Căn nguyên virus và một số yếu tố liên quan trong viêm tiểu phế quản ở trẻ em

Viêm tiểu phế quản là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp dưới phổ biến ở trẻ dưới 2 tuổi, bệnh thường

gặp do căn nguyên virus. Tỷ lệ trẻ viêm tiểu phế quản phải nhập viện tăng nhanh trong những năm trở lại

đây, đặc biệt ở nhóm có yếu tố nguy cơ. Nghiên cứu mô tả, tiến cứu với mục tiêu xác định căn nguyên virus

và một số yếu tố liên quan dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán, phân loại mức độ nặng của viện Nhi Hoàng gia

Melbourrne năm 2017; xác định virus bằng kỹ thuật khuếch đại phân tử ADN in vitro (Realtime PCR) đối với

Adenovirus, Rhinovirus và test nhanh phát hiện kháng nguyên đối với RSV, cúm A, cúm B. Kết quả cho thấy

có 134 bệnh nhân viêm tiểu phế quản, trong đó bệnh nhân viêm tiểu phế quản nặng chiếm 17,2%; tỷ lệ trẻ

dưới 12 tháng chiếm 80,6%; tỷ lệ nam/nữ là 2,19/1; có 70,9% trường hợp xác định được căn nguyên virus:

RSV 47,8%, Rhinovirus 33,0%, Adenovirus 13,1%, cúm A 6,1%, cúm B 0%, tỷ lệ đồng nhiễm 2 loại virus là

14,7% và nhiễm RSV là yếu tố có liên quan viêm tiểu phế quản nặng và trung bình phải nhập viện điều trị.

pdf 7 trang phuongnguyen 500
Bạn đang xem tài liệu "Căn nguyên virus và một số yếu tố liên quan trong viêm tiểu phế quản ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Căn nguyên virus và một số yếu tố liên quan trong viêm tiểu phế quản ở trẻ em

