Can thiệp động mạch phổi qua ống thông ở bệnh nhân tắc động mạch phổi có rối loạn huyết động sau mổ u xơ tử cung
MỞ ĐẦU
Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) bao
gồm huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới (DVT) và
tắc động mạch phổi (PE), trong đó tắc động mạch
phổi cấp là biểu hiện lâm sàng nghiêm trọng nhất
và là nguyên nhân chính khiến bệnh nhân phải
nhập viện, tàn phế và tử vong. Đây là bệnh lý tim
mạch khá thường gặp với tỉ lệ mắc hàng năm là 100-
200/100.000 dân [1-2]. Việc tiếp cận chẩn đoán và
thái độ xử trí cấp cứu đối với bệnh nhân tắc động
mạch phổi dựa vào dấu hiệu rối loạn huyết động
trên lâm sàng, sự tăng men tim trên xét nghiệm sinh
hoá và mức độ suy tim phải trên siêu âm tim. Bài báo
này mô tả thái độ xử trí đối với một trường hợp tắc
động mạch phổi cấp được can thiệp hút huyết khối
qua đường ống thông tại Viện Tim mạch Việt Nam,
Bệnh viện Bạch Mai đồng thời sẽ điểm lại một số
nét mới trong chỉ định, phương pháp và kĩ thuật can
thiệp động mạch qua đường ống thông, cũng như
thái độ xử trí chung đối với tắc động mạch phổi cấp
dựa trên những khuyến cáo điều trị hiện hành
Tóm tắt nội dung tài liệu: Can thiệp động mạch phổi qua ống thông ở bệnh nhân tắc động mạch phổi có rối loạn huyết động sau mổ u xơ tử cung
CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 79 Can thiệp động mạch phổi qua ống thông ở bệnh nhân tắc động mạch phổi có rối loạn huyết động sau mổ u xơ tử cung Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Ngọc Quang, Văn Đức Hạnh Mai Trung Anh, Nguyễn Hữu Tuấn, Trần Bá Hiếu Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh Viện Bạch Mai MỞ ĐẦU Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới (DVT) và tắc động mạch phổi (PE), trong đó tắc động mạch phổi cấp là biểu hiện lâm sàng nghiêm trọng nhất và là nguyên nhân chính khiến bệnh nhân phải nhập viện, tàn phế và tử vong. Đây là bệnh lý tim mạch khá thường gặp với tỉ lệ mắc hàng năm là 100- 200/100.000 dân [1-2]. Việc tiếp cận chẩn đoán và thái độ xử trí cấp cứu đối với bệnh nhân tắc động mạch phổi dựa vào dấu hiệu rối loạn huyết động trên lâm sàng, sự tăng men tim trên xét nghiệm sinh hoá và mức độ suy tim phải trên siêu âm tim. Bài báo này mô tả thái độ xử trí đối với một trường hợp tắc động mạch phổi cấp được can thiệp hút huyết khối qua đường ống thông tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai đồng thời sẽ điểm lại một số nét mới trong chỉ định, phương pháp và kĩ thuật can thiệp động mạch qua đường ống thông, cũng như thái độ xử trí chung đối với tắc động mạch phổi cấp dựa trên những khuyến cáo điều trị hiện hành. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Bệnh nhân nữ 55 tuổi có tiền sử hen phế quản nhiều năm, nhập Viện Tim mạch vì sưng đau, căng cứng chân trái sau mổ cắt tử cung toàn bộ do u xơ tử cung cách 5 ngày. Sau nhập viện 1 giờ, bệnh nhân đột ngột xuất hiện mất ý thức, mạch cảnh mất và được cấp cứu ngừng tuần hoàn, sau đó có mạch đập trở lại sau vài phút. Sau cấp cứu ngừng tuần hoàn: huyết áp 80/50 mmHg, SpO2 70%, nhịp tim 120 chu kỳ/phút. Song song với các biện pháp hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn, kết quả chụp MSCT hệ động mạch phổi và siêu âm Doppler mạch chân cấp cứu cho chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp, huyết khối