Can thiệp động mạch đùi nông

Tổn thương động mạch đùi nông là nguyên nhân thường gặp nhất gây triệu chứng đau cách hồi. Hẹp hoặc tắc động mạch đùi nông kèm theo tắc các động mạch dưới gối (chày trước, thân chày mác, chày sau) sẽ có nguy cơ cao dẫn đến thiếu máu chi dưới trầm trọng và các biểu hiện của mất tổ chức như loét lâu liền, hoại tử chi, nếu không được điều trị hợp lý sẽ dẫn đến cắt cụt chi.

Can thiệp nội mạch tái thông động mạch đùi nông được Charles Dotter tiến hành lần đầu tiên năm 1964. Khi ấy, Dotter đã dùng một que nong có tráng phủ lớp Teflon để mở rộng động mạch đùi nông ở một bệnh nhân 82 tuổi có thiếu máu chi trầm trọng nhưng không thể phẫu thuật1. Sau đó, Andreas Gruntzig đã phát triển kỹ thuật nong bóng tạo hình lòng mạch. Bóng nong sẽ phá bỏ lớp xơ vữa và cải thiện diện tích mạch máu. Tuy nhiên, nong bóng đơn thuần có nguy cơ gây bóc tách nội mạc mạch máu và cản trở dòng chảy. Ngoài ra, với các tổn thương lan toả kéo dài, tổn thương vôi hoá, có hiện tượng tái hẹp (recoil) ngay sau nong bóng. Biện pháp khắc phục trong các trường hợp này là đặt Stent. Hiện nay, kỹ thuật can thiệp động mạch đùi nông phổ biến nhất là nong bóng trước, sau đó đặt Stent nếu cần thiết

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Can thiệp động mạch đùi nông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Can thiệp động mạch đùi nông

Can thiệp động mạch đùi nông
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 15
Can thiệp động mạch đùi nông
Đinh Huỳnh Linh, Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Mạnh Hùng 
Viện Tim mạch Việt Nam
Bộ môn Tim mạch, Trường Đại học Y Hà Nội
TỔNG QUAN 
Tổn thương động mạch đùi nông là nguyên nhân 
thường gặp nhất gây triệu chứng đau cách hồi. Hẹp 
hoặc tắc động mạch đùi nông kèm theo tắc các 
động mạch dưới gối (chày trước, thân chày mác, 
chày sau) sẽ có nguy cơ cao dẫn đến thiếu máu chi 
dưới trầm trọng và các biểu hiện của mất tổ chức 
như loét lâu liền, hoại tử chi, nếu không được điều 
trị hợp lý sẽ dẫn đến cắt cụt chi. 
Can thiệp nội mạch tái thông động mạch đùi 
nông được Charles Dotter tiến hành lần đầu tiên 
năm 1964. Khi ấy, Dotter đã dùng một que nong 
có tráng phủ lớp Teflon để mở rộng động mạch 
đùi nông ở một bệnh nhân 82 tuổi có thiếu máu 
chi trầm trọng nhưng không thể phẫu thuật1. Sau 
đó, Andreas Gruntzig đã phát triển kỹ thuật nong 
bóng tạo hình lòng mạch. Bóng nong sẽ phá bỏ lớp 
xơ vữa và cải thiện diện tích mạch máu. Tuy nhiên, 
nong bóng đơn thuần có nguy cơ gây bóc tách nội 
mạc mạch máu và cản trở dòng chảy. Ngoài ra, với 
các tổn thương lan toả kéo dài, tổn thương vôi hoá, 
có hiện tượng tái hẹp (recoil) ngay sau nong bóng. 
Biện pháp khắc phục trong các trường hợp này là 
đặt Stent. Hiện nay, kỹ thuật can thiệp động mạch 
đùi nông phổ biến nhất là nong bóng trước, sau đó 
đặt Stent nếu cần thiết. 
Chỉ định can thiệp động mạch đùi nông ở bệnh 
nhân có đau cách hồi từ mức độ trung bình đến 
nặng (Rutherford 2, 3), nhất là khi thiếu máu chi 
khi nghỉ và mất tổ chức mô (Rutherford giai đoạn 
4, 5, 6, bảng 1)2. Tổn thương động mạch đùi nông 
thường đi kèm hẹp tắc các tầng mạch khác, nhất là 
tầng dưới gối. Do vậy đôi khi tái thông động mạch 
đùi nông chưa thể cải thiện ngay lập tức triệu chứng 
cho người bệnh.