Căn nguyên virus và một số yếu tố liên quan trong viêm tiểu phế quản ở trẻ em
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
99TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Yến, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 06/03/2020
Ngày được chấp nhận: 06/07/2020
 CĂN NGUYÊN VIRUS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
TRONG VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN Ở TRẺ EM
Nguyễn Thị Thu Thuỳ1, Nguyễn Thị Yến2, 
1Bệnh viện Nhi Trung ương,
2Trường Đại học Y Hà Nội, 
Viêm tiểu phế quản là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp dưới phổ biến ở trẻ dưới 2 tuổi, bệnh thường 
gặp do căn nguyên virus. Tỷ lệ trẻ viêm tiểu phế quản phải nhập viện tăng nhanh trong những năm trở lại 
đây, đặc biệt ở nhóm có yếu tố nguy cơ. Nghiên cứu mô tả, tiến cứu với mục tiêu xác định căn nguyên virus 
và một số yếu tố liên quan dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán, phân loại mức độ nặng của viện Nhi Hoàng gia 
Melbourrne năm 2017; xác định virus bằng kỹ thuật khuếch đại phân tử ADN in vitro (Realtime PCR) đối với 
Adenovirus, Rhinovirus và test nhanh phát hiện kháng nguyên đối với RSV, cúm A, cúm B. Kết quả cho thấy 
có 134 bệnh nhân viêm tiểu phế quản, trong đó bệnh nhân viêm tiểu phế quản nặng chiếm 17,2%; tỷ lệ trẻ 
dưới 12 tháng chiếm 80,6%; tỷ lệ nam/nữ là 2,19/1; có 70,9% trường hợp xác định được căn nguyên virus: 
RSV 47,8%, Rhinovirus 33,0%, Adenovirus 13,1%, cúm A 6,1%, cúm B 0%, tỷ lệ đồng nhiễm 2 loại virus là 
14,7% và nhiễm RSV là yếu tố có liên quan viêm tiểu phế quản nặng và trung bình phải nhập viện điều trị.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tiểu phế quản là bệnh nhiễm trùng 
đường hô hấp dưới phổ biến nhất ở trẻ em 
trong năm đầu đời. Viêm tiểu phế quản thường 
xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi với đỉnh điểm là trẻ 
từ 3 - 9 tháng tuổi. Tỉ lệ trẻ bị viêm tiểu phế 
quản phải nhập viện tăng nhanh trong thời 
gian gần đây, đặc biệt vào mùa đông xuân từ 
tháng 1 đến tháng 3 hàng năm ở các nước 
thuộc Bắc bán cầu và từ tháng 5 đến tháng 
9 ở các nước Nam bán cầu. Bệnh thường có 
liên quan đến các vụ dịch RSV. Theo tổ chức 
Y tế thế giới (WHO) ước tính có khoảng 150 
triệu trường hợp mắc mới hàng năm, 11 – 20 
triệu (7 – 13%) trong số các trường hợp này ở 
mức độ nặng yêu cầu nhập viện điều trị. Trên 
toàn thế giới, 95% trường hợp viêm tiểu phế 
quản xảy ra ở các nước đang phát triển và là 
nguyên nhân gây tử vong đáng kể ở trẻ nhỏ.¹ 
Tỷ lệ tử vong chung ước tính khoảng 1 - 7% 
và có thể lên đến 30 - 40% ở nhóm trẻ có nguy 
cơ cao như: tuổi mắc nhỏ, tiền sử sinh non, 
cân nặng khi sinh thấp, bệnh lý kèm theo (loạn 
sản phế quản phổi, tim bẩm sinh), tuổi mẹ trẻ, 
thiếu kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ, tiếp xúc 
khói thuốc lá, điều kiện kinh tế và tiếp cận dịch 
vụ y tế kém...2,3 Căn nguyên gây bệnh thường 
gặp là do virus, trong đó RSV là nguyên nhân 
chiếm khoảng trên 50% trường hợp; ngoài ra 
một số nguyên nhân khác cũng hay gặp là virus 
cúm, á cúm, adenovirus, rhinovirus và vi khuẩn 
không điển hình là Mycoplasma pneumoniae 
và Chlammydia pneumoniae.4 - 6 Trong hầu hết 
các trường hợp viêm tiểu phế quản là do một 
loại virus gây ra, tuy nhiên gần đây với sự phát 
triển kỹ thuật sinh học phân tử sự có mặt của 
hai hoặc nhiều hơn số virus đã được phát hiện. 
Việc đồng nhiễm virus trong viêm tiểu phế quản 
Từ khoá: Viêm tiểu phế quản, virus hợp bào hô hấp (RSV)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
