Cách mạng công nghiệp 4.0 và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh NCKH trong các cơ sở giáo dục đại học

TÓM TẮT

Nhân loại đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4, được xây dựng trên cuộc CMCN lần thứ 3. Đó là cuộc cách mạng kỳ thuật so được xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, là sự hợp nhất các công nghệ, làm mờ đi ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Bài báo này trình bày tóm tắt hai nội dung chính: Phần 1 trình bày khái niệm, các động lực và những thách thức, cơ hội của CMCN lần thứ tư; và Phần 2 trình bày một số giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các cơ sở giáo dục đại học.

 

doc 12 trang phuongnguyen 4240
Bạn đang xem tài liệu "Cách mạng công nghiệp 4.0 và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh NCKH trong các cơ sở giáo dục đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp 4.0 và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh NCKH trong các cơ sở giáo dục đại học

Cách mạng công nghiệp 4.0 và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh NCKH trong các cơ sở giáo dục đại học
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢY
MẠNH NCKH TRONG CÁC cơ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 AND SOME SOLUTIONS TO PROMOTE
SCIENTIFIC RESEARCH IN HIGHER EDUCATION INSTITUTIONS
PGS.TS. Nguyễn Thòi Trung
Trường đại học Tôn Đức Thắng
TÓM TẮT
Nhân loại đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4, được xây dựng trên cuộc CMCN lần thứ 3. Đó là cuộc cách mạng kỳ thuật so được xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, là sự hợp nhất các công nghệ, làm mờ đi ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Bài báo này trình bày tóm tắt hai nội dung chính: Phần 1 trình bày khái niệm, các động lực và những thách thức, cơ hội của CMCN lần thứ tư; và Phần 2 trình bày một số giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các cơ sở giáo dục đại học.
ABSTRACT
Mankind has been entering the 4th Industrial Revolution, built on the 3rd Industrial Revolution. It was a digital revolution that appeared in the middle of last century, and the integration of technologies which blur the boundary between the physical, digital and biological fields. This paper presents a summary of two mam contents: Part 1 presents the concept, motivations and challenges and opportunities of the fourth Industrial Revolution; and Part 2 presents a number of measures to promote scientific research in higher education institutions.
Cách mạng công nghiệp 4.0
Khải niệm về Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 [1, 2, 6]
Ngày 20/01/2016, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, thu hút sự tham dự của 40 nguyên thủ quốc gia và hơn 2.500 quan khách từ hơn 100 quốc gia, trong đó có Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Anh David Cameron, Bill Gates, CEO của Microsof Satya Nadella, Chủ tịch của Alibaba Jack Ma, v.v. Khái niệm Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đã được làm rõ tại diễn đàn này.
Theo GS. Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh te Thế giới, Industry 4.0 (tiếng Đức là Industrie 4.0) hay CMCN 4.0, là một thuật ngữ gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. CMCN 4.0 được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị”đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, internet kết noi vạn vật (loT) và internet của các dịch vụ (loS).
Bản chất của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy, v.v.
Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây. Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các “nhà máy thông minh” hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thể giới vật lý. Với loT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua loS, người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này, v.v.
Việc áp dụng rộng rãi những tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông ICT, như loT, điện toán đám mây, công nghệ thực tế - ảo, v.v. vào hoạt động sản xuất công nghiệp làm mờ đi ranh giới giữa thế giới thực và thế giới ảo, được gọi là hệ thống sản xuất thực - ảo/điều khiển - vật lý CPPS (cyber-physical production system). Đây là nền tảng cho việc xây dựng các nhà máy thông minh, nhà máy số ngày nay. CPPS là mạng lưới giao tiếp trực tuyến giữa các máy móc với nhau, được tổ chức như mạng xã hội.
Trong nhà máy số, các thiết bị máy móc thông minh giao tiếp với nhau bằng hệ thống mạng và liên tục chia sẻ thông tin về lượng hàng hiện tại, về sự cố hoặc lỗi, về những thay đổi trong đơn đặt hàng hoặc mức độ nhu cầu. Quá trình sản xuất và thời hạn sản xuất được phối hợp với mục tiêu tăng hiệu suất và tối ưu hóa thời gian sản xuất, công suất và chất lượng sản phẩm trong các khâu phát triển, sản xuất, tiếp thị và thu mua. Các cảm biến, chấp hành và điều khiển cho phép các máy móc liên kết đến nhà máy, các hệ thống mạng khác và giao tiếp với con người. Các mạng thông minh này là nền tảng của các nhà máy thông minh, nhà máy so ngày nay.