Bảng 1. Phân loại Rutherford cho tổn thương thiếu 
máu chi mạn tính
Phân độ Triệu chứng lâm sàng 
0 Không triệu chứng 
1 Đau cách hồi nhẹ 
2 Đau cách hồi mức độ trung bình 
3 Đau cách hồi nặng 
4 Thiếu máu chi khi nghỉ 
5 Mất tổ chức ít 
6 Mất tổ chức nhiều 
Khi đã có chỉ định tái tưới máu mạch chi, lựa 
chọn hướng điều trị dựa theo phân loại của Hội 
nghị đồng thuận liên Đại Tây Dương TASC II 
(bảng 2)3. Có thể đánh giá phân độ TASC theo 
kết quả siêu âm mạch máu, chụp MSCT hay MRI 
mạch máu, hoặc chụp mạch cản quang. Đa số các 
trường hợp tổn thương TASC A và B được can 
thiệp qua đường ống thông. TASC C có thể can 
thiệp qua da hoặc phẫu thuật, tuỳ đánh giá lợi ích-
nguy cơ từng người bệnh. Nói chung, tổn thương 
TASC D thường được chỉ định phẫu thuật làm cầu 
nối. Nếu bệnh nhân không thể phẫu thuật (do đặc 
điểm giải phẫu tổn thương hoặc các bệnh lý nội 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.201616
khoa kèm theo), có thể xem xét tái tưới máu qua da 
hoặc điều trị nội khoa. Chỉ định cắt cụt chi ở những 
bệnh nhân thiếu máu chi trầm trọng không thể tái 
tưới máu. Cắt cụt chi có thể làm giảm triệu chứng 
đau và ngăn ngừa nguy cơ nhiễm trùng nhiễm độc ở 
các bệnh nhân có loét, hoại tử chi nặng, mất tổ chức 
nhiều. Với các tiến bộ của tim mạch can thiệp, tỉ lệ 
cắt cụt chi đang có xu hướng giảm đi.
Bảng 2. Phân loại TASC tổn thương động mạch đùi nông3
TASC Đặc điểm tổn thương Minh họa
A 1. Hẹp đơn độc ĐM đùi nông hoặc ĐM khoeo dưới 3 cm.
B
2. Hẹp đơn độc từ 3 – 10 cm chiều dài, không lan tới đoạn xa 
ĐM khoeo.
3. Hẹp kèm theo vôi hóa nặng trên 3 cm chiều dài.
4. Hẹp hoặc tắc nhiều vị trí, mỗi vị trí dài dưới 3 cm.
5. Hẹp đơn độc hoặc nhiều vị trí, mất liên tục với ĐM chày.
C
6. Hẹp đơn độc hoặc tắc nghẽn dài trên 5 cm.
7. Hẹp hoặc tắc ở nhiều vị trí, mỗi vị trí dài từ 3 – 5 cm, có hoặc 
không kèm theo sự vôi hóa nặng nề.
D
8. Tắc hoàn toàn ĐM đùi chung, hoặc ĐM đùi nông, hoặc tắc 
hoàn toàn ĐM khoeo tới tận vị trí chia ra thân chày mác.
KỸ THUẬT CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH ĐÙI NÔNG 
Mở đường vào mạch máu 
Bước đầu tiên của can thiệp động mạch đùi 
nông là tạo đường vào mạch máu. Đường vào 
thường được lựa chọn là động mạch đùi chung, một 
số trường hợp có thể sử dụng động mạch cánh tay. 
Nếu can thiệp xuôi dòng thất bại, có thể mở đường 
vào động mạch khoeo, động mạch chày trước, hoặc 
động mạch mu chân để can thiệp ngược dòng. 
