Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại (NHTM)- tổ chức trung gian tài chính,
đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành các chức năng của hệ
thống tài chính. Nếu các chức năng cơ bản của các NHTM- chức
năng tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung
gian tín dụng- bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thị
trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh
hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế. Khi tình trạng
căng thẳng của các tổ chức này tăng cao sẽ lan truyền ra cả hệ thống
tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực. Chính vì vậy,
nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam vẫn dựa vào
ngân hàng làm trung tâm (bank based financial system). Trong bài
viết này, tác giả đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng Việt Nam
dựa trên dữ liệu bảng cân đối của các NHTM, qua đó chỉ ra những
giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, từ đó rút ra những bài học
cần thiết giúp các NHTM có thể phát triển ổn định và lành mạnh,
phòng ngừa những căng thẳng có thể xảy ra trong tương lai.
Từ khóa: Căng thẳng khu vực ngân hàng, bảng cân đối, căng thẳng
tài chính
Tóm tắt nội dung tài liệu: Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại
64 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018 Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Vũ Thị Kim Oanh Ngày nhận: 21/05/2018 Ngày nhận bản sửa: 26/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/08/2018 Các ngân hàng thương mại (NHTM)- tổ chức trung gian tài chính, đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành các chức năng của hệ thống tài chính. Nếu các chức năng cơ bản của các NHTM- chức năng tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung gian tín dụng- bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thị trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế. Khi tình trạng căng thẳng của các tổ chức này tăng cao sẽ lan truyền ra cả hệ thống tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực. Chính vì vậy, nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam vẫn dựa vào ngân hàng làm trung tâm (bank based financial system). Trong bài viết này, tác giả đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng Việt Nam dựa trên dữ liệu bảng cân đối của các NHTM, qua đó chỉ ra những giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, từ đó rút ra những bài học cần thiết giúp các NHTM có thể phát triển ổn định và lành mạnh, phòng ngừa những căng thẳng có thể xảy ra trong tương lai. Từ khóa: Căng thẳng khu vực ngân hàng, bảng cân đối, căng thẳng tài chính 1. Khái quát về căng thẳng khu vực ngân hàng ăng thẳng khu vực ngân hàng dù là khủng hoảng bên nợ hay là suy giảm bên tài sản đều ảnh hưởng đến bảng cân đối của ngân hàng (Mishkin, 1992). Căng thẳng khu vực ngân hàng có thể được hiểu là những thay đổi đột ngột trong hoạt động ngân hàng như rút tiền ồ ạt hay tăng trưởng tín dụng chậm lại hoặc cả hai ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức năng và tính toàn vẹn của hệ thống ngân hàng (Louis và Vouldis, 2013). Căng thẳng khu vực ngân hàng xuất hiện khi có cú sốc ngoại sinh tác động đến hệ thống ngân QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 65Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018 hàng trong điều kiện hệ thống ngân hàng có những đặc tính dễ đổ vỡ. Nếu môi trường vĩ mô ổn định thì ngay cả khu vực ngân hàng mỏng manh cũng sẽ không phải trải qua căng thẳng hệ thống. Ngược lại, hệ thống ngân hàng vững mạnh vẫn có thể phải trải qua căng thẳng nếu có những cú sốc mạnh từ bên ngoài. Sự tương tác giữa độ lớn của cú sốc và đặc tính dễ đổ vỡ của ngân hàng sẽ xác định mức độ của căng thẳng khu vực ngân hàng (Hanschel và Monnin, 2005). Căng thẳng của khu vực ngân hàng có thể được phản ánh thông qua các dữ liệu thị trường (giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng, sự