Đối với nhà máy số, ngoài hạ tầng mạng máy móc thông minh còn có sự ghép nối với hạ tầng các mạng thông minh khác như: mạng thiết bị di động thông minh, mạng lưới điện thông minh, mạng logicstic thông minh, mạng ngôi nhà thông minh hay mạng tòa nhà thông minh, và liên kết đến cả mạng thương mại điện tử, mạng xã hội. Tất cả các mạng này là xu thế của Công nghiệp 4.0, dựa trên những phát triển vượt trội của công nghệ thông tin - truyền thông và khoa học máy tính: loT, loS, Internet kết nối dữ liệu, internet kết nối người dân.
Các động lực chính cho CMCN 4.0 [1,2,6]
Những động lực chính của cuộc cách mạng công nghiệp mới này là sự thay đổi trong kỳ vọng của người dùng (sản phẩm theo yêu cầu và giao hàng theo thời gian Internet), cùng với sự hội tụ của các công nghệ mới như loT, robot cộng tác (cùng làm với người), in ấn 3D và điện toán đám mây, cùng sự xuất hiện các mô hình kinh doanh mới.
Thế giới đang chứng kiến hàng loạt những đột phá khoa học và tiến bộ công nghệ, đây là những xu hướng và động lực dẫn dắt CMCN 4.0. Vô số tổ chức đã sử dụng các công nghệ khác nhau sẽ thúc đẩy CMCN 4.0. Những đột phá khoa học và công nghệ mới dường như là vô hạn, diễn ra trên rất nhiều mặt khác nhau và ở nhiều nơi khác nhau.
Tất cả những phát triển mới và các công nghệ mới đều có đặc điểm chung: chúng tận dụng sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin (CNTT). Các xu thế lớn của công nghệ có thể được chia thành 3 nhóm: vật lý/hữu hình, kỹ thuật số và sinh học. Cả ba đều liên quan chặt chẽ với nhau và với các công nghệ khác để đem lại lợi ích cho nhau dựa vào những
ĨÕ5
khám phá và tiến bộ của từng nhóm.
Vật lý/hữu hình: Bốn đại diện chính của xu hướng lớn về phát triển công nghệ dễ nhận thấy nhất là:
Xe tự lái: Những xe ô tô này xử lý một lượng lớn dữ liệu cảm biến từ các radar, máy ảnh, máy đo khoảng cách bằng siêu âm, GPS và bản đồ được gắn trên xe để điều hướng các tuyến đường đi qua các tình huống giao thông phức tạp và thay đổi nhanh chóng hơn mà không cần bất kỳ sự tham gia nào của con người.
Công nghệ in 3D: Hay được gọi là chế tạo "cộng", in 3D bao gồm việc tạo ra một đối tượng vật lý bằng cách in theo các lóp từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước. Công nghệ này khác hoàn toàn so với chế tạo "trừ", lấy đi các vật liệu thừa từ phôi ban đầu cho đen khi thu được hình dạng mong muốn. Ngược lại, công nghệ in 3D bắt đầu với vật liệu rời và sau đó tạo ra một sản phẩm ở dạng ba chiều từ mẫu kỹ thuật số.
Khoa học robot cao cấp: Siêu tự động hóa cộng với trí tuệ nhân tạo (AI) khiến việc tự động hóa phát triển mạnh hơn, thậm chí với những kỹ năng trước đây chỉ có con người sở hữu. Siêu tự động hóa cực cao có thể cho phép sự tham gia của robot và các cỗ máy có trí thông minh nhân tạo phân tích kết quả, đưa ra các quyết định phức tạp và ứng dụng những kết luận vào hoạt động sản xuất.
Vật liệu mới: Với thuộc tính mà mà chỉ cách đây vài năm vẫn còn được coi là viễn tưởng, những vật liệu mới đang được đưa ra thị trường; về tổng thể, chứng nhẹ hơn, bền hơn, có thể tái chế và dễ thích ứng.
Kỹ thuật sổ:
Từ CMCN 4.0, sự hội tụ giữa ứng dụng vật lý và ứng dụng kỹ thuật sổ là sự xuất hiện loT. Mô tả đơn giản nhất, có thể coi loT là mối quan hệ giữa vạn vật (các sản phẩm, dịch vụ, địa điểm,...) và con người thông qua các công nghệ kết nối và các nền tảng khác nhau. Theo các chuyên gia, loT có thể tạo ra một cuộc cách mạng công nghiệp mới, khiển cả nền kinh tế thế giới và đời sống nhân loại phải chuyển mình theo.
Không giống như các cuộc cách mạng trước - thường diễn ra theo xu hướng phát minh mới làm mờ đi phát minh cũ, loT được tin là sẽ tạo cơ hội cho tất cả các ngành nghề đều được hưởng lợi. loT gia tăng cũng có nghĩa là việc truyền tải dữ liệu và giao tiếp qua internet tăng lên. Chính vì thế mà tất cả các công ty, ngành nghề đều có thể sử dụng các dữ liệu đó để phân tích và quyết định chiến lược cạnh tranh giành lấy thành công cho mình trong tương lai.