tĩnh mạch sâu chân trái sau mổ cắt tử cung toàn bộ ở bệnh nhân có tiền sử hen phế quản. Bệnh nhân được xử trí thở oxy mask túi, truyền dịch, truyền vận mạch noradrenalin, truyền heparin không phân đoạn. Đánh giá lâm sàng, đây là một bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp có rối loạn huyết động, phân tầng nguy cơ cao (thang điểm PESI: 170 điểm tương đương với nguy cơ tử vong rất cao từ 10 đến 24,5%; thang điểm sPESI: 4 điểm tương đương nguy cơ tử vong của bệnh nhân là 10,9 % sau 30 ngày). Như vậy về chỉ định, bệnh nhân có chỉ định tái tưới máu động mạch phổi thì đầu theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Châu Âu năm 2014. Tuy nhiên bệnh nhân không có chỉ định tiêu sợi huyết CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201880 đường toàn thân và qua đường ống thông vì bệnh nhân rơi vào nhóm chống chỉ định tuyệt đối (sau phẫu thuật trong vòng 3 tuần), mặt khác phẫu thuật lấy huyết khối động mạch phổi gặp khó khăn do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan. Vì vậy chúng tôi quyết định tiến hành hút huyết khối qua đường ống thông. Tại thời điểm xét lấy huyết khối động mạch phổi, bệnh nhân khó thở nhiều, SpO2 90% (đang thở O2 mask 10 lít/phút), huyết áp 100/60 mmHg, nhịp tim 110 chu kỳ/phút Bệnh nhân được tiến hành lấy huyết khối động mạch phổi bằng phương pháp hút huyết khối sử dụng ống thông Penumbra. Sau can thiệp lấy huyết khối động mạch phổi, tình trạng lâm sàng của bệnh nhân cải thiện rõ rệt, bệnh nhân đỡ khó thở nhiều, SpO2 98%, huyết áp 110/70 (không dùng vận mạch), nhịp tim 70 chu kỳ/phút. Bệnh nhân được duy trì Heparin truyền tĩnh mạch trong vòng 48 giờ, giữ aPTT từ 1,5 – 2 lần so với chứng kèm được dùng thuốc kháng Vitamin K, duy trì INR từ 2 – 2,5. Bệnh nhân được ra viện sau 7 ngày hút huyết khối động mạch phổi. Một số xét nghiệm của bệnh nhân trước và sau hút huyết khối: MSCT động mạch phổi (ĐMP) lúc vào viện: huyết khối bán phần thân chung ĐMP, nhiều huyết khối lớn ở nhánh phải và nhánh trái ĐMP. Siêu âm tim: Kích thước chức năng tâm thu thất trái bình thường, đường kính thất phải = 28 mm, TAPSE = 22 mm, hở van ba lá nhiều, áp lực động mạch phổi (ALĐMP) tâm thu ước tính 51 mm Hg. NT-proBNP=335 pmol/L. Troponin T = 155,8 ng/L. MSCT ĐMP sau hút huyết khối: còn ít huyết khối bán phần nhánh chính ĐMP 2 bên. Siêu âm tim: đường kính thất phải 24 mm, hở van ba lá mức độ nhẹ - vừa. ALĐMP tâm thu ước tính 33 mmHg. NT-proBNP = 47,3 pmol/L. Troponin T = 14,9 ng/L. BÀN LUẬN Tỉ lệ và các yếu tố nguy cơ tắc động mạch phổi Tắc động mạch phổi cấp (PE) là tình trạng đe dọa tính mạng có tỉ lệ tử vong ~ 15% trong 3 tháng [3]. Tắc động mạch phổi diện rộng (hay nguy cơ cao) được định nghĩa là tắc động mạch phổi cấp với hạ huyết áp hệ thống mất bù (huyết áp tâm thu <90 mmHg), sốc tim hoặc cần phải cấp cứu ngừng tuần hoàn, những bệnh nhân này có tỉ lệ tử vong khoảng 50%. Tắc động mạch phổi bán cấp với những biểu hiện như tụt huyết áp còn bù, suy chức năng thấp phải trên điện tâm đồ hoặc tăng marker sinh học của tim có tỉ lệ tử vong trong viện là 6-8% [4-5]. Các yếu tố nguy cơ mắc thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch bao gồm các yếu tố nguy cơ chỉ tồn tại tạm thời hoặc có thể đảo ngược (như sau phẫu thuật, chấn thương, bất động, có thai, uống thuốc tránh thai hoặc