100 TCNCYH 131 (7) - 2020
cũng được một số tác giả cho là có liên quan 
đến mức độ nặng của bệnh.⁷ Thêm vào đó sự 
thay đổi khí hậu trong những năm trở lại đây 
đã và đang ảnh hưởng không nhỏ tới mô hình 
bệnh tật ở trẻ em nói chung và viêm tiểu phế 
quản nói riêng mà đặc biệt là sự thay đổi tỷ lệ 
mắc các loại virus là nguyên nhân gây viêm tiểu 
phế quản. Liệu RSV có còn là nguyên nhân phổ 
biến nhất gây viêm tiểu phế quản, đơn nhiễm 
hay việc đồng nhiễm virus có liên quan thế nào 
đến mức đô nặng của bệnh là câu hỏi được đặt 
ra trên thực tế lâm sàng nhằm dự đoán tốt hơn 
diễn biến của bệnh giúp nâng cao hiệu quả điều 
trị. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này với mục tiêu mô tả căn nguyên 
virus và một số yếu tố liên quan trong viêm tiểu 
phế quản ở trẻ em.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 134 bệnh nhi được chẩn đoán viêm 
tiểu phế quản, nhập viện điều trị tại khoa Điều 
trị tự nguyện B bệnh viện Nhi Trung ương từ 
tháng 05/2019 đến tháng 02/2020.
Tiêu chuẩn chẩn đoán
* Chẩn đoán viêm tiểu phế quản theo hướng 
dẫn của Viện Nhi hoàng gia Melbourne 2017.8
Chẩn đoán chủ yếu dựa trên bệnh sử và 
khám lâm sàng: Trẻ dưới 2 tuổi, khởi phát với 
triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp trên cấp tính, 
sau đó có thể tiến triển đến suy hô hấp và sốt 
kèm theo một trong các triệu chứng: ho, khó 
thở, rút lõm lồng ngực, phổi có ral rít.
* Chẩn đoán mức độ nặng của viêm tiểu 
phế quản theo hướng dẫn Viện Nhi hoàng gia 
Melbourne 2017:8
 - Viêm tiểu phế quản mức độ nặng:
 + Trẻ li bì/kích thích vật vã
 + Thở rất nhanh hoặc thở chậm
 + Rút lõm hõm ức, co kéo cơ liên sườn, 
phập phồng cánh mũi mức độ nặng
 + SpO2 < 90%
 + Có thể có cơn ngừng thở dài
 + Không thể ăn hoặc bú.
 - Viêm tiểu phế quản mức độ trung bình:
 + Kích thích từng lúc
 + Thở nhanh
 + Rút lõm hõm ức, co kéo cơ liên sườn, 
.phập phồng cánh mũi mức độ vừa
 + SpO2 90 – 92%
 + Có thể có cơn ngừng thở ngắn
 + Ăn bú kém hơn.
 - viêm tiểu phế quản mức độ nhẹ: không có 
các dấu hiệu trong 2 độ trên.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
 - Trẻ khò khè do các nguyên nhân khác: 
hen phế quản, dị vật đường thở, viêm thanh 
quản cấp, khò khè tái phát....
 - Trẻ mắc các bệnh bẩm sinh, dị dạng 
đường thở, bệnh loạn sản phổi do đẻ non...
2. Phương pháp
 - Phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
 - Virus RSV, cúm A/B được xác định bằng 
phương pháp test nhanh tìm kháng nguyên, 
Adenovirus, Rhinovirus xác định bằng kỹ thuật 
khuếch đại phân tử ADN in vitro (Realtime 
PCR). Bệnh phẩm được lấy là dịch tỵ hầu. Xét 
nghiệm được thực hiện tại khoa xét nghiệm vi 
sinh và sinh học phân tử Bệnh viện Nhi Trung 
ương.
3. Xử lý số liệu 
Phần mềm SPSS 20.0
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu không gây hại cho người bệnh, 
gia đình bệnh nhân tình nguyện tham gia nghiên 
cứu. Các thông tin nghiên cứu hoàn toàn được 
bảo mật. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
101TCNCYH 131 (7) - 2020
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu 134 bệnh nhân viêm tiểu phế quản, trẻ nam có 92 và nữ 42, tỷ lệ nam/nữ là 2,19/1. 
Tuổi trung bình là 7,7 ± 4,8 tháng, trung vị tuổi là 6,5 tháng. Nhóm tuổi hay gặp nhất là dưới 12 tháng 
có 108/134 trẻ chiếm 80,6%. 
2. Kết quả nghiên cứu một số căn nguyên virus trong bệnh viêm tiểu phế quản
Biểu đồ 1. Tỷ lệ xét nghiệm virus dương tính ở bệnh nhân viêm tiểu phế quản