Theo Công ty nghiên cứu Rand Europe (Anh), đến năm 2020, loT sẽ đem lại doanh thu tiềm năng khổng lồ cho các ngành trên thế giới vào khoảng từ 1,4 nghìn tỷ - 14,4 nghìn tỷ USD - tương đương với mức GDP của cả Liên minh châu Âu. Không nhũng thế, một báo cáo mới nhất của hãng phân tích kinh tế Business Insider Intelligence còn dự báo, đến năm 2020 nhiều ngành kinh tế cơ bản sẽ tăng cường đầu tư cho hệ sinh thái loT với tổng số tiền đầu tư cho các giải pháp loT ước chừng 6 nghìn tỷ USD. Trong đó, các nhà sản xuất công nghiệp chế tạo sẽ tăng 35% đầu tư cho việc sử dụng các cảm biến thông minh.
Ngành giao thông sẽ có hơn 220 triệu xe hơi được kết nối. Ngành công nghiệp quốc phòng sẽ chi 8,7 tỷ USD cho các phương tiện không người lái và sẽ có 126 nghìn robot quân sự được xuất xưởng. Sản xuất nông nghiệp sẽ cài đặt 75 triệu thiết bị loT, chủ yếu là các thiết bị cảm biến được đặt ở trong đất để theo dõi nồng độ axít, nhiệt độ và các chỉ số khác để giúp nông dân tăng năng suất mùa vụ. Ngoài ra, còn nhiều lĩnh vực khác cũng tăng cường đầu tư hệ sinh thái loT như lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ vận tải, ngân hàng, y tế... Nói chung, trong vài năm nữa, loT sẽ bao trùm hầu khắp các ngành nghề trong ba khu vực chính: Chính phủ, DN và người tiêu dùng, với ước tính có 24 tỷ thiết bị được kết nối Internet và tham gia vào hệ sinh thái loT.
Sinh học
Với sức mạnh của máy tính, các nhà khoa học không còn phải dùng phương pháp thử, sai và thử lại, thay vào đó họ thử nghiệm cách thức mà các biến dị gen gây ra các bệnh lý đặc thù. Bước tiếp theo sẽ là sinh học tổng hợp. Công nghệ này sẽ giúp chúng ta có khả năng tùy biến cơ thể bằng cách sửa lại ADN. Ngoài những vấn đề thuộc về đạo đức, sinh học tổng hợp sẽ phát triển hon nữa, những tiến bộ này sẽ không chỉ tác động sâu và ngay tức thì về y học mà còn về nông nghiệp và sản xuất nhiên liệu sinh học.
Những sản phẩm kì vọng xuất hiện vào năm 2025 [1,2,6]
Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố tháng 9 năm 2015 đã xác định 21 sản phẩm công nghệ sẽ định hình tương lai kỹ thuật số và thế giới siêu kết nối. Đó là những sản phẩm mà mọi người kì vọng sẽ xuất hiện trong 10 năm bắt nguồn từ những thay đổi sâu sắc của CMCN 4.0. Sau đây là 21 sản phẩm được sắp xếp theo số lượng ý kiến giảm dần:
10% dân số mặc quần áo kết nối với internet.
90% dân số có thể lưu trữ dữ liệu không giới hạn và miễn phí (kèm quảng cáo).
1 nghìn tỷ cảm biến kết nối với internet.
Dược sĩ robot đầu tiên ở Mỹ.
-10% mắt kính kết nối với internet.
80% người dân hiện diện số trên internet.
Chiếc ôtô đầu tiên được sản xuất hoàn toàn bằng công nghệ in 3D.
Chính phủ đầu tiên thay thế điều tra dân so bằng các nguồn dữ liệu lớn.
Chiếc điện thoại di động cấy ghép vào người đầu tiên được thương mại hóa.
5% sản phẩm tiêu dùng được sản xuất bằng công nghệ in 3D.
90% dân số dùng điện thoại thông minh.
90% dân số thường xuyên truy cập internet.
10% xe chạy trên đường ở Mỹ là không người lái.
Cấy ghép gan dựa trên công nghệ in 3D.
30% việc kiểm toán ở công ty được thực hiện bằng trí tuệ nhân tạo.
Lần đầu tiên chính phủ thu thuế qua một blockchain (một giao thức an toàn trong đó một mạng các máy tính cùng nhau xác thực một giao dịch trước khi được lưu trữ và chấp thuận).
Hơn 50% lượng truy cập internet ở nhà liên quan đến các thiết bị dân dụng.