là dùng liệu pháp thay thế hormone) trong vòng 6 tuần tới 3 tháng trước khi được chẩn đoán [6]. Các yếu tố làm tăng khả năng mắc thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch cũng được nhắc đến bao gồm ung thư, nhiễm trùng, truyền máu, hay sử dụng các thuốc kích thích hồng cầu [7]. Ngoài ra, các yếu tố nguy cơ khác bao gồm hút thuốc lá, béo phì, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và đái tháo đường. Hình 1. Huyết khối ĐMP sau khi được hút ra CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 81 Hình 2. Huyết khối nhánh ĐMP trái: trước (trái) và sau (phải) can thiệp hút huyết khối trên phim chụp CLVT ĐMP Hình 3. Huyết khối nhánh ĐMP phải: trước (trái) và sau (phải) can thiệp hút huyết khối trên phim chụp CLVT ĐMP Bệnh nhân của chúng tôi có yếu tố nguy cơ là vừa trải qua phẫu thuật lớn tại vùng tiểu khung (phẫu thuật cắt toàn bộ tử cung), phải nằm bất động vài ngày. Sau đó bệnh nhân xuất hiện sưng đau, căng cứng chân trái, siêu âm Doppler mạch chân thấy có huyết khối mới hoàn toàn tĩnh mạch chày sau, tĩnh mạch mác, cơ dép và cơ sinh đôi bên trái. Bệnh nhân được dự báo lâm sàng khả năng tắc động mạch phổi với: Thang điểm Wells sửa đổi = 4 điểm và thang điểm Geneva sửa đổi = 6 điểm đều tương đương với khả năng cao là tắc ĐMP theo thang điểm lâm sàng 3 mức độ và nhiều khả năng tắc ĐMP theo thang điểm lâm sàng 2 mức độ. Các phương pháp điều trị trong giai đoạn cấp của tắc động mạch phổi [8] Sử dụng các thuốc chống đông được khuyến cáo là lựa chọn đầu tiên trong điều trị tắc động mạch phổi [9]. Đối với tắc động mạch phổi cấp diện rộng, mục tiêu điều trị là ổn định huyết động đồng thời đảo ngược tình trạng suy thất phải và làm tăng tỉ lệ sống sót. Trong các trường hợp này, việc sử dụng các thuốc chống đông đơn thuần thường không mang lại hiệu quả tốt trên các tiêu chí ở trên vì vậy chỉ nên áp dụng điều trị chống đông đơn thuần cho những bệnh nhân tắc động mạch phổi nguy cơ thấp hoặc trung bình, không có rối loạn huyết động, không có biểu hiện suy thất phải nặng cũng như không tăng áp lực động mạch phổi nhiều. Đối với những trường hợp tắc động mạch phổi cấp diện rộng, có rối loạn huyết động cần phải được xem xét các biện pháp tái tưới máu động mạch phổi càng sớm càng tốt. Các biện pháp tái tưới máu động mạch phổi bao gồm: tiêu sợi huyết, phẫu thuật lấy huyết khối động mạch phổi và lấy huyết khối động mạch phổi qua đường ống thông. Đối với những bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp có sốc hoặc tụt huyết áp (nguy cơ cao) tiêu sợi huyết được khuyến cáo (khuyến cáo loại I-mức độ bằng chứng B) [10]. Phẫu thuật lấy huyết khối được khuyến cáo trên những bệnh nhân mà tiêu sợi huyết là chống chỉ định hoặc thất bại (khuyến cáo loại I-mức độ bằng chứng C) [11]. Can thiệp qua đường ống thông (bao gồm lấy huyết khối và tiêu sợi huyết qua ống thông) nên được cân nhắc là phương pháp thay thế cho phẫu thuật khi tiêu sợi huyết là chống chỉ định hoặc thất bại (khuyến cáo loại IIa – mức độ bằng chứng C). Đối với những bệnh nhân tắc ĐMP cấp không có sốc hoặc tụt huyết áp (nguy cơ trung bình hoặc thấp), tiêu sợi huyết nên được cân nhắc nếu tắc ĐMP nguy cơ trung bình-cao kèm theo những dấu hiệu lâm sàng của suy tuần hoàn (khuyến cáo loại IIa-mức độ bằng chứng B) [12-13]. Phẫu thuật lấy huyết khối và can thiệp