Cần tháo gỡ vướng mắc về cơ chế trong hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ngày 15 tháng 10 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức hoạt động của năm 2013, Thủ tướng

Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

(gọi tắt là QĐ 58). Căn cứ Quyết định trên, Hội đồng

nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII, nhiệm kỳ

2011 - 2016, kỳ họp thứ 8 đã thống nhất thông qua

Đề án thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp

nhỏ và vừa thành phố tại Nghị quyết số 53/2013/

NQ-HĐND ngày 13.12.2013. Trên cơ sở đó, Chủ tịch

UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 9299/

QĐ-UBND ngày 31.12.2013 về việc thành lập Quỹ

Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa thành

phố Đà Nẵng (gọi tắt là Quỹ) và Quyết định số 1467/

QĐ-UBND ngày 07.3.2014 về việc ban hành Điều lệ tổ

chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh

nghiệp nhỏ và vừa thành phố Đà Nẵng.

pdf 4 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Cần tháo gỡ vướng mắc về cơ chế trong hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cần tháo gỡ vướng mắc về cơ chế trong hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cần tháo gỡ vướng mắc về cơ chế trong hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
12 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Ngày 15 tháng 10 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức hoạt động của 
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa 
(gọi tắt là QĐ 58). Căn cứ Quyết định trên, Hội đồng 
nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII, nhiệm kỳ 
2011 - 2016, kỳ họp thứ 8 đã thống nhất thông qua 
Đề án thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp 
nhỏ và vừa thành phố tại Nghị quyết số 53/2013/
NQ-HĐND ngày 13.12.2013. Trên cơ sở đó, Chủ tịch 
UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 9299/
QĐ-UBND ngày 31.12.2013 về việc thành lập Quỹ 
Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa thành 
phố Đà Nẵng (gọi tắt là Quỹ) và Quyết định số 1467/
QĐ-UBND ngày 07.3.2014 về việc ban hành Điều lệ tổ 
chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh 
nghiệp nhỏ và vừa thành phố Đà Nẵng.
Qua thực tế hoạt động, Quỹ đã gặp phải những 
vướng mắc phát sinh do cơ chế hoạt động theo Quyết 
định số 58/2013/QĐ-TTg; cần sự nghiên cứu, tháo gỡ 
từ phía Chính phủ và các bộ ngành Trung ương để 
Quỹ thực sự thực hiện được vai trò hỗ trợ phát triển 
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1. Vướng mắc do quy định về bảo đảm cho hoạt 
động bảo lãnh vay vốn
Điều 23, QĐ 58 quy định: “Bên được bảo lãnh phải 
sử dụng tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong 
tương lai thuộc quyền sở hữu của mình mà pháp luật 
không cấm giao dịch để thực hiện các biện pháp bảo 
đảm cho bảo lãnh vay vốn tại bên bảo lãnh theo quy 
định của pháp luật về giao dịch bảo đảm”. 
CẦN THÁO GỠ VƯỚNG MẮC VỀ CƠ CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỸ BẢO LÃNH TÍN DỤNG CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
? ĐoÀN NGọc VUI*
* Quỹ Đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng.
Như vậy, để được Quỹ cấp bảo lãnh tín dụng thì 
ngoài việc phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo 
lãnh, doanh nghiệp còn phải có tài sản bảo đảm tại 
Quỹ cho khoản bảo lãnh, thậm chí tài sản đó phải 
là của mình (tức là của bản thân doanh nghiệp) chứ 
không được của bên thứ 3.
Tuy nhiên, xét cả về mặt lý luận lẫn thực tế, nếu 