Trên toàn cầu những chuyến đi du lịch hay công tác sẽ được thực hiện qua các phương tiện chia sẻ cũng nhiều hơn so với các phương tiện cá nhân.
Thành phố đầu tiên với hơn 50.000 người không có đèn giao thông.
10% tổng sản phẩm nội địa toàn cầu được lưu trữ trên blockchain.
Máy trí tuệ nhân tạo đầu tiên được sử dụng cho một hội đồng quản trị công ty.
Cơ hội và thách thức [2,6]
CMCN 4.0 được đánh giá sẽ vượt ra khỏi quy mô công xưởng, doanh nghiệp khi vạn vật được kết nối bởi internet. Cụ thể, không những tất cả máy móc thiết bị trong công xưởng được kết nối với nhau thông qua internet, rất nhiều cảm biến cũng đồng thời được lắp đặt để thu thập dữ liệu. Cách làm này giúp máy móc có thể “giao tiếp” với nhau mà không cần sự có mặt của con người, hay dây chuyền sản xuất sẽ được vận hành tự động một cách thích hợp ứng với lượng tồn kho.
Ngoài ra, các DN sản xuất chi tiết cũng sẽ được kết noi với DN lắp ráp, DN vận chuyển, cửa hàng phân phối và tiêu thụ để thành một thể thống nhất. Điều này cũng có nghĩa là cuộc cách mạng lần này không chỉ hướng tới tăng năng suất và giảm lao động. Khi lượng thông tin trao đổi sẽ tăng lên gấp hàng trăm tới hàng nghìn lần, đồng thời nảy sinh ra 3 sự thay đổi lớn:
Thứ nhất, thời đại sản xuất một sản phẩm với số lượng lớn sẽ dần kết thúc. Thay vào đó là khả năng tiếp nhận nhu cầu của khách hàng và truyền tới công xưởng sản xuất ngay trong thời gian thực. Các dây chuyền sản xuất sẽ tự động kết hợp với nhau để sản xuất đom chiếc mới mức giá thấp như hiện nay. Đây gọi là thời đại sản xuất hàng loạt sản phẩm đơn chiếc theo nhu cầu của khách hàng. Đi tiên phong trong lĩnh vực này là nước Đức.
Thứ hai, sự thay đổi trong khái niệm thay đổi thiết kế mới của sản phẩm như ô tô, xe máy, v.v. Hiện nay, giá trị gia tăng của ngành sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào việc gia công vật liệu như kim loại thành sản phẩm, đưa vào đó phần mềm hoặc hệ thống điều khiển. Tuy nhiên trong tương lai hệ thống kết nối internet sẽ thu thập nhu cầu của khách hàng, dựa trên cở sở đó nhà sản xuất sẽ chỉ cập nhật phần mềm để lên đời sản phẩm như những chiếc điện thoại thông minh hiện nay. Không những sản phẩm mà thiết bị sử dụng trong sản xuất cũng chỉ cần cập nhật phần mềm để thêm tính năng mới mà không cần phải thay mới chi tiết hay bộ phận. Nắm đầu xu thế này đang là các công ty của Mỹ.
❖ Thứ ba, the giới sẽ chứng kiến một cuộc lật đổ ngoạn mục của các DN CNTT, khi họ biến các DN sản xuất trở thành “tay sai” cho mình. Với khả năng thu thập và phân tích dữ liệu các DN công nghệ thông tin sẽ nắm được nhu cầu của khách hàng và tự đưa ra được sản phẩm tương ứng. Sau đó họ sẽ thuê DN sản xuất làm sản phẩm giúp mình. Vì thế, thời đại của một “cuộc đảo chính” trong nền sản xuất đang tới gần.
Giống như các cuộc cách mạng trước đó, CMCN 4.0 có tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân trên toàn thế giới. CMCN 4.0 sẽ tạo ra các lợi ích hết sức to lớn. Người tiêu dùng được hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc cách mạng công nghệ này. Cuộc CMCN 4.0 đã tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí không đáng kể phục vụ người tiêu dùng.
Trong tương lai, sáng tạo công nghệ cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi diệu kỳ từ phía cung, với những lợi ích lâu dài về hiệu quả và năng suất. Chi phí giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, hậu cần và các chuỗi cung ứng toàn cầu ... c viên thạc sĩ, nghiên cứu sinh làm nghiên cứu khoa học.
Các giải pháp đẩy mạnh NCKH trong các cư sở giáo dục đại học
Công thức dẫn đến thành công trong NCKH ở cơ sở giáo dục đại học có thể tóm gọn trong 3 yếu tố chính sau [5]: Thành công trong NCKH = Năng lực nghiên cứu tốt + Động lực nghiên cứu tốt + Môi trường nghiên cứu tốt.