biến động giá cố phiếu) và các dữ liệu bảng cân đối (suy giảm trong cho vay, trong tiền gửi, nợ xấu của ngân hàng tăng cao, giá trị các tài sản của ngân hàng giảm). Giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng thường phản ánh kỳ vọng của thị trường về viễn cảnh khu vực ngân hàng. Grimaldi (2010) cho rằng khi chỉ số này tăng có thể ám chỉ tình trạng tiềm ẩn bong bóng trong khi tình trạng suy giảm kéo dài chính là một dấu hiệu của căng thẳng. Cấu trúc bảng cân đối của ngân hàng, về mặt lý thuyết, cũng được coi là một kênh dẫn đến căng thẳng thị trường tài chính (Mittnik và Semmler, 2013). Giá tài sản giảm hay chất lượng tín dụng đi xuống dẫn đến giảm giá trị của các tài sản của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cũng được sử dụng trong rất nhiều các nghiên cứu phản ánh căng thẳng của khu vực ngân hàng: Tỷ lệ nợ xấu tăng cao phản ánh suy giảm trong chất lượng tài sản của các ngân hàng. Khi chất lượng tài sản suy giảm, ảnh hưởng đến khả năng cấp vốn ra nền kinh tế của hệ thống ngân hàng, làm tăng chi phí vốn của các NHTM, gia tăng mức độ rủi ro của khu vực ngân hàng. Các ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản của mình, do đó, ảnh hưởng đến cấu trúc bảng cân đối của ngân hàng. Giảm giá trị các tài sản thế chấp, yếu tố quan trọng của cung tín dụng, dẫn đến cắt giảm tín dụng, khiến cho thị trường tài chính căng thẳng (Kappler và Schleer, 2013). Khi tiền gửi của ngân hàng giảm đột ngột, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản để đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh khoản đến hạn, dẫn đến cung tín dụng giảm, dẫn đến căng thẳng trên thị trường tài chính. Trong phân tích định lượng và lịch sử về khủng hoảng tài chính, Reinhart và Rogoff (2009) sử dụng các biến sau để xác định căng thẳng ngân hàng: i) Giá tương đối của cổ phiếu ngân hàng với thị trường; ii) Thay đổi trong tiền gửi ngân hàng (phản ánh việc rút tiền ồ ạt)- là dấu hiệu cho bên căng thẳng bên nợ; iii) Nợ xấu (phản ánh khủng hoảng tăng trong khu vực phi tài chính hoặc sự suy giảm giá bất động sản)- là dấu hiệu cho sự suy giảm bên tài sản (Reinhart và Rogoff, 2009). 2. Căng thẳng khu vực ngân hàng tại Việt Nam Tại Việt Nam, để đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng, dữ liệu bảng cân đối1 đã được sử dụng, trong đó xem xét sự biến động của tỷ lệ tiền gửi/GDP, tỷ lệ cho vay/GDP và tỷ lệ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Dữ liệu sử dụng là số liệu theo quý của 12 NHTM tại Việt Nam (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank, MB, ACB, Techcombank, EIB, Sacombank, SHB, VPBank, SCB) được lấy từ cơ sở dữ liệu Bankscope của BVD, báo cáo tài chính theo quý của các NHTM. Các ngân hàng được chọn vào mẫu nghiên cứu phải đảm bảo có thời gian hoạt động liên tục từ năm 2005 đến hết năm 2016, đồng thời đảm bảo tính đại diện cho hệ thống NHTM Việt Nam với các NHTM Nhà nước và các NHTM cổ phần, có tổng tài sản chiếm hơn 70% giá trị tổng tài sản của toàn hệ thống. Qua quan sát Hình 1 và Hình 2 có thể thấy giai đoạn 2008- 2009 và giai đoạn 2011- 2013 chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trong quy mô huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng cũng suy giảm nghiêm trọng khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao trên mức 3% vào các năm 2006 và giai đoạn từ năm 2011- 2014. Những căng thẳng của hệ thống ngân hàng bắt 1 Dữ liệu thị trường không được sử dụng để nghiên cứu do số lượng ngân hàng có cổ phiếu niêm yết trên sàn còn hạn chế (năm 2017 mới có 11 ngân hàng), do đó diễn biến giá của các cổ phiếu này không liên tục trong giai đoạn nghiên cứu và chưa phản ánh được diễn biến chung của thị trường ngân hàng. QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018 đầu xuất hiện từ năm 2008. Tình trạng của các ngân hàng bị ảnh hưởng chủ yếu bởi tình trạng thanh khoản trong nước chặt chẽ hơn, lãi suất cao hơn, và sự suy giảm trong giá tài sản vào nửa đầu năm 2008 cũng như tình trạng tăng trưởng chậm lại trong nửa cuối của năm 2008. Tỷ lệ huy động vốn/GDP giảm mạnh từ 80,5% năm 2007 xuống 60,3% năm 2008 và duy trì ở mức thấp, khoảng 60% trong suốt năm 2008. Đến cuối năm 2010, tỷ lệ huy động vốn/GDP đã tăng lên mức 89,42% GDP. Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn năm 2011 đến nửa đầu năm 2013, tình hình huy động vốn của các NHTM gặp khó khăn, các NHTM đã đưa ra nhiều chương trình để thu hút vốn huy động nhưng tỷ lệ huy động vốn/GDP trong giai đoạn này rất thấp, quý 2/2012, tỷ lệ này chỉ đạt 53,09% GDP. Khả năng huy động giảm ảnh hưởng đến khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đồng thời giai đoạn năm 2011-2012 cũng là giai đoạn những khó khăn của nền kinh tế được bộc lộ rõ nét, tỷ lệ cho vay/GDP cũng giảm mạnh từ 67,86% vào cuối năm 2011 xuống còn 52,77% vào quý 1/2012. Xét về tốc độ tăng trưởng Tín dụng/GDP, con số luôn cao vượt quá 10% trong suốt giai đoạn 1999- 2009, thậm chí đỉnh điểm đạt tới 31% (1999), 28% (2007) và 30% (2009). So với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ Tín dụng/GDP của Việt Nam có sự biến động mạnh trong suốt thập niên đầu thế kỷ 21, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam gấp năm lần tốc độ tăng trưởng GDP (đỉnh điểm năm 2007). Hơn nữa, việc mở rộng tín dụng quá mức giai đoạn 2008- 2010 tại nhiều ngân hàng lại tập trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao như kinh doanh bất động sản, chứng khoán càng khiến hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng tăng mạnh trong khi quy mô huy động giảm, không tăng hoặc tăng rất ít đã khiến tỷ lệ cho vay/huy động tăng liên tục, các ngân hàng phải phụ thuộc vào nguồn tài trợ liên ngân hàng ngắn hạn, một số ngân hàng gặp vấn đề về thanh khoản nghiêm trọng khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thắt chặt chính sách tiền tệ. Một số NHTMCP nhỏ rơi vào tình trạng căng thẳng nghiêm trọng, phải nhận hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp từ NHNN. Lãi biên của ngân hàng bị suy giảm do chi phí huy động vốn tăng cao trong khi lãi suất cho vay bị giới hạn. Chất lượng tài sản cũng suy giảm, tỷ lệ nợ xấu tăng liên tục, từ 1,79% năm 2007 đến 2,17% năm 2008 và 2,2% năm 2009. Sang năm 2011, hệ thống ngân hàng của Việt Nam rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản nghiêm trọng hơn. Dòng tiền vào ra các NHTM biến động mạnh mẽ, quy mô huy động/GDP giảm mạnh qua các năm trong khi quy mô cho vay/GDP tăng đến 110,2%. Nếu xét về tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi năm 2011 là 6,9%, trong khi cho vay/GDP tăng 15,3%. Giai đoạn này chứng kiến sự cạnh tranh mạnh mẽ trong khu vực ngân hàng và chủ yếu bằng hình thức cạnh tranh lãi suất: Các NHTM đua nhau tăng lãi suất dưới nhiều hình thức, nhưng nguy hại hơn là lãi suất huy động được quy định đồng đều ở các kỳ hạn và các kỳ hạn được quy định rất Hình 1. Tỷ lệ Huy động/GDP và Cho vay/GDP giai đoạn 2005- 2016 Hình 2. Tỉ lệ nợ xấu các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2016 Nguồn: Báo cáo tài chính các NHTM QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018 ngắn, 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng..., và hầu như các loại tiền gửi huy động từ 1 năm trở lên không khuyến khích người gửi tiền, và bản thân các NHTM cũng không mặn mà huy động với kỳ hạn dài bởi không xác định được xu hướng biến động lãi suất trong tương lai (Bảng 1). Điều này làm cho nguồn vốn của ngân hàng bất ổn về cơ cấu kỳ hạn và phản ánh sự yếu kém về thanh khoản. Vốn huy động toàn hệ thống bắt đầu sụt giảm kể từ sau ngày 7/9/2011, khách hàng có xu hướng rút tiền khỏi ngân hàng. Nếu nhìn vào cơ cấu tiền gửi của các NHTM, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng trên 34%, phát hành giấy tờ có giá chiếm trên 11%, còn nguồn tiền gửi thanh toán chiếm tới 54,6%. Do tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng cao nên đã làm