Trong số bệnh nhân viêm tiểu phế quản có 70,9% trường hợp xác định được nguyên nhân virus.
Biểu đồ 2. Tỷ lệ các loại virus ở bệnh nhân viêm tiểu phế quản
Tính riêng theo từng loại virus, tỷ lệ nhiễm RSV là cao nhất chiếm 47,8%. Có 14 bệnh nhân 
dương tính từ 2 loại virus chiếm 14,7% trong đó tình trạng đồng nhiễm RSV và Rhinovirus chiếm tỷ 
lệ cao nhất là 11/14 chiếm 78,6%, có 4 bệnh nhân dương tính 3 loại virus.
3. Kết quả nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm tiểu phế quản
Bảng 1. Một số yếu tố liên quan đến mức độ nặng của VTPQ
Yếu tố liên quan
Nhẹ
n (%)
Trung bình và nặng
n (%)
p
Tương quan đa 
biến
R2 p
Tuổi
< 6 tháng 24 (44,4) 30 (55,6)
0,115
0,076
0,0836 - 12 tháng 28 (51,9) 26 (48,1)
12 - 24 tháng 18 (69,2) 8 (30,8)
RSV
(+) 23 (41,8) 32 (58,2)
0,044 0,069
( - ) 47 (59,5) 32 (40,5)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
102 TCNCYH 131 (7) - 2020
Yếu tố liên quan
Nhẹ
n (%)
Trung bình và nặng
n (%)
p
Tương quan đa 
biến
R2 p
Rhinovirus
(+) 21 (55,3) 17 (44,7)
0,659
0,076
0,310
( - ) 49 (51,0) 47 (49,0)
Adenovirus
(+) 8 (53,3) 7 (46,7)
0,928 0,227
( - ) 62 (52,1) 57 (47,9)
Nhiễm virus
≥ 2 loại 8 (57,1) 6 (42,9)
0,534 0,228
1 loại 39 (48,1) 42 (51,9)
Phơi nhiễm 
khói thuốc
(+) 27 (45,8) 32 (54,2)
0,183 0,263
( - ) 43 (57,3) 32 (42,7)
Tỷ lệ mắc viêm tiểu phế quản mức độ trung 
bình và nặng chiếm tỷ lệ cao ở nhóm tuổi nhỏ 
đặc biệt lứa tuổi dưới 6 tháng, sự khác biệt 
chưa có ý nghĩa thống kê với p < 0,05
Tỷ lệ trẻ bị viêm tiểu phế quản trung bình và 
nặng trong nhóm bệnh nhân nhiễm RSV cao 
hơn nhóm không nhiễm RSV, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05
Sự khác biệt giữa nhóm viêm tiểu phế 
quản trung bình và nặng có nhiễm Rhinovirus, 
Adenovirus và không nhiễm Rhinovirus, 
Adenovirus là không có ý nghĩa thống kế với 
p > 0,05.
Tỷ lệ viêm tiểu phế quản mức độ trung bình 
và nặng trong nhóm đồng nhiễm từ 2 loại virus 
và nhóm nhiễm 1 loại virus khác biệt không có 
ý nghĩa thông kê với p > 0,05.
Khả năng mắc viêm tiểu phế quản nặng và 
trung bình ở nhóm trẻ có phơi nhiễm với khói 
thuốc cao hơn so với nhóm không phơi nhiễm 
với khói thuốc tuy nhiên sự khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Phân tích hồi quy đa biến cho kết quả: 6 yếu 
tố trên dự đoán được khoảng 7,6% khả năng 
mắc viêm tiểu phế quản trung bình và nặng. 
Phân tích đơn biến chỉ ra RSV có mối liên quan 
với tình trạng viêm tiểu phế quản nặng và trung 
bình tuy nhiên phân tích đa biến cho thấy không 
yếu tố nào là yếu tố độc lập dự đoán mức độ 
nặng của viêm tiểu phế quản. 
IV. BÀN LUẬN
Viêm tiểu phế quản là bệnh thường gặp ở 
trẻ em nhất là ở trẻ dưới 2 tuổi. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi tuổi mắc bệnh trung bình 
là 7,7 ± 4,8 tháng, trung vị tuổi là 6,5 tháng, 
độ tuổi dưới 12 tháng chiếm phần lớn với tỷ lệ 
80,6%. Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ, 2,19/1.
Theo nghiên cứu của Phạm Thị Minh Hồng trên 
1117 trường hợp viêm tiểu phế quản từ tháng 
3/2001 - 3/2002 tỷ lệ trẻ viêm tiểu phế quản ở 
trẻ dưới 12 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất 90%, tỷ 
lệ theo giới nam/nữ 1,88/1.1 Nguyên nhân do 
trẻ dưới 12 tháng hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, 
khi phát triển các kỹ năng vận động trong năm 
đầu đời cũng làm tăng nguy cơ nhiễm virus khi 
trẻ mút tay, tập bò, tập đi...Trong nghiên cứu 
của chúng tôi tỷ lệ nam/nữ là 2,19 có cao hơn 
so với các nghiên cứu khác, điều này có thể 
được lý giải là do tỷ lệ chênh lệch giới lúc sinh 
