Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Tóm tắt
Hiện nay, ASEAN được đánh giá là một khu vực năng động với tiến trình hội nhập kinh tế sâu
rộng. Từng quốc gia đang tích cực triển khai cụ thể các thỏa thuận nhằm hướng đến hình thành
AEC vào cuối năm 2015. Dịch vụ chính là một nội dung trọng tâm và các nước thành viên tập trung
nỗ lực đổi mới trong thời gian qua. Trong phạm vi bài viết này1, tác giả sẽ phân tích những cam kết
cụ thể trong một số lĩnh vực dịch vụ điển hình gắn với những cơ hội nghề nghiệp cho lao động có tay
nghề tại ASEAN, từ đó gợi mở một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sắp tới
Bạn đang xem tài liệu "Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 65Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015) 1. Một số cam kết liên quan đến tự do hóa trong ngành dịch vụ và di chuyển lao động có tay nghề tại ASEAN Hiện nay, các thành viên ASEAN đang đẩy nhanh những nỗ lực trong tiến trình hội nhập kinh tế sâu rộng tại khu vực. Trong hơn 10 năm gần đây, tự do hóa lĩnh vực dịch vụ là một xu hướng nổi bật và chính phủ các quốc gia này đang tích cực triển khai theo từng cấp bậc cụ thể 2. Tóm tắt Hiện nay, ASEAN được đánh giá là một khu vực năng động với tiến trình hội nhập kinh tế sâu rộng. Từng quốc gia đang tích cực triển khai cụ thể các thỏa thuận nhằm hướng đến hình thành AEC vào cuối năm 2015. Dịch vụ chính là một nội dung trọng tâm và các nước thành viên tập trung nỗ lực đổi mới trong thời gian qua. Trong phạm vi bài viết này1, tác giả sẽ phân tích những cam kết cụ thể trong một số lĩnh vực dịch vụ điển hình gắn với những cơ hội nghề nghiệp cho lao động có tay nghề tại ASEAN, từ đó gợi mở một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sắp tới. Từ khóa: AEC, lao động có trình độ cao, lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam, tự do hóa. Mã số: 193.161015. Ngày nhận bài: 16/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 30/10/2015. Ngày duyệt đăng: 30/10/2015. Summary Nowadays, Association of the South East Asian Nations (ASEAN) is really considering as the dynamic region in the process of the deaper economic intergration. Each member in this region is actively carrying out the specific commitments towards ASEAN Economic Community (AEC) by the end of 2015. Service sector is actually the key issue, and all the members have planned to focus in for a long time. In this paper, the author analyses the specific commitments in some significant service sectors related to the job opportunities for the skilled labor in ASEAN, and emphasizes some implications for Vietnam’s economy related to policies, standardising and trainning skilled labor next period. Key words: AEC, liberalization, service sector, skilled labor, Vietnam. Paper No. 193.161015. Date of receipt: 16/10/2015. Date of revision:30/10/2015. Date of approval: 30/10/2015 . CAM KẾT TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ VÀ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG HƯỚNG ĐẾN CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆT NAM Trần Thị Ngọc Quyên* * TS, Trường Đại học Ngoại thương,, Email: quyenvinh78@yahoo.com 1 Tác giả thực hiện bài viết này trong khuôn khổ đề tài “Hài hòa hóa khung chính sách đầu tư hướng tới phát triển bền vững tại ASEAN và gợi ý chính sách cho Việt Nam” (2015-2016), mã số B2015-08-21 được Bộ Giáo dục – Đào tạo tài trợ do TS. Trần Thị Ngọc Quyên là chủ nhiệm. 2 Trong 20 năm qua, ASEAN đã có nhiều Hiệp định liên quan đến phát triển dịch vụ và các nội dung đều hướng tới thuận lợi hóa lĩnh vực này. Cụ thể, Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) 2009; Hiệp định khung về thương mại dịch vụ (AFAS) năm 1995 hướng tới dịch vụ di chuyển tự do; Hiệp định đầu tư toàn diên (ACIA) năm 2009 hướng đến vốn di chuyển và đầu tư tự do và Hiệp định di chuyển thể nhân (MNP) năm 2012 hướng đến tự do di chuyển đối với các nhà đầu tư và các lao động có tay nghề. Các cam kết hướng đến AEC sẽ tập trung vào 4 trụ cột, đó là một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, một khu vực kinh tế cạnh tranh, phát triển kinh tế công bằng và hội nhập kinh tế toàn cầu. (ASEAN Secretariat) KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 66 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015) 1.1. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tại ASEAN Với cam kết tự do hóa một số lĩnh vực theo Hiệp định khung về thương mại dịch vụ trong ASEAN (AFAS), cho thấy các quốc gia đã đánh giá vai trò quan trọng của lĩnh vực dịch vụ và thể hiện bằng những nỗ lực thực tế. Cùng với đó, AEC được thành lập nhằm mục đích tạo dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, thúc đẩy luân chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề tại ASEAN. Đồng thời, các nước thành viên nhất trí đề ra Cơ chế thực hiện và Lộ trình chiến lược thực hiện Kế hoạch tổng thể ASEAN và xác định 12 lĩnh vực ưu tiên đẩy nhanh liên kết với lộ trình hoàn thành đến năm 2010, đó là hàng nông sản, ôtô; điện tử; nghề cá; các sản phẩm từ cao su; dệt may; các sản phẩm từ gỗ; vận tải hàng không; thương mại điện tử ASEAN; chăm sóc sức khỏe; du lịch và logistics. Hướng đến AEC vào đầu 2016, các cam kết tự do hóa về dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực như dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, vận tải biển, viễn thông và du lịch. Đây cũng là cơ sở để mỗi nước cụ thể hóa chính sách phát triển trong từng lĩnh vực. 1.2. Cam kết liên quan đến di chuyển tự do lao động có kỹ năng Thực tế, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã có hướng dẫn cụ thể về quy định chung liên quan đến lao động có trình độ, trong đó có 3 nhóm cơ bản3. Di chuyển lao động có tay nghề được hiểu là những lao động có hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực nghề nghiệp của họ và có khả năng di chuyển làm việc ở một địa điểm khác tại ASEAN (Wolfgang Form, 2014). Điều đó có nghĩa là khi thực hiện cam kết di chuyển lao động có trình độ tay nghề giữa các thành viên ASEAN, thì chính phủ các quốc gia này cần đảm bảo những quy định pháp lý nhằm thuận lợi hóa liên quan đến nhiều nội dung như thủ tục về visa, chứng nhận nghề nghiệp, tuyển dụng, đảm bảo quyền lợi lao động của các đối tượng này khi làm việc tại các nước thành viên. Về di chuyển lao động và cạnh tranh tại AEC sẽ có cam kết công nhận chứng chỉ đối với lao động cấp cao giữa các nước thành viên, đặc biệt là trong 8 lĩnh vực: kế toán, kiến trúc sư, nha khoa, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, giao nhận và du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó nhân lực phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên. Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực cao đòi hỏi lao động cần có chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt tiếng Anh. Đối với trình độ chuyên môn, lao động cần phải có chứng chỉ nghề, hoặc bằng cấp được công nhận trong phạm giữa các quốc gia này. Vì vậy, lao động có trình độ cao hơn tại các doanh nghiệp nội địa của từng nước ASEAN sẽ có cơ hội để di chuyển sang các thành viên khác để làm việc và ngược lại. Mức lương sẽ cao hơn và kỹ năng cũng như thái độ nghề nghiệp cũng được cải thiện. Nói cách khác, cùng với những những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ, nhu cầu người tiêu dùng trong khu vực gia tăng, chênh lệch về thu nhập lớn, trình độ nguồn nhân lực giữa các quốc gia ASEAN sẽ là nguyên nhân quan trọng di chuyển giữa các nước thành viên. Thực tế, do có những quy định tự do hóa đối với di chuyển lao động có kỹ năng trong 3 Một là, nhóm lao động có chuyên môn nghề nghiệp, công nghệ và các vị trí liên quan. Hai là, nhóm lao động có chuyên môn quản trị và quản lý. Ba là, nhóm chuyên môn văn phòng và các công việc liên quan (ILO). KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 67Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015) phạm vi ASEAN, cho nên, các doanh nghiệp nội địa tại các nước này có nhiều cơ hội để thu hút các chuyên gia, ví dụ như trong lĩnh vực quản trị kinh doanh tại các siêu thị, lao động có trình độ cao trong quản trị bán lẻ, quản trị cao cấp. Điều đó sẽ hạn chế điểm yếu về thiếu nguồn nhân lực tại nhóm nước kém phát triển hơn. Khu vực này đã có những quy định rõ ràng liên quan đến cơ chế và chương trình cụ thể cho quá trình hội nhập. Từng nước thành viên đều đang dần mở cửa, hoặc nới lỏng các rào cản đối với các nhà đầu tư ASEAN. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động, từng thành viên ASEAN vẫn triển khai các chính sách cụ thể quốc gia để đảm bảo an ninh, cũng như phúc lợi xã hội. Bởi vì, các nước chỉ tạo thuận lợi cho các lao động có trình độ cao tự do di chuyển giữa các thành viên, còn vẫn có những rào cản hay quy định chặt chẽ đối với di chuyển lao động giản đơn hay trình độ thấp giữa các nước trong khu vực.4 2. Thực tiễn triển khai quy định liên quan đến lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động có kỹ năng tại ASEAN thời gian qua Về lao động, Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng với nguồn lao động trẻ và dồi dào. Mặc dù, trong tương quan toàn cầu, giáo dục tiểu học và y tế Việt Nam có xếp hạng khá cao, đứng thứ 61, xếp thứ 3 trong các nước ASEAN, cao hơn Thái Lan (66), Inđônêxia (74), Lào (90) chỉ thấp hơn Singapore và Malayxia. Tuy nhiên, tại ASEAN, lao động Việt Nam được đánh giá là thấp so với các nước thành viên. Chất lượng của nguồn lực này thấp đi cùng với kém đa dạng của các kỹ năng, khả năng sáng tạo, cũng như hiệu quả tổ chức. Lực lượng lao động lại chưa quen với tác phong công nghiệp, lao động có kỹ năng, có tay nghề đạt tỷ lệ thấp, không có điều kiện tiếp cận công nghệ mới. Do đó, chất lượng lao động không cao, năng suất lao động bình quân của người Việt Nam so với các nước tiên tiến tại ASEAN là thấp hơn nhiều. So với các thành viên ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 Malayxia và 2/5 Thái Lan (ILO 2014). Thực tế, nếu như thời gian trước đây, lao động Việt Nam thường có xu hướng quan tâm và làm việc ở nước ngoài tập trung tại một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì trong 5 năm gần đây, tỷ lệ lao động Việt Nam làm việc tại các nước ASEAN gia tăng nhanh chóng. Ở cấp doanh nghiệp, tại ASEAN, nhiều công ty đã nỗ lực hội nhập sâu rộng trong khu vực liên quan đến nguồn nhân lực. Ngôn ngữ chủ yếu mà lao động trong các doanh nghiệp tại các nước này sử dụng là tiếng Anh.Ví dụ, tại Philippin, hầu hết doanh nghiệp nội địa đều biết và ít nhiều đã có sự chuẩn bị cho AEC. Chính phủ cũng ngồi lại với các doanh nghiệp dẫn đầu các ngành để thực hiện 24 bản kế hoạch phát triển dài hạn nhằm xác định các khoảng trống trong quản trị, nhân lực và chất lượng sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh. Tại Thái Lan, lao động nước ngoài cũng phải tuân thủ yêu cầu cụ thể về ngoại 4 Ví dụ, để ứng phó với tình hình lao động Việt Nam và Lào sang Thái Lan dưới danh nghĩa khách du lịch, từ tháng 8/2014, chính phủ nước này đã đưa ra những quy định bắt buộc lao động di cư từ Việt Nam nếu không chứng minh được mục đích du lịch thì phải xin thị thực nhập cảnh. Có thể thấy, đây là một phản ứng về chính sách mang tính đón đầu của Thái Lan nhằm giảm thiểu dòng lao động di chuyển từ Việt Nam và Lào sang Thái Lan khi AEC thành lập. Chính sách quản lý chặt chẽ di chuyển lao động này cũng được chính phủ Singapore triển khai chặt chẽ, đặc biệt đối với lao động của Việt Nam, Thái Lan khi nhập cư vào quốc gia này trong hai năm gần đây.. KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 68 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015) ngữ. Ví dụ, muốn hành nghề bác sĩ, thì ngoài có bằng cấp chuyên môn, lao động cũng được yêu cầu cần thông thạo tiếng Thái.5 Chính phủ Campuchia đã