ĐMP qua đường ống thông CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201882 có thể được cân nhắc nếu nguy cơ chảy máu cao khi dùng thuốc tiêu sợi huyết (khuyến cáo loại IIb- mức độ bằng chứng C với phẫu thuật và mức độ bằng chứng B đối với can thiệp) [14]. Bệnh nhân của chúng tôi có bệnh cảnh ban đầu là ngừng tuần hoàn, phải tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn trong khoảng thời gian khoảng hơn 2 phút, sau đó cần phải dùng noradrenaline để nâng huyết áp. Như vậy, bệnh nhân tắc động mạch phổi của chúng tôi được xếp vào nhóm nguy cơ rất cao có chỉ định tái tưới máu động mạch phổi. Phương pháp hút huyết khối qua đường ống thông Penumbra được lựa chọn do bệnh nhân có chống chỉ định với tiêu sợi huyết (vừa phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ ngày 5) và nguy cơ tử vong cao khi phẫu thuật lấy huyết khối động mạch phổi (EURO score II với tỉ lệ tử vong là 8,11 % kèm tiền sử hen phế quản). Kết quả chụp ĐMP dưới màn tăng sáng cho thấy nhiều huyết khối bám vào nhánh ĐMP chung và các nhánh ĐMP chính 2 bên. Chúng tôi đã tiến hành hút ra nhiều huyết khối từ thân chung và các nhánh chính động mạch phổi hai bên. Sau khi kết thúc thủ thuật, huyết động bệnh nhân ổn định, hết khó thở, có thể tự đi lại. Chúng tôi vẫn tiếp tục dùng Heparin không phân đoạn kết hợp cùng với thuốc kháng Vitamin K, bệnh nhân ổn định, ra viện ngày thứ 7 sau can thiệp. Vì bệnh nhân có yếu tố nguy cơ là sau phẫu thuật can thiệp vào vùng tiểu khung nên chúng tôi quyết định dùng thuốc kháng Vitamin K cho bệnh nhân trong vòng 3 tháng sau tắc động mạch phổi (khuyến cáo loại I – mức độ bằng chứng B) [15]. Tổng quan về phương pháp can thiệp ĐMP qua đường ống thông[16] Kể từ khi thiết bị lấy huyết khối đầu tiên được mô tả năm 1971 [17], nhiều kĩ thuật lấy huyết khối dựa trên ống thông đã ra đời. Đối với những bệnh nhân có chống chỉ định tuyệt đối với tiêu sợi huyết, các kĩ thuật can thiệp qua đường ống thông được chia thành 4 nhóm: (1) lấy huyết khối từng mảnh, (2) lấy huyết khối bằng thủy lực, (3) lấy huyết khối bằng phương pháp hút và (4) phương pháp khoan phá huyết khối. Còn đối với những bệnh nhân không có chống chỉ định tuyệt đối với tiêu sợi huyết, 2 phương thức tiếp cận được sử dụng: (1) tiêu huyết khối trược tiếp qua ống thông tiêu chuẩn (CDT) và (2) tiêu huyết khối kết hợp nội khoa và cơ học (PMT). Bệnh nhân của chúng tôi được can thiệp bằng phương pháp hút huyết khối sử dụng ống thông Penumbra. Đây là một phương pháp sử dụng áp lực âm để hút huyết khối vào xi-lanh thông qua một ống thông kích thước lớn (8-9 F). Những sheath tiếp xúc mạch máu đơn thuần không thích hợp cho phương pháp này do huyết khối lớn thường xuyên bị kẹt tại sheath trong quá trình hút huyết khối bởi van cầm máu. Vì vậy, kĩ thuật này cần sử dụng sheath dành riêng cho hút huyết khối với van cầm máu linh hoạt có thể tháo ra được, cho phép lấy huyết khối qua da mà không cần phẫu thuật cắt bỏ huyết khối. Hình 4. Dụng cụ hút huyết khối ĐMP Penumbra Ưu điểm, nhược điểm và một số bằng chứng lâm sàng của can thiệp lấy huyết khối qua đường ống thông Lấy huyết khối qua đường ống thông trong tắc động mạch phổi cấp là một phương pháp can thiệp CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 83 ít xâm lấn giúp cải thiện tiên lượng tử vong cũng như là các thông