Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian

Tranh dân gian là kho di sản văn hóa quý giá của người Việt. Bài viết nghiên cứu về tranh dân gian

Đông Hồ, Hàng Trống và Kim Hoàng để tìm hiểu tâm thức của người Việt qua các ý nghĩa biểu tượng

của tranh. Đôi khi ý nghĩa của tranh đơn giản, chỉ là con lợn, con gà biểu tượng cho sự sung túc trong

đời sống nhà nông, nhưng phần nhiều các tranh dân gian mang nhiều ý nghĩa sâu sắc thể hiện sự liên

tưởng so sánh qua nhiều tầng nấc, như các từ đồng âm của các sự vật khác nhau, lời cầu chúc giàu ý

nghĩa qua các chữ chua nghĩa trong tranh Đó là minh chứng cho thấy người Việt xưa có kiến thức

phong phú và tâm hồn giàu cảm xúc

pdf 7 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian

Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian
Số 28 - Tháng 6 - 201954
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
CÁCH BIỂU ĐẠT ƯỚC VỌNG CỦA NGƯỜI VIỆT 
TRONG TRANH DÂN GIAN
PHẠM LÊ TRUNG, TRỊNH SINH
Tóm tắt
Tranh dân gian là kho di sản văn hóa quý giá của người Việt. Bài viết nghiên cứu về tranh dân gian 
Đông Hồ, Hàng Trống và Kim Hoàng để tìm hiểu tâm thức của người Việt qua các ý nghĩa biểu tượng 
của tranh. Đôi khi ý nghĩa của tranh đơn giản, chỉ là con lợn, con gà biểu tượng cho sự sung túc trong 
đời sống nhà nông, nhưng phần nhiều các tranh dân gian mang nhiều ý nghĩa sâu sắc thể hiện sự liên 
tưởng so sánh qua nhiều tầng nấc, như các từ đồng âm của các sự vật khác nhau, lời cầu chúc giàu ý 
nghĩa qua các chữ chua nghĩa trong tranh Đó là minh chứng cho thấy người Việt xưa có kiến thức 
phong phú và tâm hồn giàu cảm xúc.
Từ khóa: Tranh dân gian, mỹ thuật, biểu tượng, người Việt
Abstract
Folk paintings are Vietnamese’s precious treasures of cultural heritage. The article studies the folk 
paintings of Dong Ho, Hang Trong and Kim Hoang to learn Vietnamese people’s spirit through the 
symbolic meanings of paintings. Sometimes the meaning of paintings is simply expressed in pig or 
chicken which symbolizes prosperity of farm life but most of the folk paintings have profound meanings 
shows the comparative association between many levels such as the homophones of different things, 
the wishes with rich meanings through the meaningful words on the paintings... That is the proof that 
the ancient Vietnamese had rich knowledge and emotional souls.
Keywords: Folk paintings, fine arts, symbols, Vietnamese people
Qua hàng ngàn năm sinh tồn và phát triển, người Việt đã để lại nhiều di sản văn hóa đậm đà bản sắc dân 
tộc. Một trong những di sản đó là tranh dân 
gian. Tranh dân gian kể cho chúng ta khá 
nhiều về cuộc sống, sinh hoạt và cả tâm thức 
của những người dân quê, dân nghèo thành 
thị gửi gắm trong đó.
Trong quá trình sưu tầm, khảo sát và 
nghiên cứu ba dòng tranh dân gian chủ yếu 
của người Việt (Đông Hồ, Hàng Trống và Kim 
Hoàng), chúng tôi nhận thấy người Việt gửi 
gắm vào đây nhiều ước vọng trong cuộc sống. 
Những ước vọng này được thể hiện trong 
ngôn ngữ nghệ thuật đồ họa và hội họa. Nhiều 
khi những ước vọng đơn giản không có ẩn ý, 
nhưng cũng có khi ước vọng được gửi gắm 
qua điển tích, qua sự đồng nghĩa, đồng âm với 
chữ Hán - Nôm, sự liên tưởng khá phức tạp, đòi 
hỏi phải có sự giải mã công phu hơn.
1. Vài nét về tranh dân gian của người Việt 
Tranh dân gian là một trong những món 
ăn tinh thần không thể thiếu được của người 