Tốt nhất là chọc mạch dưới hướng dẫn siêu âm 
Doppler. Sự hỗ trợ của siêu âm rất có giá trị khi 
động mạch đùi yếu hoặc mất do tổn thương mạch 
máu đoạn trên. Điểm chọc động mạch đùi chung 
nằm dưới dây chằng bẹn và phía trên chỗ chia đôi 
động mạch đùi nông, đùi sâu, tương ứng vị trí điểm 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 17
giữa chỏm xương đùi. Chỏm xương đùi cứng giúp 
việc ép cầm máu sau thủ thuật dễ dàng hơn. Sau khi 
mở mạch máu, cần chụp động mạch đùi để khẳng 
định vị trí chọc mạch nằm cao hơn chỗ chia đôi và 
nằm dưới chỗ xuất phát của động mạch thượng vị 
dưới. Chọc mạch phía ngoài khu vực này có thể gây 
tăng tỉ lệ biến chứng mạch máu, như thông động 
tĩnh mạch, giả phình động mạch đùi, chảy máu sau 
phúc mạc.
Có thể mở động mạch đùi cùng bên hoặc đối 
bên tổn thương. Ưu tiên lựa chọn mở động mạch 
đùi đối bên do nguy cơ tai biến khi chọc mạch thấp 
hơn, và có thể sử dụng đối với cả các trường hợp 
tắc hoàn toàn từ lỗ vào động mạch đùi nông. Mở 
động mạch đùi cùng bên khi cần can thiệp đoạn xa 
động mạch đùi nông và các mạch máu tầng dưới 
gối cùng lúc. 
Sheath sử dụng có kích cỡ từ 4 đến 7 French. 
Nên chọn sheath kích cỡ nhỏ nhất có thể. Sau mở 
mạch máu, dùng heparin liều 70-100 đơn vị/kg cân 
nặng, duy trì ACT 250-300 giây. 
Chụp động mạch đùi
Sau khi mở đường vào mạch máu, ống thông 
được đưa vào động mạch đùi chung bên tổn thương 
để chụp mạch. Tốt nhất là sử dụng kỹ thuật chụp 
mạch mã hoá xoá nền (DSA). Chế độ DSA cung 
cấp hình ảnh với độ phân giải cao hơn và xoá bỏ 
các phần không liên quan đến mạch máu (xương, 
phần mềm), giúp bộc lộ tổn thương tốt hơn. Phim 
chụp mạch phải đảm bảo đánh giá được lỗ vào 
động mạch đùi nông, mức độ hẹp, tắc mạch máu, 
cũng như tình trạng tưới máu của hệ mạch đoạn xa. 
Nếu tầng dưới gối chỉ còn duy nhất một mạch máu 
còn thông, cần sử dụng lưới lọc trước khi can thiệp 
động mạch đùi nông, do quá trình nong bóng có 
thể làm huyết khối hay mảng xơ vữa trôi xuống gây 
tắc mạch đoạn xa. Khi chụp mạch máu, có thể đặt 
một thước cản quang để ước tính chiều dài đoạn 
mạch tổn thương (hình 1).
Hình 1. Dùng thước đo đánh giá chiều dài tổn thương. 
A: Hẹp trên đoạn dài 3 mm, B: Tắc hoàn toàn trên 
đoạn dài 7 cm, C: Tắc hoàn toàn trên đoạn dài 16 cm
Đưa dây dẫn (guidewire) qua tổn thương 
Dây dẫn can thiệp động mạch đùi nông có thể 
dùng loại 0,018” hoặc 0,035”. Tốt nhất là dùng 
dây dẫn ngậm nước (hydrophilic). Có hai kỹ 
thuật chính để đưa dây dẫn qua tổn thương động 
mạch đùi nông là can thiệp trong lòng mạch và can 
thiệp dưới nội mạc. Ưu tiên sử dụng kỹ thuật lái 
guidewire trong lòng mạch trước. Guidewire được 
đẩy qua tổn thương tương tự khi can thiệp động 
mạch vành. Ưu điểm của nó là bảo tồn mạch máu 
và các nhánh bên, ít gây bóc tách thành mạch. Tuy 
nhiên, kỹ thuật này có thể gặp nhiều khó khăn nếu 
tổn thương tắc nghẽn lâu ngày, tổn thương vôi hoá, 
đồng thời tăng nguy cơ bong mảng xơ vữa và huyết 
khối gây tắc mạch đoạn xa. 