trong những năm gần đây ngày càng nới rộng 
giữa nam và nữ do đó cũng ảnh hưởng phần 
nào đến tỷ lệ mắc giữa nam và nữ trong bệnh 
viêm tiểu phế quản.
Khi nghiên cứu 134 bệnh nhân viêm tiểu phế 
quản, chúng tôi xác định được 95 trường hợp 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
103TCNCYH 131 (7) - 2020
có dương tính với ít nhất 1 loại virus trong 5 loại 
được làm xét nghiệm chiếm tỷ lệ 70,9%. Trong 
số những virus đã được xác định, RSV chiếm 
tỷ lệ cao nhất là 47,8% sau đó là Rhinovirus với 
33,0%, tiếp theo là Adenovirus và Cúm A với tỷ 
lệ lần lượt là 13,1% và 6,1 %. Tỷ lệ đồng nhiễm 
từ 2 loại virus trở lên là 14,7%, trong đó phổ 
biến nhất là tình trạng đồng nhiễm của RSV và 
Rhinovirus. Tác giả Myreya khi nghiên cứu hồi 
cứu trên 134 trẻ bị viêm tiểu phế quản từ tháng 
9/2012 – 1/2015 đã xác định được tổng cộng 
153 virus, trong đó RSV được phát hiện thường 
xuyên nhất chiếm 41,2%, tiếp đến là Rhinovirus 
16,3%, đồng nhiễm 2 loại virus được tìm thấy 
trong 14,2% trường hợp, phổ biến nhất là 
đồng nhiễm RSV với á cúm hoặc Rhinovirus5. 
Nghiên cứu của Phạm Thị Minh Hồng về tỷ lệ 
nhiễm RSV trong các nhiễm khuẩn đường hô 
hấp dưới thì tỷ lệ nhiễm RSV trong bệnh viêm 
tiểu phế quản cao nhất chiếm 44,7%. RSV là 
căn nguyên duy nhất ở 49% trường hợp viêm 
tiểu phế quản trong nghiên cứu của tác giả 
Miron Dan. Điều này một lần nữa khẳng định 
RSV là căn nguyên chính gây bệnh viêm tiểu 
phế quản.2,5
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc viêm 
tiểu phế quản nặng và trung bình ở lứa tuổi dưới 
6 tháng và dưới 12 tháng chiếm tỷ lệ khá cao. 
Điều này cho thấy rằng ở lứa tuổi càng nhỏ trẻ 
càng dễ mắc viêm tiểu phế quản và khi bị bệnh 
cũng thường nặng hơn so với trẻ lớn. Nguyên 
nhân là do ở lứa tuổi này hệ miễn dịch chưa 
hoàn thiện, khả năng bảo vệ trước các tác nhân 
gây bệnh còn kém, đặc điểm cấu tạo hệ hô hấp 
với đường kính phế quản nhỏ hơn ở trẻ lớn 
là điều kiện thuận lợi làm bệnh dễ nặng hơn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân 
viêm tiểu phế quản nhẹ chiếm tỷ lệ cao nhất là 
52,2%, bệnh nhân viêm tiểu phế quản mức độ 
trung bình chiếm 30,6% và mức độ nặng chiếm 
17,2%. Điều này được giải thích là do số liệu 
được lấy tại khoa Điều trị tự nguyện do vậy đa 
phần bệnh nhân thuộc nhóm nhẹ và vừa, nhóm 
bệnh nhân nặng chiếm tỷ lệ thấp hơn so với 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tiến Dũng năm 
2016 và Lê Thị Thu Trang năm 2011.9,10 Nhiễm 
RSV là một yếu tố liên quan với mức độ nặng 
của bệnh. Tỷ lệ bệnh nhân nặng và trung bình 
trong nhóm có nhiễm RSV cao hơn một cách có 
ý nghĩa so với nhóm không nhiễm RSV. Kết quả 
phân tích mối liên quan giữa nhiễm RSV và khả 
năng mắc viêm tiểu phế quản nặng và trung 
bình cũng cho thấy điều đó. Điều này có thể 
giải thích được dựa trên cơ chế sinh bệnh học 
của RSV khi bám lên tế bào biểu mô đường 
hô hấp chúng thường gây phá huỷ tế bào, làm 
bong tế bào biểu mô kết hợp với tình trạng tăng 
xuất tiết chất nhày làm bít tắc các tiểu phế quản 
vốn đã nhỏ ở trẻ gây ra tình trạng suy hô hấp. 
Thêm vào đó RSV là căn nguyên chiếm tỷ lệ 
cao nhất gây viêm tiểu phế quản nên cũng là 
yếu tố thường gặp nhất trong viêm tiểu phế 
quản nặng. Một nghiên cứu về các yếu tố nguy 
cơ nhập viện của nhóm viêm tiểu phế quản 
nhiễm RSV và không nhiễm RSV trên 4800 trẻ 
viêm tiểu phế quản từ năm 2002 – 2007, tác giả 
García cũng thấy rằng RSV và sinh non là yếu 
tố tiên lượng độc lập cho cả 4 dấu hiệu của viêm 
tiểu phế quản nặng là nhu cầu thở oxy, điều trị 