doanh nghiệp đã có tài sản đảm bảo thì sẽ thế chấp 
cho ngân hàng để vay trực tiếp chứ không cần Quỹ 
bảo lãnh để sang ngân hàng vay vốn, vừa mất thêm 
khoản phí bảo lãnh, vừa mất thời gian làm hồ sơ thủ 
tục, phí thẩm định giá. Do đó, doanh nghiệp không 
chấp nhận điều này nên Quỹ cũng không thể thực 
hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp. Đó là một thực tế, 
thậm chí nếu doanh nghiệp được ngân hàng xếp 
hạng tốt, phương án vay vốn được đánh giá là khả 
thi và hiệu quả thì ngân hàng vẫn có thể cho doanh 
nghiệp vay không có tài sản đảm bảo đối với phần 
tài sản còn thiếu mà không cần chứng thư bảo lãnh.
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
13Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
2. Vướng mắc trong thực hiện quy định bảo 
toàn vốn 
Điều 32, QĐ 58 quy định: “Vốn hoạt động của Quỹ 
phải được sử dụng đảm bảo an toàn vốn và tài sản”. 
Điều này được hiểu là Quỹ hoạt động phải bảo toàn 
và phát triển vốn hoạt động. Trong khi đó, hoạt động 
bảo lãnh tín dụng, hay nói cách khác là “lãnh nợ” - một 
hoạt động rất rủi ro; do đó mà QĐ 58 có quy định về 
việc doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo tại Quỹ để 
khi phát sinh rủi ro thì Quỹ xử lý tài sản đảm bảo để 
thu hồi nợ nhằm thực hiện bảo toàn vốn, tuy nhiên lại 
gặp phải vướng mắc như đã nêu trên. 
Để giải quyết vướng mắc này, theo tôi, cần phải 
có cơ chế về mức trích và tạo lập Quỹ dự phòng rủi 
ro đủ lớn để bù đắp khi rủi ro xảy ra mà không phải 
dùng đến vốn điều lệ nhằm tránh tình trạng không 
bảo toàn vốn; muốn vậy cần phải có nguồn để trích 
lập dự phòng; đối với Quỹ hiện nay đó chính là nguồn 
từ chênh lệch thu chi (chủ yếu từ lợi nhuận được chia 
phần vốn góp của Ngân sách Nhà nước) và Quỹ dự 
phòng này cần được dồn tích qua nhiều năm để tạo 
một nguồn đủ lớn để bù đắp rủi ro mà không cần 
phải dùng đến vốn điều lệ.
3. Vướng mắc trong việc Ngân hàng Nhà nước 
hướng dẫn các ngân hàng thương mại góp vốn 
điều lệ Quỹ bảo lãnh tín dụng
QĐ 58 quy định việc các ngân hàng thương mại 
tham gia góp vốn điều lệ Quỹ bảo lãnh và giao Ngân 
hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam hướng dẫn các tổ 
chức tín dụng (TCTD) trong việc góp vốn nhưng tại 
Thông tư số 05/2015/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam đã không hướng dẫn nội dung này mà 
lại bãi bỏ Thông tư 01/2006 về hướng dẫn các ngân 
hàng thương mại góp vốn; tức là không thực hiện 
QĐ 58 của Thủ tướng dẫn đến các tổ chức tín dụng 
không có cơ sở để góp vốn điều lệ Quỹ mặc dù có 
một số ngân hàng đã thống nhất góp vốn điều lệ cho 
Quỹ.
Tuy nhiên, việc quy định các ngân hàng thương 
mại tham gia góp vốn điều lệ Quỹ bảo lãnh theo QĐ 
58 lại trái với quy định tại Điều 103, 110, 115, 118 của 
Luật các TCTD năm 2010 khi chỉ cho phép các NHTM 
góp vốn vào doanh nghiệp, trong khi Quỹ Bảo lãnh 
tín dụng là một tổ chức tài chính hoạt động không vì 
mục tiêu lợi nhuận, nên cũng không được xem là một 
quỹ đầu tư. Ngoài ra, việc TCTD góp vốn để bảo lãnh 
cho khoản vay tại chính TCTD (dùng vốn của ngân 
hàng bảo lãnh cho chính ngân hàng) là không hợp lý 
nên NHNN Việt Nam không có Thông tư hướng dẫn 
theo như quy định tại QĐ 58.
4. các vướng mắc chính trong việc ký kết Thỏa 
thuận hợp tác giữa Quỹ với các ngân hàng thương 
mại theo Thông tư số 05/2015/TT-NHNN ngày 
04.5.2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (TT 05)
4.1. Về tài sản đảm bảo tại Quỹ bảo lãnh tín dụng