số huyết động một cách nhanh chóng trong vòng 8 giờ đầu sau can thiệp mà không làm tăng nguy cơ chảy máu cho bệnh nhân[18]. Trong khi đó, tiêu sợi huyết mặc dù làm giảm tỉ lệ tử vong nhưng lại mang đến nguy cơ chảy máu cao hơn khi so sánh với dùng các thuốc chống đông đơn thuần. Mặt khác, phẫu thuật lấy huyết khối lại bị hạn chế bởi việc thường xuyên thiếu những phẫu thuật viên chuyên khoa, người bệnh có nhiều bệnh nội khoa phức tạp đi kèm gây khó khăn trong gây mê và tiên lượng là những yếu tố cản trở và làm tăng nguy cơ tử vong trong và xung quanh phẫu thuật. Trong thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi Pulmonary Embolism THrOmbolysis (PEITHO), 506 bệnh nhân được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết và chống đông, 499 bệnh nhân chỉ được dùng chống đông đơn thuần. Mặc dù, sử dụng tiêu sợi huyết cùng với chống đông làm giảm tỉ lệ tử vong và rối loạn huyết động (2,6% so với 5,6%), nhưng lại làm tăng có ý nghĩa tỉ lệ chảy máu ngoài não (6,3% so với 1,2%) và xuất huyết nội sọ (2,0% so với 0,2%) [12]. Trong khi đó, can thiệp lấy huyết khối qua ống thông đã được chứng minh về hiệu quả và có giá trị thay thế những phương pháp điều trị khác thông qua ba thử nghiệm lớn. Thử nghiệm ULTIMA chỉ ra có sự cải thiện đáng kể các thông số của thất phải mà không đi kèm những biến cố lớn trong tắc động mạch phổi [14]. Thử nghiệm SEATTLE II, là một nghiên cứu tiến cứu trên 150 bệnh nhân, cho thấy tỉ lệ suy thất phải và tăng áp lực động mạch phổi giảm đáng kể ở những bệnh nhân tắc động mạch phổi nhưng không gây ra xuất huyết nội sọ [19]. Thử nghiệm PERFECT có tỉ lệ thành công lâm sàng là 86% đối với tắc động mạch phổi diện rộng và 97% đối với tắc động mạch phổi khác kèm theo cải thiện chức năng thất phải và áp lực động mạch phổi mà không làm gia tăng những biến cố chảy máu lớn [20]. Trong tương lai, những dữ liệu và nghiên cứu sẽ giúp làm sáng tỏ những vấn đề sau: (I) những bệnh nhân nào sẽ hưởng lợi từ lấy huyết khối qua ống thông so với tiêu sợi huyết, (II) những tiêu chí lâm sàng và/hoặc cận lâm sàng nào giúp phân biệt những bệnh nhân này, (III) những kĩ thuật can thiệp lấy huyết khối nào đem lại hiệu quả vượt trội và an toàn hơn cho bệnh nhân. Với những dữ liệu hiện tại, việc thành lập các Nhóm Phản Ứng Tắc động mạch Phổi (PERT) bao gồm nhiều chuyên gia, nhiều chuyên khoa, phối hợp đa trung tâm dường như đem lại nhiều lợi ích hơn cho bệnh nhân [21-22]. Áp dụng lâm sàng - Đối với những bệnh nhân tắc ĐMP có sốc hoặc tụt áp (nguy cơ cao), các biện pháp tái tưới máu động mạch phổi cần được xem xét sớm: † Tiêu sợi huyết đường toàn thân nên được lựa chọn đầu tiên nếu bệnh nhân không có chống chỉ định tuyệt đối. † Nếu tiêu sợi huyết là chống chỉ định tương đối, nên cân nhắc tiêu sợi huyết qua đường ống thống có hoặc không kết hợp với can thiệp cơ học. † Khi tiêu sợi huyết thất bại hoặc tiêu sợi huyết là chống chỉ định tuyệt đối, can thiệp cơ học ĐMP qua đường ống thông nên được cân nhắc. † Phẫu thuật lấy huyết khối được chỉ định trong trường hợp tiêu sợi huyết thất bại hoặc chống chỉ định tiêu sợi huyết. - Đối với những bệnh nhân tắc ĐMP không có sốc hoặc tụt áp (nguy cơ trung bình hoặc thấp) được xem xét các biện pháp tái tưới máu khi bệnh nhân có nguy cơ trung bình-cao kèm theo các dấu hiệu mất bù tuần hoàn hoặc