Vậy một cở sở giáo dục đại học muốn phát triển NCKH tại đơn vị mình thì cần phải đầu tư vào ba yếu tố này như thế nào?
Năng lực nghiên cứu
Năng lực nghiên cứu của đội ngũ GV/NCV là yếu tố quan trọng nhất, là khả năng sáng tạo, phát hiện cái mới; tư duy đổi mới; khả năng đưa ra các giải pháp độc đáo và hiệu quả để giải quyết các vấn đề mới, thách thức của khoa học và thực tiễn. Để cải thiện năng lực nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học cần lưu ý 5 điểm sau: (1) phát triển năng lực nghiên cứu bên trong;
thu hút năng lực nghiên cứu bên ngoài;
xác định hướng nghiên cứu đặc thù, có thế mạnh để đầu tư có trọng điểm; và (4) thu hút NCV giỏi, đẳng cấp; 5) thu hút đầu tư xây dựng và phát triển các phòng thí nghiệm NCKH.
về phát triển năng lực nghiên cứu bên trong, cơ sở giáo dục đại học cần đề ra các chính sách, quy định cụ thể về lộ trình bắt buộc để GV/NCV cơ hữu phải liên tục học tập nâng cao trình độ (tối thiếu bằng Tiến sĩ), nâng cao năng lực ngoại ngữ (sử dụng thành thạo anh văn) và nâng cao năng lực NCKH (thông qua nhiệm vụ NCKH hằng năm và tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh khoa học riêng của Trường). Ngoài ra, cơ sở giáo dục đại học cần có những qui định bắt buộc nhằm đảm bảo GV/NCV triển khai hiệu qủa các hoạt động trao đổi học thuật định kỳ (ít nhất là hằng tháng) như seminar học thuật (báo cáo kết quả nghiên cứu đạt được), journal club (cập nhật, thảo luận kết quả nghiên cứu mới của các bài báo tạp chí chuyên ngành), v.v.
về thu hút năng lực nghiên cứu bên ngoài, cơ sở giáo dục đại học cần chú trọng thu hút, tuyển dụng mới các TS, GS, chuyên gia, có năng lực nghiên cứu tốt để hỗ trợ, tiếp sức, và tạo sức ép cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu của các GV/NCV cơ hữu hiện có. Đồng thời, cơ sở giáo dục cũng cần có chính sách, quy định rõ về việc không tiếp tục hợp tác đối với những GV/NCV không đáp ứng được các yêu cầu phát triển của Nhà trường về tiêu chuẩn GV/NCV mới. Điều này sẽ tạo sức ép cả từ bên trong và bên ngoài buộc GV/NCV cơ hữu hiện có phải không ngừng học hỏi, nâng cao trinh độ bản thân.
về việc xác định hướng nghiên cứu đặc thù, có thế mạnh để đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải: Việc xem xét các điểm mạnh, trọng tâm cần dựa trên việc xem xét các tính đặc thù của thời đại (thời kỳ hội nhập quốc tế và CMCN 4.0), đặc thù của tố chất người Việt Nam (ví dụ nhạy
íĩĩ
tính toán, trí tuệ nhân tạo, logic, v.v), đặc thù của địa phương, của tình hình thực tế cơ sở giáo dục đại học đang hoạt động, và đặc thù nhu cầu của thị trường lao động. Một số hướng nghiên cứu trọng điểm có thể được xem xét đến như khoa học dữ liệu, khoa học tính toán, khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, điện tử viễn thông, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học, nông nghiệp thông minh, du lịch, v.v.
Thu hút NCV giỏi, đẳng cấp quốc tế: Dựa trên việc xác định các hướng nghiên cứu trọng điểm, cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng chính sách và chiến lược để thu hút NCV giỏi, đẳng cấp, NCV nước ngoài, nhà khoa học việt kiều tâm huyết để dẫn dắt và phát triển các hướng nghiên cứu này.
về thu hút đầu tư xây dựng và phát triển các phòng thí nghiệm NCKH: Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, các trường đại học quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm theo hình thức hợp tác công - tư. Các phòng thí nghiệm này không chỉ là nơi để sinh viên thực hành mà còn là trung tâm nghiên cứu chuyên sâu theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng tri thức cao. Tùy thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể mà lựa chọn nội dung và hình thức liên kết phù hợp. về nội dung hợp tác liên kết nghiên cứu phát triển dưới dạng họp đồng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, phối hợp thực hiện các chương trình đào tạo. Doanh nghiệp với tư cách là khách hàng thường xuyên của các trường đại học. Hợp tác nghiên cứu sẽ mang lại cho các trường đại học nguồn kinh phí đáng kể để tăng thêm tiềm lực khoa học - công nghệ và nâng cao chất lượng đào tạo [4].