Theo Điều 23, QĐ 58 thì doanh nghiệp phải có 
tài sản đảm bảo (TSĐB) tại Quỹ. Theo Điều 7, TT 05 
của NHNN thì Quỹ trả nợ thay ngay khi ngân hàng 
yêu cầu, nếu không thì phải chuyển TSĐB tại Quỹ cho 
ngân hàng xử lý để thu hồi nợ. 
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, nếu doanh 
nghiệp đã có TSĐB thì thế chấp vay trực tiếp tại ngân 
hàng chứ không thế chấp cho Quỹ. Ngoài ra, trường 
hợp doanh nghiệp đưa tài sản thế chấp cho ngân 
hàng thì không phải thuê đơn vị thẩm định giá TSĐB 
mà do ngân hàng trực tiếp làm (sẽ được tính trừ vào 
những khoản khác), nhưng nếu thế chấp cho Quỹ thì 
doanh nghiệp phải thuê đơn vị thẩm định giá TSĐB, 
tốn thêm phí Chứng thư thẩm định giá. Do đó, cả Quỹ 
và ngân hàng đều thống nhất rằng đây là điều không 
thể ký được Thỏa thuận phối hợp theo TT 05.
4.2. Về việc chấp nhận Chứng thư bảo lãnh
Đến nay, hầu hết các ngân hàng không chấp nhận 
Chứng thư của Quỹ do theo QĐ 58 thì chứng thư của 
Quỹ là chứng thư có điều kiện, nhưng các ngân hàng 
chỉ chấp nhận chứng thư vô điều kiện và không hủy 
ngang.
Các TCTD đề nghị Chứng thư bảo lãnh của Quỹ 
là cam kết thanh toán vô điều kiện, Quỹ có trách 
nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay khi nhận 
được văn bản yêu cầu của ngân hàng, nhưng điều 
này là trái với QĐ 58; do đó Quỹ và ngân hàng không 
thể thực hiện được việc ký Thỏa thuận phối hợp.
4.3. Vướng mắc trong công tác phối hợp 
thẩm định
Do 2 bên thẩm định dựa trên 2 cơ sở khác nhau: 
Ngân hàng thẩm định dựa trên các báo cáo tài chính 
(BCTC) nội bộ, còn Quỹ thẩm định dựa trên BCTC 
quyết toán thuế hoặc đã được kiểm toán dẫn đến kết 
quả khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. 
Ngân hàng có thể bỏ qua những sai sót của doanh 
nghiệp trong hồ sơ pháp lý, BCTC, không yêu cầu 
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
14 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
doanh nghiệp phải chứng minh vốn tự có thực hiện 
phương án vay vốn, vốn điều lệ, nhưng quy định 
tại QĐ 58 thì đặt trọng yếu đối với những vấn đề này.
Phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư 
doanh nghiệp nộp cho ngân hàng xác định doanh 
thu, chi phí theo báo cáo nội bộ; trong khi phương 
án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư doanh nghiệp 
nộp cho Quỹ phải phù hợp với báo cáo tài chính được 
kiểm toán hoặc nộp cho cơ quan thuế. Điều này dẫn 
đến sự chênh lệch về số liệu giữa Quỹ và ngân hàng 
trong đánh giá hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn 
vay đúng hạn của phương án sản xuất kinh doanh/
dự án đầu tư.
Vướng mắc trong việc chứng minh 15% vốn chủ 
sở hữu tham gia dự án đầu tư, phương án sản xuất 
kinh doanh: với phương án sản xuất kinh doanh, ngân 
hàng và Quỹ chấp nhận doanh thu và chi phí khác 
nhau, vòng quay vốn lưu động khác nhau dẫn đến 
việc tính toán nhu cầu vốn cho phương án, xác định 
vốn tự có tham gia phương án cũng khác nhau. Trong 
khi Quỹ bắt buộc phải kiểm soát việc doanh nghiệp 
phải chứng minh có 15% vốn chủ sở hữu tham gia dự 
án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh thì ngân 
hàng vì có nhiều biện pháp kiểm tra, giám sát khác 
như quản lý dòng tiền nên không yêu cầu doanh 
nghiệp phải chứng minh các nguồn vốn tham gia 
phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư. Hiện 
nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa hướng dẫn cụ thể 
về việc chứng minh 15% vốn chủ sở hữu tham gia vào 
phương án này.
4.4. Vướng mắc về các thủ tục trước khi thực hiện 