cho cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng không ổn định, và do đó việc cấp tín dụng ra nền kinh tế, nhất là cho vay trung và dài hạn bị hạn chế. Tỉ lệ cho vay/huy động (LDR) vẫn ở mức cao trong năm 2011. Theo số liệu của NHNN, năm 2011, LDR tăng vọt lên 90,9%, số liệu này của IMF là 109% vào tháng 10/2011. Nếu tính cả lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng (TCTD) tìm cách lách trần tín dụng (20%) và trần tỉ lệ tín dụng phi sản xuất (16%) thông qua các hình thức khác như đầu tư vào trái phiếu doanh Bảng 1. Lãi suất huy động một số ngân hàng lớn tại Hà Nội tháng 5/2011 Đơn vị tính: % Kỳ hạn BIDV VCB CTG ACB STB TCB MB EIB 1 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85 2 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85 3 tháng 14 14 14 13,88 14 13,45 14 13,85 6 tháng 14 14 14 13,88 14 13,00 14 13,85 9 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85 12 tháng 13 14 14 14,00 14 11,95 14 13,85 24 tháng 13 12 11 11,40 14 14 12,00 Nguồn: Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Hoàng Yến và Bùi Thanh Hương, 2011 Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của các NHTM Hình 3. Tỷ lệ LDR tại một số ngân hàng thương mại QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018 nghiệp, ủy thác đầu tư và các khoản phải thu khác thì tỉ lệ này có thể còn cao hơn nhiều. Hơn nữa, sự mất cân đối giữa tín dụng và huy động chủ yếu xảy ra ở một số NHTM cổ phần (Hình 3). Đây là nguyên nhân chính khiến các ngân hàng thuộc nhóm này phải cạnh tranh lãi suất huy động bằng mọi giá. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cho tiền gửi rút trước kỳ hạn toàn ngành tăng mạnh, đặc biệt vào nửa cuối năm 2011. Tính đến 31/12/2011, doanh số này tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010. Các TCTD chủ yếu tập trung cho vay ngắn hạn thay vì dài hạn. Doanh số cho vay tăng gấp hơn hai lần nhưng dư nợ bình quân chỉ tăng 13%. Việc thu hẹp kỳ hạn cho vay giúp TCTD linh hoạt hơn trong việc kiểm soát hạn mức tăng trưởng tín dụng tại thời điểm cuối năm không vượt quá 20%. Doanh số tiền gửi rút trước hạn trong kỳ liên tục tăng mạnh cùng với kỳ hạn tiền ngắn khiến các TCTD luôn ở trong tình trạng căng thẳng thanh khoản do phải liên tục cân đối kỳ hạn giữa cho vay và huy động. Nhiều TCTD phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng (TT2) khiến lãi suất trên thị trường này tăng mạnh ở nhiều thời điểm. Theo số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tỉ lệ huy động TT2/Tổng tài sản tăng từ 16% năm 2010 lên 21,3% năm 2011. Có một vài TCTD tỉ lệ này chiếm tới 50% tổng tài sản, huy động TT2 tăng tới 56% so với cùng kỳ 2010. Tỉ lệ huy động TT2/Tổng tài sản tăng mạnh ở nhóm NHTMCP, nhóm ngân hàng liên doanh (NHLD) và ngân hàng nước ngoài (NHNNg). Tuy vẫn duy trì được lợi nhuận cao trong năm 2011 nhưng thành quả này của các NHTM Việt Nam không thực sự bền vững. Tỉ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trên tổng dư nợ của hầu hết các ngân hàng đều tăng mạnh so với năm trước. Theo công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu tăng lên đến 3,3% tổng tài sản năm 2011 và tiếp tục tăng lên 4,09% năm 2012. Nếu nhìn vào cơ cấu dư nợ, tín dụng phi sản xuất (lĩnh vực chứng khoán, bất động sản, tiêu dùng) biến động từ 30-50% có thể dự đoán mức nợ xấu của hệ thống ngân hàng khi thị trường chứng khoán và bất động Bảng 2. Lãi suất huy động và cho vay VND tháng 1/2011 đến tháng 6/2011 Đơn vị tính: % Lãi suất huy động VND bình quân Lãi suất cho vay VND Bình quân Khu vực nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu Khu vực sản xuất kinh doanh Khu vực phi sản xuất Tháng 1/2011 12,44 15,74 15,00 16,50 19,00 Tháng 2/2011 13,04 16,23 15,00 16,50 19,00 Tháng 3/2011 13,50 16,23 15,00 16,50 20,00 Tháng 4/2011 13,41 17,00 15,00 16,76 20,00 Tháng 5/2011 N/A 18,30 17,65 18,85 N/A Tháng 6/2011 N/A 18,74 18,00 19,20 23,50 Nguồn: NHNN Hình 4. Biến động doanh số tiền