có những động thái tích cực để hướng đến AEC, cụ thể như tập trung chính sách thương mại mở cửa để thu hút đầu tư, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Còn chính phủ Lào cải thiện các quy chế, phát triển nguồn nhân lực cùng hệ thống quản lý tài chính, nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng sản xuất hàng hóa. Còn tại Việt Nam, các doanh nghiệp nội địa chưa thực sự chủ động trong quá trình hội nhập AEC và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp hơn so với các doanh nghiệp tại ASEAN.6 Hiện nay, ở cấp chính phủ, các nước thuộc nhóm ASEAN 6 tương đối chủ động trong quy định và chính sách liên quan phát triển nguồn nhân lực. Singapore là nước phát triển nhất trong khu vực với nguồn nhất lực chất lượng cao nhất tại ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, quốc gia này chủ động trong thực hiện cam kết liên quan đến di chuyển lao động chất lượng cao đến các nước thành viên. Philippin là nước cũng có lợi thế trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh. Cũng giống như Singapore, người dân nước này cũng thành thạo Anh ngữ. Còn Thái Lan lại là nước chủ động trong chính sách, cụ thể quy định liên quan đến ngoại ngữ. Ví dụ, nhân viên chính phủ của Thái Lan được yêu cầu là cần thông thạo một thứ tiếng trong được các nước thành viên ASEAN sử dụng.7 Chính phủ nước này yêu cầu cán bộ các cơ quan công quyền phải học hai thứ tiếng là tiếng Anh và một thứ tiếng trong ASEAN. Có thể việc học ngoại ngữ trong vài tháng không làm các cán bộ nhà nước sử dụng thành thạo ngôn ngữ đó ngay, nhưng đây là cơ hội giúp họ hiểu hơn về văn hóa, tập quán của các nước thành viên thông qua khả năng giao tiếp của người lao động. Đồng thời, họ còn yêu cầu lao động ASEAN đến làm việc tại nước ngày phải biết tiếng Thái và hiểu biết luật pháp trong nước. Còn nhóm các nước kém phát triển hơn gồm 4 nước CLMV8 lại có những hạn chế nhất định, cụ thể là vẫn chưa có khung nghề chuẩn quốc gia. Cụ thể, Việt Nam gặp rất nhiều cản trở liên quan đến quy định trong lĩnh vực này, như bằng cấp thuộc loại phức tạp trên thế giới, không được các nước trong khu vực công nhận trừ Lào và Campuchia.9 Về ngoại ngữ, lao động Việt Nam phải cạnh tranh với người dân tại Mianma, Phillippin và cả Campuchia về tiếng Anh. Ở Campuchia, do 5 Kia Thiasak- huấn luyện viên trưởng đội tuyển Thái Lan có thể trả lời báo giới bằng tiếng Việt và hàng ngày vẫn đọc báo bằng tiếng Việt. 6 Tỷ lệ các doanh nghiệp chưa biết về các tác động của AEC liên quan đến di chuyển lao động và di chuyển vốn trong ASEAN còn khá cao, khoảng từ 32% đến 34%.Bên cạnh đó, sự quan tâm của các doanh nghiệp nội địa với AEC còn thấp và doanh nghiệp chưa biết nhiều đến AEC. (Nguyễn Hồng Sơn, 2014). 7 Kiatisuk- huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan có thể trả lời báo giới bằng tiếng Việt và hàng ngày vẫn đọc báo tiếng Việt. 8 CLMV bao gồm 4 nước Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam 9 Hiện nay, tại một số nước phát triển như Singapore có nhiều lao động Việt Nam hiện đang làm việc chính thức trong các doanh nghiệp nước này, tuy nhiên hầu hết đều là những lao động đã được đào tạo cử nhân hoặc thạc sỹ và do chính phủ nước này cấp bằng, ví dụ kiến trúc sư, công nghệ thông tin,Còn ngay cả công việc giản đơn như giúp việc nhà, thì lao động tại Philippin hoặc Inđônêxia cũng có lợi thế hơn lao động Việt Nam, mặc dù chi phí phải chi trả cho người giúp việc cao hơn, do lao động của những nước này thành thạo tiếng Anh và ý thức nghề nghiệp tốt hơn. Hay đối với vị trí nhân viên bảo vệ thì lao động Malayxia thường được các công ty Singapore tuyển dụng do vị trí địa lý gần với nước này, tiếng Anh tốt hơn, ý thức nghề nghiệp. KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 69Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015) đặc thù về địa lý và lịch sử hai nước, tiếng Việt vẫn được dùng khá phổ biến ở nước này. Còn tại