nghĩa vụ trả nợ thay
a) Về thực hiện mọi biện pháp thu hồi nợ
Hiện nay, khi doanh nghiệp không trả nợ đúng 
hạn thì TCTD chỉ thực hiện thủ tục nhắc nợ mà không 
áp dụng mọi biện pháp thu hồi nợ (bao gồm cả 
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ) theo quy định 
tại Điều 28, QĐ 58; do đó, Quỹ không có cơ sở để trả 
nợ thay. 
Tuy nhiên, các TCTD lại cho rằng việc yêu cầu TCTD 
phải thực hiện tất cả các biện pháp thu hồi nợ trước 
khi đề nghị Quỹ trả nợ thay là trái với quy trình đòi nợ 
của ngân hàng. Do theo quy định, các TCTD không 
bắt buộc phải thực hiện tất cả các biện pháp thu hồi 
nợ vì việc xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn 
nợ là Quyền, không phải nghĩa vụ của ngân hàng và 
đã được quy định tại hợp đồng tín dụng với doanh 
nghiệp. Khi quá hạn, các khoản nợ tự động nhảy 
nhóm nợ. Do đó khi rủi ro xảy ra, TCTD yêu cầu Quỹ 
thực hiện ngay thủ tục trả nợ mà không thực hiện hết 
tất cả các biện pháp thu hồi nợ. 
b) Về trách nhiệm chứng minh TCTD đang cho vay 
đúng mục đích 
Trường hợp TCTD cho vay có TSĐB tại ngân hàng 
(không cần dựa trên Chứng thư bảo lãnh), trong quá 
trình cho vay nếu khách hàng sử dụng vốn không 
đúng mục đích (do cố ý, hoặc do yếu tố khách quan 
khác) làm cho quá trình kiểm tra sử dụng vốn của 
ngân hàng không hoàn toàn được chính xác, khi có 
rủi ro xảy ra, TCTD có quyền xử lý tài sản, tự ngân 
hàng có thể chủ động làm được. 
Tuy nhiên, nếu cho vay trên Chứng thư bảo lãnh 
của Quỹ mà ngân hàng không chứng minh được việc 
kịp thời phát hiện và không kiểm tra việc sử dụng vốn 
vay không đúng, không đầy đủ thì Quỹ từ chối trả nợ 
dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Đối với khoản cho vay theo hạn mức thì ngân 
hàng không tách bạch được phần nào giải ngân bằng 
Chứng thư Quỹ bảo lãnh, phần nào giải ngân bằng 
TSĐB của doanh nghiệp tại ngân hàng, do đó rất khó 
xác định việc sử dụng vốn vay đúng mục đích trên 
Chứng thư bảo lãnh của Quỹ. 
Ngoài ra, QĐ 58 yêu cầu TCTD gửi hồ sơ đầy đủ 
hợp lệ cho Quỹ; tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước chưa 
có hướng dẫn nêu rõ hồ sơ nào, như thế nào là hợp 
lệ, việc yêu cầu sử dụng đầy đủ các biện pháp thu hồi 
nợ cần quy định cụ thể vì mỗi ngân hàng có một quy 
trình, biện pháp thu hồi nợ khác nhau hoặc theo quy 
trình đòi nợ của ngân hàng.
4.5. Về thời hạn hiệu lực của bảo lãnh vay vốn
Tại Điều 30 QĐ 58 quy định chấm dứt nghĩa vụ bảo 
lãnh vay vốn trong đó có trường hợp thời hạn hiệu 
lực của bảo lãnh vay vốn đã hết. Tuy nhiên, không 
hướng dẫn cụ thể về cách xác định Thời hạn hiệu lực 
của bảo lãnh vay vốn. 
Trong khi đó, cũng theo QĐ 58: nếu doanh nghiệp 
không trả được nợ, theo quy định tại Điều 28 về thực 
hiện cam kết bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có 
trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp để thu hồi nợ 
(bao gồm cả điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ) 
trước khi đề nghị Quỹ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
15Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Như vậy, khi thực hiện các thủ tục này, ngân hàng 
mới đề nghị Quỹ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng 
khi đó hợp đồng bảo lãnh, chứng thư bảo lãnh đã hết 
hiệu lực vì đã hết thời hạn bảo lãnh, không thể đề 
nghị Quỹ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 
Theo quy định tại Điều 16 QĐ 58 thì thời hạn bảo 
lãnh tín dụng được xác định phù hợp với thời hạn 
vay vốn đã thỏa thuận giữa bên được bảo lãnh và tổ 