gửi rút trước kỳ hạn Đơn vị: tỷ đồng Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018 sản bước vào tình trạng đóng băng vào thời kỳ hậu khủng hoảng. Nhìn vào cơ cấu nợ xấu và xu hướng biến động của các khoản nợ này từ năm 2007 đến nay có thể thấy tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng nhanh chóng (tốc độ tăng tới 30% năm 2011 so với 2010). Trong tổng số nợ xấu đến tháng 8/2011, nợ nhóm 3 chiếm 30,18%, nhóm 4 chiếm 20,53% và nhóm 5 chiếm trên 49%. Theo số liệu của 08 NHTM đã công bố báo cáo tài chính riêng lẻ quý IV/2011 thì chỉ có VCB có tỷ lệ nợ xấu giảm nhẹ, còn lại đều có tỉ lệ nợ xấu tăng cao. Riêng Habubank, tỉ lệ nợ xấu tăng mạnh từ 2,39% năm 2010 lên 4,69% năm 2011. Nợ quá hạn (nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng tăng mạnh vào cuối 2011. Dư nợ quá hạn theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm 31/12/2011 chiếm 11,09% tổng dư nợ cho vay và tăng 3,32% so với năm 2010. Dấu hiệu xả hàng của thị trường bất động sản, vỡ nợ các trung tâm “tín dụng đen” là những dấu hiệu phản ánh và đe dọa khả năng duy trì quy mô dư nợ hiện hành của các NHTM. Mặc dù nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng tăng cao, nhưng tỉ lệ trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu lại có xu hướng giảm. Số dư dự phòng rủi ro tín dụng tại thời điểm cuối năm 2011 đạt 62,81% tổng nợ xấu và so năm 2010 giảm 17,15%. Tỉ lệ dự phòng trên nợ xấu và nợ quá hạn tại khu vực NHTMNN và nhóm công ty tài chính và cho thuê tài chính đều giảm. Nếu thực hiện phân loại nợ và trích lập đủ dự phòng rủi ro theo đúng quy định thì kết quả kinh doanh của nhiều TCTD sẽ sụt giảm mạnh, không ít Bảng 3. Cơ cấu huy động vốn Thị trường I và II so với tổng tài sản (%) Nhóm TCTD 2011 2010 Huy động TT2/TTS Huy động TT1/TTS Huy động TT2/TTS Huy động TT1/TTS NHTMNN 11,02 62,37 7,57 63,28 NHTMCP 24,98 56,28 19,94 49,90 NHLD, NHNNg 39,46 34,65 25,05 31,31 Công ty tài chính, cho thuê tài chính 33,41 12,66 31,37 8,20 Toàn ngành 21,33 48,85 16,06 51,38 Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Hình 5. Tỷ lệ gia tăng nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ Nguồn: CIC QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018 mức giá thấp, ảnh hưởng đến bảng cân đối của ngân hàng. Gap tiền vay âm có thể được hiểu là dấu hiệu của việc không sẵn sàng cho vay của ngân hàng (có thể do vấn đề từ bên nợ của ngân hàng) hoặc do sự suy giảm nhu cầu tín dụng. Hình 6 cho thấy diễn biến của Gap tiền gửi và Gap tiền vay trong suốt giai đoạn từ năm 2005- 2016, trong đó những giai đoạn chứng kiến Gap tiền gửi và tiền vay âm là giai đoạn cuối năm 2006, đầu năm 2007, giai đoạn năm 2008 và giai đoạn từ năm 2012-2015, tương ứng với diễn biến của tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tiền gửi trong những giai đoạn này như đã phân tích ở trên. Giai đoạn từ 2012-2015 chứng kiến Gap tiền gửi và tiền vay của các NHTM liên tục âm, phản ánh căng thẳng liên tục của khu vực ngân hàng trong thời gian này. 3. Kết luận và một số khuyến nghị Qua nghiên cứu các giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, có thể thấy các NHTM Việt Nam trải qua các giai đoạn căng thẳng chủ yếu do sụt giảm trong quy mô huy động, trong khi quy mô tín dụng vẫn tăng hoặc giảm nhẹ hơn sự sụt giảm của huy động dẫn đến tình trạng căng thẳng thanh khoản tại các NHTM. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến căng thẳng khu vực ngân hàng thời gian qua chính là do tỷ lệ nợ xấu tăng cao, làm suy giảm chất lượng tín dụng tại các NHTM. Chất lượng tín dụng giảm ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng cấp vốn ra nền TCTD bị thua lỗ, thậm chí thua lỗ nặng. Căng thẳng khu vực ngân hàng vẫn còn tiếp tục kéo dài đến năm 2012, khi tín dụng tăng trưởng rất chậm, trong khi tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng lên 4,08%, nền kinh tế rơi vào tình trạng đình trệ, khó khăn chồng chất khó khăn. Sang năm 2013, với những nỗ lực liên tục của cả hệ thống ngân hàng, căng thẳng ngân hàng dần dần được cải thiện, tình hình thanh khoản khả quan hơn. Tuy nhiên phải đến hết năm 2014, tỉ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam mới trở về mức dưới 3%. Một phương pháp khác được sử dụng để xem xét căng thẳng ngân hàng là dựa trên Gap tiền gửi và Gap tiền vay (Reinhart và Rogoff, 2009; Sun và Huang, 2016). Gap tiền gửi (Cdep) và gap tiền vay (Cloan) được xác định bằng thành phần chu kỳ (cyclical component) Ct trong mỗi chuỗi thời gian tiền gửi và tiền vay trong công thức lọc Hodrick- Prescott trong công thức sau: Y t = T t + C t [ ]{ }22( ) ( ) ( )2 1 1 1 2tT n n Y T T T T Tt t t t t tt Min λ∑ ∑− + − − −+ + + = Trong đó: Y t là chuỗi tiền gửi hoặc tiền vay, T t là thành phần xu hướng, và C t là thành phần chu kỳ. Việc tính toán đường xu hướng phụ thuộc vào tham số làm trơn λ, với giá trị λ=1600 khi chạy dữ liệu quý. Gap tiền gửi âm cho thấy tiền gửi nằm dưới đường xu hướng là dấu hiệu của căng thẳng do ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản và do đó có thể ngân hàng phải bán các tài sản với Nguồn: Tính toán của tác giả từ tổng hợp BCTC của 12 NHTM trong nước Hình 6. Gap tiền gửi và Gap tiền vay giai đoạn 2005- 2016 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 71Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018 kinh tế của các NHTM, đồng thời khi các khoản nợ xấu không được giải quyết triệt để sẽ ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của các doanh nghiệp vay vốn, làm giảm khả năng được cấp tín dụng của các doanh nghiệp này. Như vậy, để hệ thống ngân hàng có thể phát triển ổn định và lành mạnh, phòng ngừa những căng thẳng trong tương lai, các NHTM cần: Thứ nhất, duy trì sự đa dạng trong nguồn vốn huy động, tránh phụ thuộc quá lớn vào một vài nguồn vốn ngắn hạn có mức độ ổn định thấp, đồng thời giảm thiểu sự bất cân xứng về tính chất vốn giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Thông tư số 19/2017/TT-NHNN ngày 28/12/2017 của NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 60% xuống 45% từ năm 2018 và sau năm 2019 là 40%, cho thấy việc NHNN yêu cầu các NHTM cần chủ động trong việc sử dụng vốn tương ứng với khả năng huy động vốn, ngăn chặn các NHTM chấp nhận rủi ro quá lớn khi cho vay quá mức so với khả năng huy động dẫn đến việc sử dụng vốn lớn từ thị trường liên ngân hàng, khiến các NHTM sẽ dễ chịu tổn thương từ những sự thay đổi thường xuyên của các nhân tố thị trường như lãi suất, giá tài sản, làm gia tăng tình trạng căng thẳng hệ thống. Đồng thời, để đảm bảo cấu trúc vốn đa dạng và phù hợp, các NHTM nên tính toán tỷ lệ nguồn vốn ổn định ròng (NSFR) và tỷ lệ đảm bảo thanh khoản (LCR) theo như khuyến nghị trong Basel III để giám sát rủi ro thanh khoản nói chung và rủi ro chênh lệch đáo hạn nói riêng tại các NHTM. Thứ hai, thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng tài sản, giảm tỷ lệ nợ xấu làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nói riêng và sự ổn định của hệ thống nói chung. Nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Hảo (2014) đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng nợ xấu tăng cao là do chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM còn khá thấp, thể hiện nhiều ngân hàng thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu chuẩn cho vay, thiếu các điều kiện đảm bảo cần thiết, công tác giám sát sau giải ngân còn nhiều yếu kém. Do đó, cần hoàn thiện mô hình tổ chức quản trị rủi ro tín dụng gồm 3 cấp, cấp lãnh đạo, cấp quản lý bộ phận kinh doanh chính và bộ phận quan hệ khách hàng; trong đó có sự phân định rõ ràng về nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân, các đơn vị kinh doanh chính thức tham gia và coi công tác quản lý rủi ro như một công việc của mình. Bên cạnh đó, các NHTM cần chủ động thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đúng và đầy đủ để có nguồn bù đắp cho những rủi ro