Động lực nghiên cứu
Tuy nhiên yếu tố năng lực nghiên cứu chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Neu không có động lực nghiên cứu thì năng lực nghiên cứu sẽ không được kích hoạt, và cứ đứng yên ở dạng tiềm năng. Có động lực nghiên cứu mới thôi thúc giảng viên hăng say nghiên cứu. Động lực càng mạnh mẽ thì năng lực nghiên cứu càng được phát huy tốt. Động lực nghiên cứu của một giảng viên, tùy thuộc vào mỗi người, có thể là: 1) niềm dam mê được chinh phục, giải quyết các khó khăn, thách thức thực tiễn; 2) ham nghiên cứu tìm tòi cái mới, khát vọng muốn khẳng định bản thân; 3) muốn đáp ứng các yêu cầu học hàm, học vị; 4) muốn đạt được lợi ích kinh tế v.v, trong đó lợi ích kỉnh tế là một trong những động lực chính. Vì vậy, để tạo động lực cho công tác NCKH, Nhà trường cần có chính sách tăng thu nhập cho các giảng viên với nguyên tắc: thu nhập tăng thêm lũy tiến theo thành tích nghiên cứu. Giảng viên làm nghiên cứu càng có chất lượng, có công bố quốc tế (ISI/Scopus) phải có thu nhập cao hơn so với giảng viên không làm nghiên cứu. Như thế mới công bằng và sự chênh lệch về thu nhập theo cách như vậy sẽ tạo ra động lực NCKH cho giảng viên.
Đối với việc xét thưởng thành tích công tác hằng năm của giảng viên, thì kết quả NCKH tốt của giảng viên phải là một trong những tiêu chí quan trọng.
Đối với các đề tài NCKH cấp trường nhằm tạo điều kiện cho giảng viên nghiên cứu, Nhà trường cần tăng kinh phí cho các đề tài và ưu tiên cho các giảng viên trẻ có năng lực, nâng cao tiêu chuẩn nghiệm thu sản phẩm theo hướng tiếp cận chuẩn quốc tế (bài báo ISI/Scopus, bằng sáng chế trong và ngoài nước) và nâng cao tính ứng dụng thực tiễn (sản phẩm được doanh nghiệp thử
ĐẠI HỌC ĐÔNG A
2017
113
nghiệm, ứng dụng). Ngoài ra, Nhà trường cũng cần quyết liệt đổi mới cơ chế xét duyệt và nghiệm thu, thanh quyết toán đề tài. Việc xét duyệt và cấp kinh phí đề tài cần nghiêm túc, minh bạch và được tiến hành bởi các hội đồng khoa học thực sự đảm bảo về chất lượng chuyên môn cũng như tính khách quan trong đánh giá. Việc nghiệm thu, thanh quyết toán nên theo cơ chế khoán sản phẩm. Sản phẩm đầu ra của một đề tài là quan trọng nhất, là thước đo hiệu quả của việc thực hiện đề tài. Cơ chế khoán sẽ giúp lược bỏ bớt những khâu trung gian, những thủ tục hành chính giúp cho các giảng viên tiết kiệm được thời gian và công sức để tập trung cho công tác nghiên cứu [5].
Môi trường nghiên cứu
Môi trường nghiên cứu gồm hai phần: phần cứng và phần mềm. Đối với các nhà khoa học thực nghiệm, phần cứng là các phòng thí nghiệm với các trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu. Thiếu sự hỗ trợ của các phòng thí nghiệm thì khó lòng đạt được kết quả nghiên cứu tốt. Tuy nhiên, việc đầu tư nâng cấp phòng thí nghiệm hiện có cũng như đầu tư mới cần kinh phí rất lớn nên phải tiến hành từng bước, tùy thuộc vào nguồn tài chính và lộ trình phát triển của Nhà trường [5]. Tuy nhiên sự khác biệt lớn về môi trường NCKH nằm chính ở phần mềm: cơ chế/ chính sách/ quy định tổ chức hoạt động NCKH, và là yếu tố mà cơ sở giao dục đại học có thể chủ động thay đổi được. Thậm chí nếu cơ sở giáo dục làm tốt và hiệu quả ở phần mềm này, thì sẽ thu hút được đủ nguồn lực để phát triển nhanh cả phần cứng. Vì vậy cở sở giáo dục đại học cần đẩy mạnh việc xây dựng một môi trường nghiên cứu (phần mềm) hiệu quả, tiên tiến thông qua những giải pháp sau:
Xây dựng môi trường NCKH chuẩn quốc tế thông qua hệ thống các quy định, chính sách của Nhà trường như: (1) Quy định về tiêu chuẩn tiếng anh/ngoại ngữ của GV, viên chức (theo lộ trình); (2) Quy định về tiêu chuẩn bằng Tiến sĩ của GV (theo lộ trình); (3) Quy định hạng và chất lượng bài báo ISI/Scopus; (4) Quy định xếp hạng chuyên gia; (5) Quy định về nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của GV/NCV; (6) Quy định về chuẩn học hàm/ bổ nhiệm chức vụ riêng của Nhà trường; (7) Quy định nghiệm thu sản phẩm nghiên cứu khoa học; (8) Quy định về sở hữu trí tuệ; (9) Quy định về sinh hoạt học thuật, journal club của Khoa; v.v.
