năng duy trì quy mô dư nợ hiện hành của các 
NHTM.
Mặc dù nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng 
tăng cao, nhưng tỉ lệ trích lập dự phòng rủi ro 
nợ xấu lại có xu hướng giảm. Số dư dự phòng 
rủi ro tín dụng tại thời điểm cuối năm 2011 
đạt 62,81% tổng nợ xấu và so năm 2010 giảm 
17,15%. Tỉ lệ dự phòng trên nợ xấu và nợ quá 
hạn tại khu vực NHTMNN và nhóm công ty tài 
chính và cho thuê tài chính đều giảm. Nếu thực 
hiện phân loại nợ và trích lập đủ dự phòng rủi 
ro theo đúng quy định thì kết quả kinh doanh 
của nhiều TCTD sẽ sụt giảm mạnh, không ít 
Bảng 3. Cơ cấu huy động vốn Thị trường I và II so với tổng tài sản (%)
Nhóm TCTD 
2011 2010 
 Huy động 
TT2/TTS 
 Huy động 
TT1/TTS 
 Huy động 
TT2/TTS 
 Huy động 
TT1/TTS 
NHTMNN 11,02 62,37 7,57 63,28
NHTMCP 24,98 56,28 19,94 49,90
NHLD, NHNNg 39,46 34,65 25,05 31,31
Công ty tài chính, cho thuê tài chính 33,41 12,66 31,37 8,20
Toàn ngành 21,33 48,85 16,06 51,38
Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Hình 5. Tỷ lệ gia tăng nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Nguồn: CIC
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
mức giá thấp, ảnh hưởng đến bảng cân đối của 
ngân hàng. Gap tiền vay âm có thể được hiểu là 
dấu hiệu của việc không sẵn sàng cho vay của 
ngân hàng (có thể do vấn đề từ bên nợ của ngân 
hàng) hoặc do sự suy giảm nhu cầu tín dụng.
Hình 6 cho thấy diễn biến của Gap tiền gửi và 
Gap tiền vay trong suốt giai đoạn từ năm 2005-
2016, trong đó những giai đoạn chứng kiến 
Gap tiền gửi và tiền vay âm là giai đoạn cuối 
năm 2006, đầu năm 2007, giai đoạn năm 2008 
và giai đoạn từ năm 2012-2015, tương ứng 
với diễn biến của tăng trưởng tín dụng và tăng 
trưởng tiền gửi trong những giai đoạn này như 
đã phân tích ở trên. Giai đoạn từ 2012-2015 
chứng kiến Gap tiền gửi và tiền vay của các 
NHTM liên tục âm, phản ánh căng thẳng liên 
tục của khu vực ngân hàng trong thời gian này.
3. Kết luận và một số khuyến nghị
Qua nghiên cứu các giai đoạn căng thẳng khu 
vực ngân hàng, có thể thấy các NHTM Việt 
Nam trải qua các giai đoạn căng thẳng chủ yếu 
do sụt giảm trong quy mô huy động, trong khi 
quy mô tín dụng vẫn tăng hoặc giảm nhẹ hơn 
sự sụt giảm của huy động dẫn đến tình trạng 
căng thẳng thanh khoản tại các NHTM. Nguyên 
nhân thứ hai dẫn đến căng thẳng khu vực ngân 
hàng thời gian qua chính là do tỷ lệ nợ xấu tăng 
cao, làm suy giảm chất lượng tín dụng tại các 
NHTM. Chất lượng tín dụng giảm ảnh hưởng 
đến khả năng và sự sẵn sàng cấp vốn ra nền 
TCTD bị thua lỗ, thậm chí thua lỗ nặng. Căng 
thẳng khu vực ngân hàng vẫn còn tiếp tục kéo 
dài đến năm 2012, khi tín dụng tăng trưởng rất 
chậm, trong khi tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng lên 
4,08%, nền kinh tế rơi vào tình trạng đình trệ, 
khó khăn chồng chất khó khăn. Sang năm 2013, 
với những nỗ lực liên tục của cả hệ thống ngân 
hàng, căng thẳng ngân hàng dần dần được cải 
thiện, tình hình thanh khoản khả quan hơn. Tuy 
nhiên phải đến hết năm 2014, tỉ lệ nợ xấu của 
các NHTM Việt Nam mới trở về mức dưới 3%.