Biện pháp thay thế khi kỹ thuật trong lòng mạch 
thất bại là can thiệp dưới nội mạc. Chỉ dùng kỹ thuật 
can thiệp dưới nội mạc nếu như đoạn xa mạch máu 
còn lành lặn. Dây dẫn (thường là loại 0,035”) được 
uốn cong đầu sẽ đi vào lớp dưới nội mạc, qua tổn 
thương tắc nghẽn, rồi quay trở lại lòng thật ở đoạn 
lành (hình 2). Mặc dù can thiệp dưới nội mạc có 
thể giảm thời gian tiến hành thủ thuật, nó cũng có 
xu hướng gây bóc tách lan toả động mạch, hệ quả 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.201618
là phải đặt Stent kéo dài dù tổn thương ban đầu chỉ 
khư trú trên đoạn ngắn. Đôi khi trong các trường 
hợp mạch máu vôi hoá nhiều, dây dẫn đi ra lòng giả 
cũng rất khó để quay trở lại lòng thật.
Nói chung các tổn thương TASC D thường 
phải can thiệp dưới nội mạc. Chưa có nhiều nghiên 
cứu so sánh trực tiếp hiệu quả lâm sàng của hai kỹ 
thuật này.
Hình 2. Mô tả kỹ thuật can thiệp dưới nội mạc (A) và 
hình ảnh dưới màn huỳnh quang tăng sáng (B)
Nong bóng 
Sau khi đưa dây dẫn qua tổn thương, tiến hành 
nong bóng tạo hình động mạch đùi nông. Bóng nong 
là loại bóng áp lực cao (non-compliant balloon), áp 
lực bơm bóng có thể tăng lên rất cao mà kích cỡ 
bóng không nở ra quá nhiều. Nhờ đó có thể phục 
hồi diện tích lòng mạch đồng thời giảm nguy cơ gây 
tổn thương thành mạch máu. Lựa chọn độ lớn của 
bóng dựa vào kích cỡ lòng mạch tham chiếu đoạn 
xa, kích cỡ bóng thường bằng 80% kích cỡ mạch 
máu. Để tránh bóc tách mạch máu, không nên lựa 
chọn bóng quá lớn hay bơm bóng áp lực quá cao. 
Bơm bóng quá cao cũng có thể làm vỡ bóng, hậu 
quả là gây tắc mạch đoạn xa do khí hoặc các thành 
phần của bóng trôi xuống. Cần bơm bóng với thời 
gian đủ dài (tối thiểu 60 giây), đảm bảo bóng nở 
căng hoàn toàn. 
Hình 3. Nong bóng động mạch đùi nông tái thông 
lòng mạch
Nong bóng hay đặt Stent 
Vẫn còn nhiều tranh cãi nên nong bóng đơn 
thuần hay đặt Stent động mạch đùi nông. Ưu điểm 
của nong bóng là thủ thuật đơn giản và có chi phí 
thấp hơn. Nong bóng bảo vệ các nhánh bên và tuần 
hoàn bàng hệ trong khi vẫn đảm bảo tưới máu chi 
dưới. Nó cũng tránh việc phải đặt một dụng cụ 
ngoại lai trong lòng mạch máu, qua đó giảm nguy 
cơ hình thành huyết khối và tăng sản lớp nội mạc. 
Một ích lợi khác của nong bóng đơn thuần là tránh 
tình trạng gãy Stent ở vùng đùi. Ngoài ra, nong bóng 
động mạch đùi cho phép can thiệp với các dụng cụ 
kích cỡ nhỏ (4 Fr), đồng nghĩa với tỉ lệ biến chứng 
thấp hơn. Cuối cùng, sau nong bóng nếu tái hẹp vẫn 
có thể tiến hành phẫu thuật làm cầu nối hoặc can 
thiệp qua da, điều không dễ thực hiện nếu có Stent 
động mạch đùi. 
A
B
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 19
Đặt Stent động mạch đùi nông tránh được các 
biến chứng sớm (như hẹp mạch máu tồn dư, bóc 
tách mạch máu sau nong bóng). Tuy nhiên, động 
mạch đùi nông chịu rất nhiều lực tác động trong 
quá trình các cơ vùng đùi làm việc, như lực kéo giãn 
theo chiều dọc, lực ép, lực xoắn vặn, lực co rút, 
dẫn đến Stent dễ bị đứt gãy, nứt mắt. Hậu quả cuối 
cùng là tái hẹp sau can thiệp. Các Stent thế hệ mới, 
với thiết kế và vật liệu tốt hơn, đã giảm được một 
phần nguy cơ này. 