hô hấp: † Tiêu sợi huyết nên được cân nhắc sử dụng đầu tiên. † Nếu nguy cơ chảy máu của bệnh nhân cao khi sử dụng thuốc tiêu sợi huyết thì có thể cân nhắc can thiệp ĐMP qua đường ống thông hoặc mổ lấy CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201884 huyết khối ĐMP tùy vào mức độ sẵn sàng của các chuyên gia và nguồn lực của cơ sở y tế. KẾT LUẬN Tắc ĐMP là bệnh lí khá thường gặp và là tình trạng lâm sàng đe dọa tính mạng nhưng có khả năng điều trị được. Sau phẫu thuật, chấn thương, bất động lâu ngày, có thai, uống thuốc tránh thai hoặc là dùng liệu pháp thay thế hormone là những yếu tố nguy cơ mạnh của tắc ĐMP [6]. Sử dụng các thuốc chống đông được khuyến cáo là lựa chọn đầu tiên trong điều trị tắc ĐMP. Các biện pháp tái tưới máu bao gồm tiêu sợi huyết, phẫu thuật lấy huyết khối và can thiệp ĐMP qua đường ống thông được khuyến cáo đối với những bệnh nhân Tắc ĐMP nguy cơ cao và nguy cơ trung bình- cao. Can thiệp ĐMP qua đường ống thông là một phương pháp hứa hẹn giúp cải thiện tỉ lệ sống sót, giảm tỉ lệ suy thất phải và tăng áp lực Động mạch Phổi sau thuyên tắc nhưng không làm tăng nguy cơ chảy máu cho bệnh nhân [19]. Hiện nay, can thiệp ĐMP qua đường ống thông đã được chỉ định trong hai trường hợp: (1) Bệnh nhân tắc ĐMP có sốc/ tụt áp (nguy cơ cao) mà tiêu sợi huyết là chống chỉ định, (2) Bệnh nhân tắc ĐMP nguy cơ trung bình- cao nhưng tiêu sợi huyết có nguy cơ chảy máu cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A. T. Cohen, G. Agnelli, F. A. Anderson và cộng sự (2007). Venous thromboembolism (VTE) in Europe. The number of VTE events and associated morbidity and mortality. Thromb Haemost, 98 (4), 756- 764. 2. J. A. Heit (2008). The epidemiology of venous thromboembolism in the community. Arterioscler Thromb Vasc Biol, 28 (3), 370-372. 3. S. Z. Goldhaber, L. Visani và M. De Rosa (1999). Acute pulmonary embolism: clinical outcomes in the International Cooperative Pulmonary Embolism Registry (ICOPER). Lancet, 353 (9162), 1386-1389. 4. W. Kasper, S. Konstantinides, A. Geibel và cộng sự (1997). Management strategies and determinants of outcome in acute major pulmonary embolism: results of a multicenter registry. J Am Coll Cardiol, 30 (5), 1165-1171. 5. B. Fremont, G. Pacouret, D. Jacobi và cộng sự (2008). Prognostic value of echocardiographic right/ left ventricular end-diastolic diameter ratio in patients with acute pulmonary embolism: results from a monocenter registry of 1,416 patients. Chest, 133 (2), 358-362. 6. C. Kearon và E. A. Akl (2014). Duration of anticoagulant therapy for deep vein thrombosis and pulmonary embolism. Blood, 123 (12), 1794-1801. ABSTRACT A 55-year-old woman admitted to hospital because of pain, swelling and tenderns in left leg after 5-day hysterectomy due to uterine fibroids. The patient presented cardiac arrest at the time of admission and received cardiopulmonary resuscitation. She was diagnosed acute massive pulmonary embolism with deep vein thrombosis and high risk mortality and performed suction thrombectomy with aspiration catheters. After procedure the patient was well recovered and discharged from hospital 7 days later. This paper will discuss deeply the indication, method and technique of percutaneous catheter-directed treatment. CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 85 7. M. A. Rogers, D. A. Levine, N. Blumberg và cộng sự (2012). Triggers of hospitalization for venous thromboembolism. Circulation, 125 (17), 2092-2099. 