chức tín dụng. Tuy nhiên, thời hạn bảo lãnh của Quỹ 
chưa tính thời gian thực hiện các thủ tục để thực hiện 
nghĩa vụ bảo lãnh. 
Thực tế hiện nay tại các Quỹ bảo lãnh, thời hạn 
hiệu lực bảo lãnh là thời hạn bảo lãnh của Chứng 
thư bảo lãnh. Do đó đây là vướng mắc lớn trong việc 
thống nhất giữa Quỹ, doanh nghiệp và ngân hàng.
Theo tôi, đề nghị Ngân hàng Nhà nước có thể quy 
định: thời hạn hiệu lực của Chứng thư bảo lãnh = thời 
hạn bảo lãnh = thời hạn vay vốn của HĐTD + 3 tháng 
xử lý nợ.
Với những vướng mắc trên, Quỹ và các TCTD 
không ký kết được với nhau Thỏa thuận hợp tác theo 
Thông tư 05 của Ngân hàng Nhà nước. Một vấn đề 
nữa cần phải trao đổi thêm là: mặc dù có nhiều nội 
dung, quy định trong QĐ 58 cần phải có hướng dẫn 
chi tiết nhưng QĐ 58 không có quy định cụ thể nào 
yêu cầu NHNN hướng dẫn các quy trình một cách chi 
tiết, do đó NHNN không có cơ sở pháp lý để hướng 
dẫn sâu, kỹ hơn tại TT 05. 
Mặt khác, QĐ 58 quy định trách nhiệm của NHNN 
trong việc kiểm tra, giám sát quy trình bảo lãnh của 
Quỹ, nhưng NHNN Việt Nam lại gặp phải vướng mắc 
do đối với quản lý Nhà nước của Quỹ bảo lãnh thì 
Quỹ được thành lập để thực hiện mục tiêu phát triển 
kinh tế - xã hội ở địa phương và nguồn vốn của Quỹ 
là từ Ngân sách địa phương, cơ chế tổ chức hoạt động 
được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính vì 
vậy NHNN không thể thực hiện chức năng thanh tra 
hoạt động của Quỹ mà chỉ có trách nhiệm thanh tra, 
giám sát các TCTD có quan hệ phối hợp trong cho vay 
với Quỹ.
Về hiệu lực chế tài của TT 05 thì TT 05 ban hành 
trên cơ sở các TCTD và Quỹ thỏa thuận phối hợp với 
nhau những nội dung phù hợp quy định pháp luật, 
Bộ luật Dân sự và QĐ 58. Hơn nữa, theo Luật các TCTD 
quy định các TCTD có quyền tự chủ trong kinh doanh, 
có quyền từ chối việc cấp tín dụng cũng như cung 
cấp các dịch vụ của ngân hàng nếu thấy không có 
lợi hoặc trái với các quy định của pháp luật. Do đó 
nguyên tắc của TT 05 là do Quỹ và các TCTD tự thỏa 
thuận.
Kết luận
Ngay từ khi mới ban hành, QĐ 58 đã có nhiều 
vướng mắc, đặc biệt là tại Điều 23 (việc yêu cầu 
doanh nghiệp phải có tài sản bảo đảm tại Quỹ) và 
Điều 28 (điều kiện Quỹ trả nợ thay), nên các TCTD rất 
“ngại” trong việc cho vay có bảo lãnh cho các doanh 
nghiệp nhỏ và vừa, dẫn đến chưa đạt được mục tiêu 
hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp 
cận vốn vay tại các TCTD. 
Mặt khác, nếu bảo lãnh theo cơ chế không có 
TSĐB tại Quỹ Bảo lãnh tín dụng và Chứng thư bảo 
lãnh là vô điều kiện không hủy ngang thì cũng dẫn 
đến “bất cân xứng” giữa nghĩa vụ và quyền lợi của 
Quỹ, doanh nghiệp và TCTD. Vì như vậy sẽ đẩy toàn 
bộ rủi ro về phía Quỹ, trong khi TCTD thì có được 
thêm khách hàng, thu được lãi suất, doanh nghiệp 
thì được rút vốn hoạt động SXKD, nhưng Quỹ thì chỉ 
thu một khoản phí bảo lãnh rất nhỏ, mang tính tượng 
trưng, doanh thu không thể bù đắp được rủi ro dẫn 
đến mất vốn.
Từ thực tế hoạt động của Quỹ, toàn bộ các vướng 
mắc tại QĐ 58 đã được phản ánh trung thực nhất 
những khó khăn vướng mắc. Hi vọng rằng, trong thời 
gian đến các cơ quan Trung ương sẽ nghiên cứu sửa 
đổi, bổ sung cơ chế bảo lãnh tín dụng phù hợp với 
thực tế, hài hòa, chia sẻ giữa nghĩa vụ, rủi ro và quyền 
lợi của Quỹ, doanh nghiệp và TCTD để hoạt động bảo 
lãnh tín dụng đi vào trong thực tế, thực sự phát huy 
tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đ.N.V.

File đính kèm:

  • pdfcan_thao_go_vuong_mac_ve_co_che_trong_hoat_dong_cua_quy_bao.pdf