tại khoa điều trị tích cực, phải đặt nội khí quản 
và thời gian nằm viện kéo dài.11 Nguy cơ viêm 
tiểu phế quản nặng và trung bình ở trẻ nhiễm 
và không nhiễm Rhinovirus trong nghiên cứu 
của chúng tôi khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê. Rhinovirus là nguyên nhân thứ hai sau RSV 
gây viêm tiểu phế quản, tuy nhiên các trường 
hợp bệnh nặng đa phần liên quan đến RSV còn 
Rhinovirus chủ yếu gây tình trạng khò khè ở 
giai đoạn sau mà ít khi gây viêm tiểu phế quản 
nặng. Tương tự vậy với Adenovirus chúng tôi 
cũng không tìm thấy mối tương quan với mức 
độ nặng của bệnh. Nghiên cứu của hai tác giả 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
104 TCNCYH 131 (7) - 2020
Kohei và Tórtora cũng cho thấy không có mối 
liên quan giữa nhiễm Rhinovirus và Adenovirus 
với mức độ nặng của viêm tiểu phế quản.12,13 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có 
sự khác biệt tỷ lệ viêm tiểu phế quản mức độ 
trung bình và nặng trong nhóm đồng nhiễm từ 
2 loại virus và nhóm đơn nhiễm 1 loại virus. 
Qua nghiên cứu của mình tác giả Gokce cũng 
đồng ý rằng tình trạng đồng nhiễm virut không 
làm tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh.⁴ Khói 
thuốc được xem là yếu tố nguy cơ của các 
bệnh đường hô hấp nặng ở trẻ em, phơi nhiễm 
với khói thuốc được tác giả Mireya cho là yếu 
tố độc lập liên quan đến tình trạng viêm tiểu phế 
quản nặng.5 Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ 
lệ viêm tiểu phế quản nặng và trung bình ở hai 
nhóm có phơi nhiễm với khói thuốc và không 
phơi nhiễm với khói thuốc là khác biệt chưa có 
ý nghĩa thống kê có thể do cỡ mẫu chưa đủ lớn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, việc xác 
định từng loại virus phải sử dụng các xét 
nghiệm riêng lẻ cho từng loại virus. Kỹ thuật xét 
nghiệm test nhanh chẩn đoán cúm A/B, RSV 
có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương với kỹ 
thuật khuếch đại phân tử ADN (PCR) với giá 
thành thấp hơn nhiều lần trong khi Rhinovirus 
và Adenovirus chỉ có thể xét nghiệm bằng kỹ 
thuật PCR. Việc tăng chi phí xét nghiệm là hạn 
chế trong việc xác định nhiều hơn các virus 
khác nhau trong nghiên cứu của chúng tôi.
V. KẾT LUẬN
RSV là căn nguyên virus thường gặp nhất 
trong bệnh viêm tiểu phế quản, sau đó là 
Rhinovirus. Nhiễm RSV yếu tố có liên quan 
viêm tiểu phế quản nặng và trung bình khiến trẻ 
phải nhập viện điều trị.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu xin trân trọng cảm ơn các 
bệnh nhân và phòng ban liên quan đã giúp đỡ, 
hợp tác trong quá trình nghiên cứu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rudan I, Tomaskovic L, Boschi - Pinto 
C, Campbell H, Group WHOCHER. Global 
estimate of the incidence of clinical pneumonia 
among children under five years of age. Bull 
World Health Organ. 2004;82(12):895 - 903. 
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/15654403.
2. Phạm Thị Minh Hồng. Tình hình nhiễm 
virus hợp bào hô hấp tại bệnh viện Nhi đồng 2 
năm 2001 – 2002. Tạp chí nghiên cứu y học - 
Y học thành phố Hồ Chí Minh. 2005;9(1):129 
- 133.
3. Bria M. C, Lauren E. C, Denise M. 
G. Wheezing, bronchiolitis and bronchitis. 
In: Nelson Textbook of Pediatrics. 20th 
ed. Philadelphia: W B Saunders company; 
2016:2045 - 2049.
4. Gokce S, Kurugol Z, Cerit Z et al. 
The effect of respiratory syncytial virus on the 
severity of acute bronchiolitis in hospitalized 
infants: A prospective study from Turkey. Iran 
J Pediatr. 2018;28(2):e61034. doi:10.5812/