trong tương lai. Thứ ba, đa dạng hóa danh mục sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, gia tăng các nguồn thu từ dịch vụ và giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng. Thực tiễn kinh doanh của các NHTM trong thời gian qua đã cho thấy, 60-70% thu nhập của ngân hàng đến từ hoạt động tín dụng, nhưng đây cũng là lĩnh vực đem lại nhiều rủi ro nhất cho các NHTM. Đặc biệt trong những giai đoạn căng thẳng, khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao, quy mô huy động và cho vay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của NHTM. Nghiên cứu của Stiroh (2002) cho thấy thu nhập phi lãi của ngân hàng ít phụ thuộc vào điều kiện kinh doanh chung hơn so với thu nhập lãi, do đó việc tăng thu nhập phi lãi sẽ giảm thiểu những biến động mang tính chu kỳ trong lợi nhuận và doanh thu của ngân hàng. ■ Tài liệu tham khảo 1. Ceevik, E.I, Dibooglu, S. &Kenc, T., 2013, “measuring financial stress in Turkey”, Journal of Policy Modelling, Volume 35, Issue 2, March- April 2013, Pages 370-383. 2. Grimaldi, M.B., 2010, “Detecting and interpreting financial stress in the Euro area”, ECB Working Paper Series, No 1214, June 2010. 3. Hanschel, E. and Monnin, P., 2005, “Measuring and forecasting stress in the banking sector: evidence from Switzerland”, BIS vol.22, pp431-49, 2005. 4. Kappler, M. and Schleer, F., 2013, “How many factors and shocks cause financial stress ?”, ZEW Discussion Paper No.13- 100. 5. Louis, D.P. &Vouldis, A.T., 2013, “A financial systemic stress index for Greece”, Working Paper Series, No 1563/ July 2013. 6. Mishkin, F.S., 1992, “The economics of money, banking and financial markets”, HarperCollins Publisher. 7. Mitnik, S. &Semmler, W., 2013, “The real consequences of financial stress”, Journal of Economic Dynamics and Control, 2013, vol.37, issue 8, 1479-1499. QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018 8. Reinhart, C.M &Rogoff, K.S, 2009, “The aftermath of financial crises”, the National Bureau of Economics Research, Working Paper No. 14656. 9. Stiroh, K.J., 2002, “Diversification in Banking: is noninterest income the answer ?”, Journal of money, credit and banking, 2004, vol.36, issue 5, 853-82. 10. Turner, P., 2007, “Are banking systems in East Asia Stronger ?”, Asian Economic Policy Review, Volume 2, issue 1, June 2007, pages 75-95. 11. Đỗ Thị Kim Hảo, 2014, “Tăng trưởng tín dụng nóng và những ảnh hưởng đối với sự lành mạnh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Ngành. 12. Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Hoàng Yến và Bùi Thanh Hương, “Ảnh hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động của hệ thống ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2011”, Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng số 112, tháng 9/2011. 13. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, “Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2011”. Thông tin tác giả Vũ Thị Kim Oanh, Thạc sỹ Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Email: oanhvtk@hvnh.edu.vn Summary Stress in the Vietnamese banking sector- Analysis from balance sheet data The healthy of the banking sector is very crucial to the sustainablity of financial system and the economy. These financial intermediaries play an important role in the functional operation of the financial system. The interruption of the normal functioning of the financial system might cease the economy activities, affect to the sustainable development of the economy. In this paper, the author analyses the stress of Vietnamese banking sector using balance sheet data. Stages of bank stress was stated out and some lessons for commercial banks to avoid future stress was concluded. Keywords: stress in banking sector, balance sheet data, bank fragility, financial stress. Oanh Thi Kim Vu, MEc. Banking Faculty, Banking Academy
File đính kèm:
- cang_thang_khu_vuc_ngan_hang_nhin_tu_bao_cao_tai_chinh_cac_n.pdf