Một phương pháp khác được sử dụng để xem 
xét căng thẳng ngân hàng là dựa trên Gap tiền 
gửi và Gap tiền vay (Reinhart và Rogoff, 2009; 
Sun và Huang, 2016). Gap tiền gửi (Cdep) và 
gap tiền vay (Cloan) được xác định bằng thành 
phần chu kỳ (cyclical component) Ct trong mỗi 
chuỗi thời gian tiền gửi và tiền vay trong công 
thức lọc Hodrick- Prescott trong công thức sau:
Y
t
 = T
t
 + C
t
[ ]{ }22( ) ( ) ( )2 1 1
1 2tT
n n
Y T T T T Tt t t t t tt
Min λ∑ ∑− + − − −+ + +
=
Trong đó: Y
t
 là chuỗi tiền gửi hoặc tiền vay, T
t
là thành phần xu hướng, và C
t
 là thành phần chu 
kỳ. Việc tính toán đường xu hướng phụ thuộc 
vào tham số làm trơn λ, với giá trị λ=1600 khi 
chạy dữ liệu quý. 
Gap tiền gửi âm cho thấy tiền gửi nằm dưới 
đường xu hướng là dấu hiệu của căng thẳng do 
ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản và 
do đó có thể ngân hàng phải bán các tài sản với 
Nguồn: Tính toán của tác giả từ tổng hợp BCTC của 12 NHTM trong nước
Hình 6. Gap tiền gửi và Gap tiền vay giai đoạn 2005- 2016
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
71Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
kinh tế của các NHTM, đồng thời khi các khoản 
nợ xấu không được giải quyết triệt để sẽ ảnh 
hưởng đến xếp hạng tín dụng của các doanh 
nghiệp vay vốn, làm giảm khả năng được cấp 
tín dụng của các doanh nghiệp này. Như vậy, để 
hệ thống ngân hàng có thể phát triển ổn định và 
lành mạnh, phòng ngừa những căng thẳng trong 
tương lai, các NHTM cần:
Thứ nhất, duy trì sự đa dạng trong nguồn vốn 
huy động, tránh phụ thuộc quá lớn vào một 
vài nguồn vốn ngắn hạn có mức độ ổn định 
thấp, đồng thời giảm thiểu sự bất cân xứng về 
tính chất vốn giữa huy động vốn và sử dụng 
vốn. Thông tư số 19/2017/TT-NHNN ngày 
28/12/2017 của NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ 
lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 60% 
xuống 45% từ năm 2018 và sau năm 2019 là 
40%, cho thấy việc NHNN yêu cầu các NHTM 
cần chủ động trong việc sử dụng vốn tương 
ứng với khả năng huy động vốn, ngăn chặn các 
NHTM chấp nhận rủi ro quá lớn khi cho vay 
quá mức so với khả năng huy động dẫn đến việc 
sử dụng vốn lớn từ thị trường liên ngân hàng, 
khiến các NHTM sẽ dễ chịu tổn thương từ 
những sự thay đổi thường xuyên của các nhân 
tố thị trường như lãi suất, giá tài sản, làm gia 
tăng tình trạng căng thẳng hệ thống. Đồng thời, 
để đảm bảo cấu trúc vốn đa dạng và phù hợp, 
các NHTM nên tính toán tỷ lệ nguồn vốn ổn 
định ròng (NSFR) và tỷ lệ đảm bảo thanh khoản 
(LCR) theo như khuyến nghị trong Basel III để 
giám sát rủi ro thanh khoản nói chung và rủi ro 
chênh lệch đáo hạn nói riêng tại các NHTM.
Thứ hai, thực hiện các biện pháp nâng cao chất 
lượng tài sản, giảm tỷ lệ nợ xấu làm ảnh hưởng 
tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng 
nói riêng và sự ổn định của hệ thống nói chung. 
Nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Hảo (2014) đã 
chỉ ra nguyên nhân của tình trạng nợ xấu tăng 
cao là do chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại 
các NHTM còn khá thấp, thể hiện nhiều ngân 
hàng thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu 
chuẩn cho vay, thiếu các điều kiện đảm bảo 
cần thiết, công tác giám sát sau giải ngân còn 
nhiều yếu kém. Do đó, cần hoàn thiện mô hình 
tổ chức quản trị rủi ro tín dụng gồm 3 cấp, cấp 
lãnh đạo, cấp quản lý bộ phận kinh doanh chính 
và bộ phận quan hệ khách hàng; trong đó có sự 
phân định rõ ràng về nghĩa vụ và trách nhiệm 
của từng bộ phận, từng cá nhân, các đơn vị kinh 
doanh chính thức tham gia và coi công tác quản 
lý rủi ro như một công việc của mình. Bên cạnh 
đó, các NHTM cần chủ động thực hiện trích lập 
dự phòng rủi ro tín dụng đúng và đầy đủ để có 
nguồn bù đắp cho những rủi ro trong tương lai.