8. S. V. Konstantinides (2014). 2014 ESC Guidelines on the diagnosis and management of acute pulmonary embolism. Eur Heart J, 35 (45), 3145-3146. 9. M. R. Jaff, M. S. McMurtry, S. L. Archer và cộng sự (2011). Management of massive and submassive pulmonary embolism, iliofemoral deep vein thrombosis, and chronic thromboembolic pulmonary hypertension: a scientific statement from the American Heart Association. Circulation, 123 (16), 1788-1830. 10. S. Wan, D. J. Quinlan, G. Agnelli và cộng sự (2004). Thrombolysis compared with heparin for the initial treatment of pulmonary embolism: a meta-analysis of the randomized controlled trials. Circulation, 110 (6), 744-749. 11. N. Meneveau, M. F. Seronde, M. C. Blonde và cộng sự (2006). Management of unsuccessful thrombolysis in acute massive pulmonary embolism. Chest, 129 (4), 1043-1050. 12. G. Meyer, E. Vicaut, T. Danays và cộng sự (2014). Fibrinolysis for patients with intermediate-risk pulmonary embolism. N Engl J Med, 370 (15), 1402-1411. 13. S. Konstantinides, A. Geibel, G. Heusel và cộng sự (2002). Heparin plus alteplase compared with heparin alone in patients with submassive pulmonary embolism. N Engl J Med, 347 (15), 1143-1150. 14. N. Kucher, P. Boekstegers, O. J. Muller và cộng sự (2014). Randomized, controlled trial of ultrasound-assisted catheter-directed thrombolysis for acute intermediate-risk pulmonary embolism. Circulation, 129 (4), 479-486. 15. G. Agnelli, P. Prandoni, C. Becattini và cộng sự (2003). Extended oral anticoagulant therapy after a first episode of pulmonary embolism. Ann Intern Med, 139 (1), 19-25. 16. R. P. Engelberger và N. Kucher (2011). Catheter-based reperfusion treatment of pulmonary embolism. Circulation, 124 (19), 2139-2144. 17. L. J. Greenfield, T. A. Bruce và N. B. Nichols (1971). Transvenous pulmonary embolectomy by catheter device. Ann Surg, 174 (6), 881-886. 18. A. G. Dilektasli, E. Demirdogen Cetinoglu, N. A. Acet và cộng sự (2016). Catheter-Directed Therapy in Acute Pulmonary Embolism with Right Ventricular Dysfunction: A Promising Modality to Provide Early Hemodynamic Recovery. Med Sci Monit, 22, 1265-1273. 19. G. Piazza, B. Hohlfelder, M. R. Jaff và cộng sự (2015). A Prospective, Single-Arm, Multicenter Trial of Ultrasound-Facilitated, Catheter-Directed, Low-Dose Fibrinolysis for Acute Massive and Submassive Pulmonary Embolism: The SEATTLE II Study. JACC Cardiovasc Interv, 8 (10), 1382-1392. 20. W. T. Kuo, A. Banerjee, P. S. Kim và cộng sự (2015). Pulmonary Embolism Response to Fragmentation, Embolectomy, and Catheter Thrombolysis (PERFECT): Initial Results From a Prospective Multicenter Registry. Chest, 148 (3), 667-673. 21. C. Kabrhel, R. Rosovsky, R. Channick và cộng sự (2016). A Multidisciplinary Pulmonary Embolism Response Team: Initial 30-Month Experience With a Novel Approach to Delivery of Care to Patients With Submassive and Massive Pulmonary Embolism. Chest, 150 (2), 384-393. 22. N. Reza và D. M. Dudzinski (2015). Pulmonary embolism response teams. Curr Treat Options Cardiovasc Med, 17 (6), 387.
File đính kèm:
- can_thiep_dong_mach_phoi_qua_ong_thong_o_benh_nhan_tac_dong.pdf