Việt Nam, tiếng Anh chưa được coi là ngôn ngữ chính thức thứ 2 trong hệ thống giáo dục. Chính phủ, cụ thể là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có ch ... cuộc cạnh tranh dành cơ hội nghề nghiệp. Tại Việt Nam, kế toán là lĩnh vực đang phát triển 22 Đối với gia nhập WTO, liên quan đến dịch vụ logistics, Việt Nam đã cam kết mở cửa các phân ngành như dịch vụ xếp dỡ container; dịch vụ thông quan; dịch vụ kho bãi; dịch vụ đại lý cận tải hàng hóa; các dịch vụ thực hiện thay mặt cho chủ hàng (bao gồm các hoạt động kiểm tra vận đơn; dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa; giám định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; giám định hàng hóa; dịch vụ nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải). Theo các cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết cho doanh nghiệp nước ngoài được thành lập liên doanh, với tỷ lệ góp vốn 49-51% trong các dịch vụ vận tải, giao nhận, kho bãi,v.v Từ ngày 7/01/2014, tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này đã tăng lên 100%. Chính quy định pháp lý đã tác động đến phát triển thị trường dịch vụ logistics. 23 Bằng do FIATA cấp có giá trị quốc tế, với chí phí là 2.500 USD với 12 Modules về Giao nhận kho vận, Logis- tics, Vận tải hàng hải, vận tải hàng không, Vận tải đường bộ, Vận tải đường sắt, Vận tải thủy nội địa, vận tải đa phương thức, Bảo hiểm vận tải, An toàn, an ninh và hàng hóa nguy hiểm, Công nghệ thông tin và truyền thông trong giao nhận và Hải quan, với các giảng viên giảng dạy song ngữ Anh – Việt. 24 Đó là dự án “Learning Network for Trade Logistics development: Finland - Southeast Asia”, với sự tham gia của các trường đại học đến từ 4 nước là Phần Lan, Thái Lan, Malayxia và Việt Nam. Tại Việt Nam, bộ môn Vận tải và Bảo hiểm thuộc Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường đại học Ngoại thương (FTU) đã và đang tham gia tích cực vào các hoạt động chuyên sâu của dự án trong giai đoạn 2011 – 2015 như trao đổi giáo viên, sinh viên, nghiên cứu sinh của FTU và các trường đại học tại 3 quốc gia nói trên. Trong khuôn khổ của dự án, còn có các khóa học chung nhằm tăng cường mạng lưới trao đổi chuyên sâu trong lĩnh vực logistics và tạo thuận lợi thương mại, nhằm giúp nâng cao kiến thức và năng lực nghiên cứu chuyên môn trong lĩnh vực này. 25 Thỏa thuận được ký kết giữa các thành viên tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 14 tại Phetchaburi, Thái Lan ngày 26/2/2009. KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 73Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015) nhanh chóng, đặc biệt là về kỹ năng chuyên môn. Vị trí của nghề kế toán Việt Nam ngày càng được đề cao khi MRA trong lĩnh vực kế toán đã được ký kết giữa 10 nước ASEAN.25 Như vậy, các chứng chỉ của các nhà cung cấp dịch vụ kế toán do các cơ quan chức năng tương ứng tại Việt Nam sẽ được các thành viên tại ASEAN khác thừa nhận và ngược lại. Những người có chứng chỉ hành nghề kế toán đạt tiêu chuẩn ASEAN và tiêu chuẩn quốc tế có thể dễ dàng làm việc tại các nước trong khu vực. Đồng thời, thị trường dịch vụ kế toán Việt Nam sẽ ngày càng cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các kế toán viên phải nâng cao tính chuyên nghiệp như đạo đức nghề nghiệp nếu không sẽ bị các đồng nghiệp trong khu vực và quốc tế thay thế. Thiếu trang bị về kiến thức, kỹ năng mềm về quản trị, khả năng làm việc, giao tiếp trong môi trường đa văn hóa, kiến thức tin học, chuẩn mực kế toán,26 Hơn nữa, so với Việt Nam, kế toán viên của các nước cùng khu vực như Singapore, Malayxia, Philippin,sử dụng ngoại ngữ tốt hơn nhiều. Yêu cầu này đặt ra những thách thức không nhỏ cho các trường đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao, tương đồng với ASEAN. Trong bối cảnh đó, những chuyển động của một số trường đại học tại Việt Nam cùng với Hiệp hội kế toán công chứng Anh quốc (ACCA) nhằm xây dựng chương trình cử nhân chất lượng cao hướng đến trang bị những kiến thức, kỹ năng theo chuẩn quốc tế cho sinh viên Việt Nam được coi là nỗ lực đáng ghi nhận.27 Như vậy, trên cơ sở đó, các trường đại học sẽ xây dựng chương trình đào tạo tài chính kế toán chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đối với những chuyên gia tài chính – kế toán có bằng cấp chuyên nghiệp đang ngày càng gia tăng tại ASEAN. 