Thứ ba, đa dạng hóa danh mục sản phẩm, dịch 
vụ ngân hàng, gia tăng các nguồn thu từ dịch vụ 
và giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng. Thực 
tiễn kinh doanh của các NHTM trong thời gian 
qua đã cho thấy, 60-70% thu nhập của ngân 
hàng đến từ hoạt động tín dụng, nhưng đây 
cũng là lĩnh vực đem lại nhiều rủi ro nhất cho 
các NHTM. Đặc biệt trong những giai đoạn 
căng thẳng, khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao, quy mô 
huy động và cho vay giảm sẽ ảnh hưởng trực 
tiếp đến thu nhập của NHTM. Nghiên cứu 
của Stiroh (2002) cho thấy thu nhập phi lãi 
của ngân hàng ít phụ thuộc vào điều kiện kinh 
doanh chung hơn so với thu nhập lãi, do đó 
việc tăng thu nhập phi lãi sẽ giảm thiểu những 
biến động mang tính chu kỳ trong lợi nhuận và 
doanh thu của ngân hàng. ■
Tài liệu tham khảo
1. Ceevik, E.I, Dibooglu, S. &Kenc, T., 2013, “measuring financial stress in Turkey”, Journal of Policy Modelling, Volume 35, 
Issue 2, March- April 2013, Pages 370-383.
2. Grimaldi, M.B., 2010, “Detecting and interpreting financial stress in the Euro area”, ECB Working Paper Series, No 1214, 
June 2010.
3. Hanschel, E. and Monnin, P., 2005, “Measuring and forecasting stress in the banking sector: evidence from Switzerland”, 
BIS vol.22, pp431-49, 2005.
4. Kappler, M. and Schleer, F., 2013, “How many factors and shocks cause financial stress ?”, ZEW Discussion Paper No.13-
100.
5. Louis, D.P. &Vouldis, A.T., 2013, “A financial systemic stress index for Greece”, Working Paper Series, No 1563/ July 2013.
6. Mishkin, F.S., 1992, “The economics of money, banking and financial markets”, HarperCollins Publisher.
7. Mitnik, S. &Semmler, W., 2013, “The real consequences of financial stress”, Journal of Economic Dynamics and Control, 
2013, vol.37, issue 8, 1479-1499.
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
8. Reinhart, C.M &Rogoff, K.S, 2009, “The aftermath of financial crises”, the National Bureau of Economics Research, 
Working Paper No. 14656.
9. Stiroh, K.J., 2002, “Diversification in Banking: is noninterest income the answer ?”, Journal of money, credit and banking, 
2004, vol.36, issue 5, 853-82.
10. Turner, P., 2007, “Are banking systems in East Asia Stronger ?”, Asian Economic Policy Review, Volume 2, issue 1, June 
2007, pages 75-95.
11. Đỗ Thị Kim Hảo, 2014, “Tăng trưởng tín dụng nóng và những ảnh hưởng đối với sự lành mạnh của các Ngân hàng thương 
mại Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Ngành.
12. Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Hoàng Yến và Bùi Thanh Hương, “Ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động của hệ thống 
ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2011”, Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng số 112, tháng 9/2011.
13. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, “Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2011”.
Thông tin tác giả
Vũ Thị Kim Oanh, Thạc sỹ
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Email: oanhvtk@hvnh.edu.vn
Summary
Stress in the Vietnamese banking sector- Analysis from balance sheet data
The healthy of the banking sector is very crucial to the sustainablity of financial system and the economy. These 
financial intermediaries play an important role in the functional operation of the financial system. The interruption 
of the normal functioning of the financial system might cease the economy activities, affect to the sustainable 
development of the economy. In this paper, the author analyses the stress of Vietnamese banking sector using 
balance sheet data. Stages of bank stress was stated out and some lessons for commercial banks to avoid future 
stress was concluded.
Keywords: stress in banking sector, balance sheet data, bank fragility, financial stress. 
Oanh Thi Kim Vu, MEc.
Banking Faculty, Banking Academy

File đính kèm:

  • pdfcang_thang_khu_vuc_ngan_hang_nhin_tu_bao_cao_tai_chinh_cac_n.pdf