Nhiều thử nghiệm lâm sàng được tiến hành để so 
sánh hiệu quả của nong bóng đơn thuần với đặt Stent 
(loại Stent tự nở bằng Nitinol). Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, hai biện pháp có hiệu quả tương đương với 
các tổn thương ngắn, trong khi những tổn thương 
hẹp tắc kéo dài thì đặt Stent ưu việt hơn. 
Nghiên cứu FAST so sánh đặt Stent và nong 
bóng ở 244 bệnh nhân có đau cách hồi. Chiều dài 
tổn thương trung bình là 4,4 cm ở nhóm đặt Stent 
và 4,5 cm ở nhóm nong bóng. Tỉ lệ tử vong , tỉ lệ cắt 
cụt chi, thay đổi phân độ Rutherford, ở hai nhóm 
ngang bằng nhau. Tỉ lệ tái hẹp, định nghĩa là lòng 
mạch hẹp lại trên 50% và chỉ số huyết áp cổ chân-
cánh tay (ABI) giảm đi > 0,15 so với thời điểm 
ngay sau can thiệp, ở nhóm nong bóng có xu hướng 
cao hơn nhóm đặt Stent (38,6% so với 31,7%), tuy 
nhiên khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Ở cả hai 
nhóm đều có sự cải thiện về quãng đường đi bộ tối 
đa cũng như chỉ số ABI, và sự cải thiện này được 
duy trì bền vững sau 12 tháng 4. 
Một phân tích gộp của Kasapis và cộng sự, đánh 
giá 10 thử nghiệm lâm sàng, trong đó 724 trường 
hợp được đặt Stent thường quy (chiều dài tổn 
thương trung bình 4,6 cm) và 718 trường hợp được 
nong bóng, chỉ đặt Stent nếu có bóc tách mạch máu 
(chiều dài tổn thương trung bình 4,3 cm) cho thấy 
tỉ lệ cần phải tái can thiệp sau 24 tháng là tương 
đương nhau ở cả hai nhóm (20% ở nhóm đặt Stent 
thường quy, 20,2% ở nhóm nong bóng, p = 0,89) 5. 
Schillinger tiến hành so sánh nong bóng với đặt 
Stent ở 104 bệnh nhân có đau cách hồi nặng. Chiều 
dài tổn thương trung bình là 13,2 cm ở nhóm đặt 
Stent, so với 12,7 cm ở nhóm nong bóng. Sau 12 
tháng, tỉ lệ tái hẹp trên siêu âm Doppler ở nhóm 
nong bóng cao hơn đáng kể so với nhóm đặt Stent 
(63% so với 37%, p = 0,01). Tại thời điểm 12 tháng, 
quãng đường đi bộ tối đa ở nhóm nong bóng cũng 
ngắn hơn đáng kể (267 m, so với 387 m, p = 0,04) 6. 
Trong nghiên cứu RESILIENT, một thử nghiệm 
lâm sàng đa trung tâm tiến hành ở 206 bệnh nhân, 
chiều dài tổn thương trung bình là 7,7 cm ở nhóm 
đặt Stent và 6,4 cm ở nhóm nong bóng. Các biến cố 
lớn (tử vong, cắt cụt chi) không có sự khác biệt ở hai 
nhóm. Tuy nhiên, tỉ lệ thông mạch máu của nhóm 
đặt Stent cao hơn đáng kể, tại thời điểm sau 6 tháng 
(94,2% so với 47,4%, p < 0,0001) và sau 12 tháng 
(81,3% so với 36,7%) 7. 
Vai trò của bóng phủ thuốc và Stent phủ thuốc
Nghiên cứu PACIFIER so sánh bóng phủ paclitaxel 
IN.PACT Pacific với bóng thường ở các bệnh nhân 
tổn thương động mạch đùi nông chiều dài trung 
bình 6,6-7,0 cm. Kết quả theo dõi cho thấy sau 12 
tháng: bóng phủ thuốc có tỉ lệ tái hẹp thấp hơn 
(8,6% so với 32,4%, p = 0,01), cũng như tỉ lệ biện 
cố đích (tử vong, cắt cụt chi, tái can thiệp) thấp hơn 
(7,1% so với 27,9%, p = 0,02) 8.