Xây dựng một hệ sinh thái NCKH mở thông qua việc ban hành các quy định về việc thành lập, hoạt động và cộng tác chặt chẽ giữa các đơn vị trực thuộc hệ sinh thái bao gồm: (1) các Nhóm/Trung tâm/Viện nghiên cứu (đơn và đa ngành); (2) các Khoa; (3) các phòng lab thí nghiệm NCKH; (4) các trung tâm Techno-park (vói sự tham gia của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước); (5) các Trường đại học/ Viện NC trong và ngoài nước, v.v.
Đẩy mạnh hội nhập NCKH quốc tế thông qua các quy định, chính sách cụ thể về việc: (1) khuyến khích và tăng cường tổ chức các hội thảo quốc tế; (2) khuyến khích GV/NCV đi hợp tác nghiên cứu ở nước ngoài (công bố chung, sử dụng phòng lab chung, viết dự án chung, v.v); (3) khuyến khích và hỗ trợ các giáo sư, chuyên gia nước ngoài đến hợp tác và làm việc ngắn hạn tại Trường (như hỗ trợ nhà công vụ, phòng làm việc, tham gia giảng dạy sau đại học, cộng tác nghiên cứu, v.v).
Đẩy mạnh họp tác NCKH trong nước thông qua các quy định, chính sáchhợp tác với các trường đại học/Viện NC trong nước, trên cơ sở hợp tác hiệu quả, cùng có lợi, và tận dụng the mạnh của nhau (sử dụng phòng thí nghiệm chung, công bố chung, đề tài chung, tài chính kết hợp, v.v).
Đẩy mạnh phát triển họp tác NCKH với mạng lưới Doanh nghiệp thân hữu thông qua các quy định, chính sách liên kết đào tạo với Doanh nghiệp, ưu tiên thực tập và tuyển dụng các sinh viên của Trường, đặc biệt là chính sách khuyến khích và hỗ trợ các GV/NCV phối hợp với doanh nghiệp để hình thành và triển khai các nghiên cứu ứng dụng nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề khó khăn hiện hữu hay nhu cầu phát triển của doanh nghiệp.
Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức đào tạo sau đại học với các trường đại học nổi tiếng trên thế giới thông qua các chương trình liên kết, các chương trình sandwich, các chương trình đào tạo online (massive open online courses), các khóa học ngắn (chỉ lấy certificate), v.v.
Thành lập và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh đa ngành: Ờ những đại học đẳng cấp, NCKH thường được tổ chức làm việc theo nhóm (team working). Nghiên cứu được tổ chức theo nhóm là một xu the chủ đạo trong NCKH hiện nay. Trong một nhóm nghiên cứu, mỗi thành viên có thể theo đuổi các bài toán khác nhau nhưng cùng hướng tới một mục tiêu, nằm trong một ngữ cảnh, một hướng nghiên cứu chung. Do đó, các thành viên trong nhóm có mối quan tâm gần gũi với nhau, từ đó có sự hợp tác, giao tiếp trao đổi, chia sẻ ý tưởng với nhau, học hỏi lẫn nhau. Tương tác và cộng tác, đó là phương thức làm việc của nhóm nghiên cứu. Thế mạnh của từng người sẽ được phát huy tối đa theo sự cộng hưởng lẫn nhau, còn điểm yếu thì lại được bù đắp. Năng suất, chất lượng hiệu quả nghiên cứu của từng thành viên sẽ tăng lên rất nhiều so với làm việc theo mục tiêu của từng cá nhân và sẽ được lũy tiến theo thời gian. Để hình thành nên nhóm nghiên cứu, điều kiện tiên quyết là phải có nhà nghiên cứu có năng lực uy tín, vạch ra hướng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu rồi tập hợp quanh anh ta những đồng nghiệp cùng chí hướng. Các cơ sở giáo dục đại học rất cần những “thủ lĩnh” khoa học như vậy. Ngoài việc nuôi dưỡng và trọng dụng những giảng viên đầu ngành là cán bộ cơ hữu của Trường, một giải pháp là kí hợp đồng với các nhà khoa học giỏi ở bên ngoài Trường để xây dựng nhóm nghiên cứu [5].