4. Một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong quá trình hội nhập AEC thời gian tới Để chuẩn bị tốt hơn cho quá trình thực hiện MRAs trong khuôn khổ AEC, cũng như đẩy mạnh tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ theo hướng hội nhập khu vực, Việt Nam cần triển khai đồng bộ và cụ thể các chính sách liên quan đến tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động lành nghề trong ASEAN bắt đầu 01/01/2016. Một là, chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần cụ thể hóa chương trình hành động của Việt Nam phù hợp với cam kết của ASEAN và thực tiễn tại Việt Nam. Cụ thể, một số lĩnh vực dịch vụ cần tập trung và được đầu tư có trọng điểm như giáo dục, y tế, du lịch, logistics, kế toán,Thực tế cần hài hòa về quy định trong nước và khu vực liên quan để tạo thuận lợi hơn đối với hoạt động di chuyển lao động có tay nghề của Việt Nam sang các thành viên và ngược lại. Hai là, chính phủ cần hoàn thiện các quy định, tiêu chuẩn để công nhận “lao động lành nghề ASEAN” trong các lĩnh vực mà đã ký liên quan đến MRAs và phổ biến rộng rãi 26 Trong khung chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán (Bộ Giáo dục và Đào tạo) ban hành chủ yếu nhấn mạnh đến phần giáo dục đại cương, yêu càu chuyên ngành còn rất thấp so với IFAC (Liên đoàn Kế toán thế giới), thời lượng học kế toán chủ yếu là lý thuyết, sinh viên ít có cơ hội thực hành. 27 Ngày 11/9/2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại sứ quán Việt Nam và Hội đồng Anh tổ chức diễn đàn Việt Nam - Anh Quốc với chủ đề “Cơ hội kết nối tiến đến quan hệ đối tác giáo dục bền vững”. Các trường đã kết nối tìm kiếm các cơ hội hợp tác để phát triển, mang đến cho sinh viên những cơ hội học tập và nhận bằng cử nhân quốc tế với mức chi phí hợp lý. Điểm nhấn là việc ký kết thỏa thuận của ACCA với 3 trường là Đại học Ngoại thương, Học viện Tài chính và Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng. KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 74 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015) cho các cơ quan liên quan, đến người lao động, đặc biệt là sinh viên và lao động trẻ. Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Lao động, Thương binh và xã hội cần có sự thống nhất trong chuẩn mực nghề nghiệp, quá trình đào tạo, quy trình công nhận lao động có kỹ năng của Việt Nam và cấp thẻ nghề nghiệp. Bên cạnh đó, chính phủ cần có đầu tư trọng điểm phát triển các chương trình đào tạo chuẩn mực cho lao động kỹ năng Việt Nam theo tiêu chuẩn chung tại ASEAN. Đặc biệt, các cơ quan này cần phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến đến các lĩnh vực nghề nghiệp có trình độ tay nghề mà lao động Việt Nam đang có ưu thế để lựa chọn. Theo tác giả, tại một số trường đại học có nguồn đầu vào tốt, đã và đang cung cấp nguồn lao động có trình độ cao tại Việt Nam, mà có những chuyên ngành phù hợp với những ưu tiên của các nước thành viên, thì cần được sự hỗ trợ từ Chính phủ, Bộ Giáo dục đào tạo và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cũng như một số ngành liên quan để triển khai các dự án hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Ba là, các cơ sở đào tạo có những chuyên ngành phù hợp với nhóm lĩnh vực có lao động chất lượng cao cần được đầu tư có trọng điểm và tạo điều kiện chủ động hơn trong quá trình đào tạo, đặc biệt là trong các lĩnh vực ưu tiên của ASEAN thông qua đẩy mạnh hợp tác, trao đổi với các trường đại học trong khu vực. Các trường cần chủ động đổi mới về chương