Gần đây, thử nghiệm THUNDER chứng minh 
bóng phủ thuốc làm giảm đáng kể tỉ lệ phải tái can 
thiệp trong 5 năm khi so với bóng thường (21% so 
với 56%, p = 0,0005), đồng thời không làm tăng 
nguy cơ tổn thương thành mạch do thuốc (xơ hoá, 
phình mạch) 9. Bóng phủ thuốc cũng được chứng 
minh hiệu quả trong các trường hợp tái hẹp trong 
Stent 10. 
Thử nghiệm SIROCCO được tiến hành trên 
93 bệnh nhân tổn thương động mạch đùi TASC 
C. Trong đó 46 bệnh nhân được đặt Stent thường 
(Stent SMART) và 47 bệnh nhân được đặt Stent 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.201620
phủ sirolimus. Kết quả theo dõi sau 24 tháng cho 
thấy, nhóm đặt Stent phủ thuốc có ABI trung bình 
0,96 (so với 0,87 ở nhóm Stent thường, p > 0,05) 
và tỉ lệ tái hẹp 22,9% (so với 21,1% ở nhóm Stent 
thường, p > 0,05). Tỉ lệ tử vong và cần phải tái thông 
mạch máu ở hai nhóm cũng tương đương nhau. 
Thử nghiệm SIROCCO cho thấy trong thời gian 
24 tháng, Stent phủ thuốc sirolimus chưa chứng 
minh được ưu điểm khi so sánh với Stent thường 11. 
CHĂM SÓC SAU THỦ THUẬT 
Các thăm dò cần thiến hành sau thủ thuật bao 
gồm đo chỉ số huyết áp cổ chân - cánh tay (ABI) 
và làm siêu âm Doppler mạch máu. Bệnh nhân 
cần được dùng thuốc kháng tiểu cầu kép (aspirin 
và clopidogrel) tối thiểu 1 tháng sau can thiệp, 
sau đó dùng aspirin liều thấp (75-100 mg) suốt 
đời. Không có chỉ định dùng thuốc chống đông 
đường uống, ngoại trừ trường hợp bệnh nhân có 
rung nhĩ. Các biện pháp điều trị khác bao gồm 
liệu pháp statin và thay đổi lối sống (bỏ thuốc 
lá tuyệt đối, thay đổi chế độ ăn, tập đi bộ, giảm 
các yếu tố nguy cơ). Những biện pháp này không 
chỉ giúp giảm tỉ lệ tái hẹp sau can thiệp tái tưới 
máu, mà còn giảm nguy cơ tim mạch tổng thể cho 
người bệnh. 
KẾT LUẬN 
Can thiệp nội mạch là một biện pháp hiệu quả 
để điều trị các trường hợp tổn thương hẹp, tắc động 
mạch đùi nông, đặc biệt ở những bệnh nhân có đau 
cách hồi hoặc thiếu máu chi trầm trọng. Thủ thuật 
bao gồm các bước: mở đường vào mạch máu, chụp 
động mạch đánh giá chính xác tổn thương, đưa dây 
dẫn qua tổn thương, nong bóng tạo hình lòng mạch. 
Sau khi nong bóng, nếu có bóc tách mạch máu, 
hạn chế dòng chảy, hay vẫn còn hẹp đáng kể lòng 
mạch, cần phải đặt Stent. Y văn hiện tại cho thấy, 
với tổn thương ngắn, nong bóng đơn thuần có hiệu 
quả tương đương đặt Stent, trong khi với các tổn 
thương lan toả kéo dài, đặt Stent tự nở bằng nitinol 
ưu thế hơn. Bóng phủ thuốc paclitaxel giảm tỉ lệ tái 
hẹp và tái can thiệp mạch máu so với bóng thường, 
trong khi Stent phủ thuốc chưa chứng minh được 
ưu điểm so với Stent thường trong can thiệp động 
mạch đùi nông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dotter CT, Judkins MP. Transluminal treatment of arteriosclerotic obstruction. Description of a new 
technic and a preliminary report of its application. Circulation. 1964;30:654-670.