Gắn kết giữa NCKH và đào tạo Tiến sĩ: Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ (ĐTTS) là một xu thế tất yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động KHCN cũng như đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. NCKH và ĐTTS có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nghiên cứu khoa học là một trong những nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo tiến sĩ và ngược lại, chương trình ĐTTS sẽ đặt ra những vấn đề mà NCKH phải đáp ứng. Sự tích hợp giữa NCKH và ĐTTS sẽ tạo ra lợi ích kép, là một mũi tên bắn trúng nhiều đích. Đối với NCS, động lực nghiên cứu là chuyện rõ ràng. Đối với thầy hướng dẫn, việc hướng dẫn NCS nhằm đào tạo người kế nghiệp, cũng như nhằm đáp ứng những quy định để được xét chức danh GS, hay được ưu tiên khi xét duyệt đề tài NCKH. Kết hợp giữa NCKH và ĐTTS cũng là một phương pháp hiệu quả để tạo ra các nhóm nghiên cứu bao gồm người giàu kinh nghiệm nghiên cứu (thầy hướng dẫn), những nhà khoa học trẻ (những TS mới bảo vệ) những người mới chập chững bắt tay vào NC (các NCS) [5].
Khai thác những đề tài nghiên cứu mang tính chất đa ngành: Theo truyền thống trước đây việc NCKH được tổ chức theo các chuyên ngành học thuật riêng lẻ, nhưng hiện nay ở những đại học tiên tiến, các NCKH được tổ chức theo các vấn đề hom là theo các chuyên ngành. Vì bản chất của thế giới là phức tạp nên những vấn đề đó thường nằm ở ranh giới của nhiều khoa học, độ phức tạp của nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một ngành riêng lẻ, đòi hỏi sự tham gia giải quyết của một nhóm nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực. Chính vấn đề khoa học xác định cơ cấu nhóm nghiên cứu chứ không phải ý muốn chủ quan của nhóm nghiên cứu đặt ra vấn đề nghiên cứu [5].
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng để xây dựng và phát triển được một môi trường nghiên cứu (phần mềm) hiện đại như trên sẽ đòi hỏi một yếu tố rất quan trọng và quyết định: đó là Tầm nhìn và năng lực lãnh đạo của người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học. Có thể nói, để áp dụng các nội dung cần thiết đạt được thành công thì người lãnh đạo của cơ sở giáo dục đại học cần có tầm nhìn và năng lực triển khai. Tầm nhìn và năng lực ấy trở thành niềm tin và sức mạnh của sự cố gắng, thúc đẩy họ vượt qua khó khăn. Với tầm nhìn đó, nhà lãnh đạo đang thực hiện một sứ mệnh đặc biệt, tạo nên niềm tin, truyền ngọn lửa dam mê để tất cả cùng cảm nhận và cùng thực hiện với sự đoàn kết, chung sức của toàn trường. Điều đó sẽ là sức mạnh biến ước mơ, mục tiêu dài hạn thành hiện thực.
Nếu lãnh đạo của cơ sở giáo dục đại học chưa thể hiểu rõ vị trí của việc nghiên cứu khoa học quan trọng như thế nào trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội trong thời đại mới, mà vẫn làm theo lối mòn cũ, sẽ nhanh chóng khiến ngôi trường của mình bị lạc hậu, mất vị trí trên bảng đồ giáo dục đại học Việt Nam cũng như trên khu vực. Bên cạnh đó, nếu không thay đổi tư duy về giáo dục, chúng ta sẽ thật sự có lỗi với sinh viên đang theo học trong ngôi trường của mình, vì chính bản thân ngôi trường đó đã đào tạo ra những nguồn lao động không còn phù hợp với nhu cầu xã hội, và sự đào thải ... chắc chắn sẽ xảy ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bối cảnh, các xu hướng lớn và những sản phẩm điển hình, Tạp chỉ Tự động hóa ngày nay, 5/2016;
Scenarios, Hermann, Pentek, Otto, Desigh Principles for Industrie 4.0, 2015;
Only One - Tenth of Germany’s High - Tech Stratery, Bill Lydon, Industry 4.0,2014.
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đoi với cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Tạp chí Bảo mới, 27/8/2017.
Bốn giải pháp thúc đẩy nghiên cứu khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội.
Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức. Tạp chí Tài chỉnh, 25/6/2017.

File đính kèm:

  • doccach_mang_cong_nghiep_4_0_va_mot_so_giai_phap_nham_day_manh.doc
  • pdfbaiviet_13_1899_510205.pdf