ijp.61034
5. Mireya Robledo - Aceves, María de 
Jesús Moreno - Peregrina et al. Risk factors 
for severe bronchiolitis caused by respiratory 
virus infections among Mexican children in an 
emergency department. Medicine (Baltimore). 
2018;97(9):e0057 - e0057. doi:10.1097/
MD.0000000000010057
6. Piedimonte, Giovanni Perez, Miriam 
K. Respiratory syncytial virus infection and 
bronchiolitis. Pediatr Rev. 2014;35(12):519 - 
530. doi:10.1542/pir.35 - 12 - 519
7. Ochoa Sangrador C, González de Dios 
J. Consensus conference on acute bronchiolitis 
(VI): prognosis of acute bronchiolitis. Review of 
scientific evidence. An Pediatr. 2010;72(5):354.
e1 - 354.e34.
8. Royal Children’s Hospital Melbourne. 
Bronchiolitis. Clin Pract Guidel. 2017. http://
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
105TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
VIRAL ETIOLOGY AND SOME RELATED FACTORS 
OF BRONCHIOLITIS IN CHILDREN 
Bronchiolitis is a common lower respiratory infection in children under 2 years old, caused by a 
viral etiology. The proportion of children with bronchiolitis requiring hospitalization has been increasing 
rapidly in recent years, especially in the groups with risk factors. A descriptive and prospective 
research with the aim of identifying the viral etiology and a number of related factors based on the 
diagnostic criteria, severe classification of the Royal Children's Hospital of Melbourne, 2017; virus is 
determined by in vitro molecular amplification technique (Realtime PCR) for Adenovirus, Rhinovirus 
and rapid test for detection of antigens for RSV, influenza A, and influenza B . Results showed 
that there were 134 patients with bronchiolitis, of which patients with severe bronchitis accounted 
for 17.2%; the rate of children under 12 months old accounts for 80.6%; The male / female ratio 
is 2.19 / 1; Virus were identified in 70.9% of cases: RSV 47.8%, Rhinovirus 33.0%, Adenovirus 
13.1%, influenza A 6.1%, influenza B 0%, co-infection rates of 2 types of virus was 14.7% and 
RSV infection was a factor associated with severe and moderate bronchitis requiring hospitalization.
Keywords: Bronchiolitis; Respiratory syncytial virus (RSV)
www.rch.org.au/clinicalguide/guideline_index/
Bronchiolitis/.
9. Nguyễn Tiến Dũng, Đinh Thị Phương 
Mai. Một số yếu tố nguy cơ liên quan đến mức 
độ nặng trong viêm tiểu phế quản ở trẻ em. Tạp 
chí Y học Việt Nam. 2016;445(2):120 - 124.
10. Lê Thị Thu Trang, Lê Hồng Hanh, 
Phùng Đăng Việt. Nghiên cứu vai trò của virus 
trong bệnh viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em 
tại bệnh viện Nhi trung ương năm 2011. Tạp chí 
lao và bệnh phổi, 5+6,. 2011:72 - 75.
11. García CG, Bhore R, Soriano - Fallas 
A, et al. Risk factors in children hospitalized 
with RSV bronchiolitis versus non - RSV 
bronchiolitis. Pediatrics. 2010;126(6):e1453 - 
e1460. doi:10.1542/peds.2010 - 0507
12. Kohei Hasegawa, Tuomas Jartti, Yury 
A. Bochkov et al. Infectious pathogens and 
bronchiolitis outcomes. Expert Rev Anti Infect 
Ther. 2014;12(7):817 - 828. doi:10.1586/14787
210.2014.906901
13. Tórtora RP, Guimarães MA, Sant’ 
Anna CC. Adenovirus infection in children with 
bronchiolitis or recurrent wheezing. Atlas of 
Science. https://atlasofscience.org/adenovirus 
- infection - in - children - with - bronchiolitis - or 
- recurrent - wheezing/. Published 2016.

File đính kèm:

  • pdfcan_nguyen_virus_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_trong_viem_tieu.pdf