trình, nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và các hoạt động khác theo chuẩn mực khu vực.28 Ví dụ, các trường đại học tại Việt Nam đang tăng cường tham gia vào mạng lưới các trường đại học khu vực (AUN) là một nỗ lực cụ thể. Đồng thời, đối với một ngành, lĩnh vực được ưu tiên trong cam kết giữa các quốc gia tại ASEAN cần được đẩy mạnh tập trung, cụ thể là các trường cấp 3, trường dạy nghề kỹ thuật, thực hành đặc biệt là trong ngành dệt may, xây dựng, vận tải (ADB, ILO, 2014). Bên cạnh đó là các trường đại học đang đào tạo các chuyên ngành liên quan đến nhóm lao động có tay nghề theo cam kết trong khu vực cần có chuyển hướng mạnh mẽ trong đào tạo. Bốn là, các cơ sở đào tạo tại Việt Nam cần chủ động thu thập, nắm bắt các quy định cụ thể thống nhất giữa các quốc gia trong công nhận lẫn nhau về trình độ lao động chất lượng cao để có thể triển khai cụ thể các chương trình đào tạo, tư vấn hướng nghiệp cho sinh viên. Điều quan trọng là các trường cần chủ động tìm kiếm các cơ hội hợp tác với các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế để tạo nhiều cơ hội cho sinh viên khi ra trường có được bằng cấp công nhận tại khu vực hoặc toàn cầu. Hơn nữa, các cơ sở này cần cung cấp thông tin cho sinh viên nhằm hỗ trợ các em trong quá trình chuẩn bị trình độ chuyên môn, kỹ năng 28 Phần lớn các trường đại học trong nước không nằm trong top các trường được xếp hạng trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, các ứng cử viên có bằng cấp Việt Nam không thể xét tuyển/tuyển dụng làm việc tại Singapore, Malayxia. Bên cạnh đó, ngoại ngữ cũng là rào cản đối với lao động khi hội nhập khu vực. Ví dụ thực tế tại EU, người dân đều có thể biết hoặc sử dụng 2 hoặc 3 ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và do đó họ có cơ hội làm việc trong các công ty đa quốc gia hoặc những địa điểm gần đường biên giới với các nước trong liên minh này. Trong khi đó, thực tế, lao động tại Việt Nam chỉ có thể sử dụng tiếng Việt. Các ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Trung, chỉ có những nhân viên làm trong các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp khác có giao dịch với đối tác nước ngoài, hoặc các công chức, viên chức trong các bộ có chuyên môn liên quan. KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 75Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015) nghề nghiệp, kết nối các cơ hội thực tập nghề nghiệp,Hiện nay, các trường đại học Việt Nam chủ yếu đang triển khai hợp tác đào tạo với nhiều nước phát triển như EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, tuy nhiên, nhóm các thành viên ASEAN chưa được thực sự chú trọng. Thời gian tới, các trường nên thành lập một trung tâm tư vấn, hỗ trợ hoặc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên, hoặc mở trung tâm đào tạo ngoại ngữ với kỹ năng cơ bản để giúp sinh viên có thể giao tiếp và làm việc trong môi trường hội nhập khu vực ASEAN, như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Malayxia, tiếng Thái Lan,...Bên cạnh đó, trung tâm này còn có thể trở thành đầu mối giới thiệu, quảng bá thông tin về kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước ASEAN để sinh viên có thể được trang bị những hiểu biết cơ bản của các nước này, cũng như được trang bị các kỹ năng mềm trong hoạt động tại môi trường đa văn hóa. Hơn nữa, có thể tư vấn cho sinh viên những nhóm ngành nghề phù hợp với các tiêu chuẩn nghề nghiệp thống nhất tại ASEAN. Đồng thời, đây có thể trở thành địa điểm kết nối giữa các bộ ngành, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tuyển dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài tại các nước thành viên ASEAN trong quá trình thực tập, làm thêm, và khi tốt nghiệp.29 Năm là, lao động Việt Nam cần chủ động trong nhận thức đúng đắn về cơ hội nghề nghiệp, từ đó có khả năng tìm việc làm tốt hơn, nâng cao trình độ chuyên môn. Điều đó có nghĩa là ngoài việc học tốt chương trình đào