2. Rooke TW, Hirsch AT, Misra S, Sidawy AN, Beckman JA, Findeiss LK, Golzarian J, Gornik HL, 
Halperin JL, Jaff MR, Moneta GL, Olin JW, Stanley JC, White CJ, White JV, Zierler RE, American 
College of Cardiology F, American Heart A, Society for Cardiovascular A, Interventions, Society of 
Interventional R, Society for Vascular M, Society for Vascular S. 2011 accf/aha focused update of the 
guideline for the management of patients with peripheral artery disease (updating the 2005 guideline): 
A report of the american college of cardiology foundation/american heart association task force on 
practice guidelines: Developed in collaboration with the society for cardiovascular angiography and 
interventions, society of interventional radiology, society for vascular medicine, and society for vascular 
surgery. Catheterization and cardiovascular interventions : official journal of the Society for Cardiac 
Angiography & Interventions. 2012;79:501-531.
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 21
3. Norgren L, Hiatt WR, Dormandy JA, Nehler MR, Harris KA, Fowkes FG, Group TIW. Inter-society 
consensus for the management of peripheral arterial disease (tasc ii). Journal of vascular surgery. 2007;45 
Suppl S:S5-67.
4. Krankenberg H, Schluter M, Steinkamp HJ, Burgelin K, Scheinert D, Schulte KL, Minar E, 
Peeters P, Bosiers M, Tepe G, Reimers B, Mahler F, Tubler T, Zeller T. Nitinol Stent implantation 
versus percutaneous transluminal angioplasty in superficial femoral artery lesions up to 10 cm in length: 
The femoral artery Stenting trial (fast). Circulation. 2007;116:285-292.
5. Kasapis C, Gurm HS. Current approach to the diagnosis and treatment of femoral-popliteal arterial 
disease. A systematic review. Current cardiology reviews. 2009;5:296-311.
6. Schillinger M, Sabeti S, Loewe C, Dick P, Amighi J, Mlekusch W, Schlager O, Cejna M, Lammer 
J, Minar E. Balloon angioplasty versus implantation of nitinol Stents in the superficial femoral artery. The 
New England journal of medicine. 2006;354:1879-1888.
7. Laird JR, Katzen BT, Scheinert D, Lammer J, Carpenter J, Buchbinder M, Dave R, Ansel G, 
Lansky A, Cristea E, Collins TJ, Goldstein J, Jaff MR, Investigators R. Nitinol Stent implantation 
versus balloon angioplasty for lesions in the superficial femoral artery and proximal popliteal artery: 
Twelve-month results from the resilient randomized trial. Circulation. Cardiovascular interventions. 
2010;3:267-276.
8. Werk M, Albrecht T, Meyer DR, Ahmed MN, Behne A, Dietz U, Eschenbach G, Hartmann H, 
Lange C, Schnorr B, Stiepani H, Zoccai GB, Hanninen EL. Paclitaxel-coated balloons reduce restenosis 
after femoro-popliteal angioplasty: Evidence from the randomized pacifier trial. Circulation. Cardiovascular 
interventions. 2012;5:831-840.
9. Tepe G, Schnorr B, Albrecht T, Brechtel K, Claussen CD, Scheller B, Speck U, Zeller T. 
Angioplasty of femoral-popliteal arteries with drug-coated balloons: 5-year follow-up of the thunder trial. 
JACC. Cardiovascular interventions. 2015;8:102-108.
10. Virga V, Stabile E, Biamino G, Salemme L, Cioppa A, Giugliano G, Tesorio T, Cota L, Popusoi 
G, Pucciarelli A, Esposito G, Trimarco B, Rubino P. Drug-eluting balloons for the treatment of the 
superficial femoral artery in-Stent restenosis: 2-year follow-up. JACC. Cardiovascular interventions. 
2014;7:411-415.
11. Duda SH, Bosiers M, Lammer J, Scheinert D, Zeller T, Oliva V, Tielbeek A, Anderson J, 
Wiesinger B, Tepe G, Lansky A, Jaff MR, Mudde C, Tielemans H, Beregi JP. Drug-eluting and bare 
nitinol Stents for the treatment of atherosclerotic lesions in the superficial femoral artery: Long-term 
results from the sirocco trial. Journal of endovascular therapy : an official journal of the International 
Society of Endovascular Specialists. 2006;13:701-710.

File đính kèm:

  • pdfcan_thiep_dong_mach_dui_nong.pdf