tạo tại Việt Nam, người lao động Việt Nam cần lựa chọn chương trình phù hợp để bổ sung các bằng cấp quốc tế được công nhận rộng rãi ở ASEAN và trên toàn cầu. Cụ thể, các em có thể tham gia các khóa học ngắn hạn để có các chứng chỉ nghề, hoặc tham gia học nâng cao chuyên môn sâu tại một số cơ sở đào tạo tại nhóm các nước phát triển hơn tại ASEAN. Bên cạnh đó, lao động Việt Nam cũng cần sẵn sàng tâm lý đi làm việc xa nhà với phát triển cơ hội nghề nghiệp Hiện nay, định hướng nghề nghiệp cho sinh viên đã được các trường ngày càng quan tâm, nhưng chủ yếu là làm việc tại các doanh nghiệp ở Việt Nam. Để có thể nắm bắt cơ hội nghề nghiệp tại ASEAN, chính mỗi lao động cần chủ động chuẩn bị tốt các yêu cầu để đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng chuyên nghiệp. Kết luận Có thể thấy rằng, tại ASEAN, thuận lợi hóa lĩnh vực dịch vụ và cụ thể là tự do di chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao đã được coi trọng và nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của từng quốc gia, cũng như trong hội nhập kinh tế khu vực. Từ đó, đòi hỏi mỗi quốc gia sẽ phải xây dựng chương trình tổng thể nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến nguồn nhân lực, đặc biệt trong một số lĩnh vực ưu tiên. Cơ hội phát triển của từng quốc gia, từng ngành dịch vụ, cũng như đối với lao động từng nước chỉ trở thành hiện thực khi từng chủ thể chủ động với các kế hoạch. Đối với Việt Nam, trước mắt còn rất nhiều việc cần phải làm nhằm nhằm hướng tới hài hòa hóa các quy định liên quan đến tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và di chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành dịch vụ này trong ASEAN. Một trong những hướng tập trung chính là 29 Thái Lan thúc đẩy các phong trào tìm hiểu về các nước thành viên ASEAN trong cộng đồng dân cư và nhất là học sinh, sinh viên. Các em học sinh ở các vùng đều được dạy thêm về các nước thành viên ASEAN. Nhà trường treo cờ ASEAN và học sinh tiểu học được đọc nhận biết lá cờ các nước ASEAN. KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 76 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015) phát triển tập trung một số ngành nhằm cung cấp lao động có chất lượng cao trong một số lĩnh vực dịch vụ và đáp ứng nhu cầu lao động có chất lượng cao trong nước và tại các quốc gia khác trong khu vực. Điều này đòi hỏi từng cơ sở giáo dục phải chủ động và cụ thể hóa trong quá trình triển khai các chương trình đào tạo có chất lượng cao.q Tài liệu tham khảo 1. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN, (ASEAN Comprehensive Investment Agreement- ACIA) 2. ASEAN Secretariat, ASEAN Comprehensive Investment Agreement (ACIA) - A Guidebook for Businesses and Investors, Jakarta, 07/2013. 3. Ban thư ký ASEAN, 2013, ASEAN Investment Report 2012: The changing FDI Landscape, Jakarta. 4. Đại học Đà Nẵng, 2015, Hội thảo khoa học Quản trị và Kinh doanh, ISBN: 978-6044- 84-1045-2. 5. International Labor Organization (ILO), 2014, ILO lý giải năng suất lao động Việt Nam ở nhóm kém nhất khu vực, 6. Nguyễn Hồng Sơn, 2014, Hướng tới AEC: sự chuẩn bị của Việt Nam, Hướng tới Cộng đồng kinh tế ASEAN và gợi ý chính sách đối với Việt Nam, Hội thảo do Ban Kinh tế Trung ương và Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Wolfgang Form, Huynh Luu Duc Toan, Le Dong Thao Vy, 2014, Challenges for Vietnam’s participation in AEC when it comes to one of the integration pillars: free flow of skilled labor and lessons learned from European Union, Towards ASEAN Economic Community (AEC) and policy implications for Vietnam, Conference between Central Economic Commission and University of Economic and Business. 8. UNCTAD, World Investment Report 2015: Reforming International Investment Governance. 9. The World Bank (WB), 2014, Efficient Logistics A Key to Vietnam’s competitiveness.
File đính kèm:
- cam_ket_trong_linh_vuc_dich_vu_va_di_chuyen_lao_dong_huong_d.pdf