Việt, nhất là trong dịp tết đến, xuân về. Không 
phải là không có lý khi nhiều nhà nghiên cứu 
mỹ thuật còn gọi tranh dân gian là tranh Tết [7, 
tr. 251], vì tranh chủ yếu được bán vào dịp Tết, 
nhất là tranh chúc tụng. Chúng tôi xin điểm 
qua vài nét về đặc điểm và niên đại của các 
dòng tranh dân gian chủ yếu:
Tranh Đông Hồ là một trong ba dòng tranh 
dân gian nổi tiếng nhất của nước ta. Đông Hồ 
là địa danh của thôn Đông Khê, xã Song Hồ, 
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một 
làng thuần Việt, nép mình vào bờ nam sông 
Đuống, cách Hà Nội khoảng 30km về hướng 
đông bắc. Xưa kia, làng có tên cổ là Đông Mại 
hay có tên Nôm là làng Mái thuộc tổng Hồ, 
huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, trấn Kinh 
Bắc. Tranh Đông Hồ có thể ra đời từ trước thế 
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
55Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
kỷ XVII, nhưng đến thế kỷ XVII thì nghề làm 
tranh ở Đông Hồ mới nở rộ, căn cứ vào sự so 
sánh giữa đề tài tranh Đông Hồ với nghệ thuật 
chạm khắc đình làng nở rộ ở vùng Kinh Bắc 
thời Lê Trung Hưng. Tranh Đông Hồ còn được 
mệnh danh là dòng “tranh điệp” vì sản xuất 
trên giấy có quét điệp, cách in là in nét và in 
mảng bằng ván úp [1].
Tranh Hàng Trống được gọi theo tên một 
phố cổ, hiện nằm giữa quận Hoàn Kiếm, nội 
thành Hà Nội. Có một thời người ta vẽ tranh, 
in tranh và bày bán tranh ở nhiều phố trung 
tâm Hà Nội như Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng 
Gai, Hàng Hòm, Hàng Quạt, Hàng Gà, Hàng 
Đẫy Đó là những phố tập trung trong tổng 
Tiên Túc, sau có tên gọi khác là tổng Thuận Mỹ 
thuộc huyện Thọ Xương xưa kia. Vì thế, có nhà 
nghiên cứu đề nghị gọi là dòng tranh Hà Nội, 
vì nhiều phố ở Hà Nội bán tranh dân gian vào 
dịp Tết chứ không riêng gì Hàng Trống. Tranh 
Hàng Trống có đặc điểm là in trên nền giấy 
trắng, vì thế thường được mệnh danh là dòng 
“tranh trắng”, cách in bằng mộc bản có kết hợp 
với vẽ tay. Cách in tranh Hàng Trống là in ngửa 
ván, khác hẳn với cách in của tranh Đông Hồ 
[8]. Tranh được bán phục vụ cho thị dân Hà 
Nội, sau này còn phục vụ cho tín ngưỡng của 
một số dân tộc miền núi phía bắc. Tranh Hàng 
Trống ra đời muộn hơn tranh Đông Hồ, có thể 
vào khoảng thế kỷ XVIII. 
Tranh Kim Hoàng là dòng tranh do dân 
làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, 
Hà Nội sản xuất. Các nhà nghiên cứu văn hóa, 
mỹ thuật mệnh danh dòng tranh này là “tranh 
đỏ” vì thường được in, vẽ trên nền giấy nhuộm 
đỏ. Tranh có thể có niên đại khoảng đầu thế 
kỷ XVIII, qua so sánh với việc dựng đình Kim 
Hoàng mà bia chùa làng có khắc là vào năm 
1701, thời điểm dựng đình Kim Hoàng, là đình 
hợp nhất của hai làng Hoàng Bảng và Kim 
Bảng, trong đình có nhiều mảng khắc chạm 
có mang phong cách giống với tranh dân gian. 
Cách in tranh Kim Hoàng cũng là in ván ngửa 
kết hợp với vẽ tay [7]. Dòng tranh Kim Hoàng 
đã có thời bị thất truyền và ngày nay đang 
từng bước được phục hồi.
Những người thợ vô danh làm tranh dân 
gian Đông Hồ, Kim Hoàng là những người 
nông dân, sản xuất tranh để phục vụ nông 
dân, vì thế nội dung tranh cũng phải thích 
hợp với tâm thức của người nông dân. Thợ làm 
tranh Hàng Trống cũng từ những làng quê có 
nghề khắc gỗ, vẽ tranh ở các tỉnh quanh Hà 
Nội tụ tập quanh khu vực Hồ Gươm để sản 
xuất tranh tự bán hay bán thông qua các cửa 
hàng chuyên bán tranh ở Hà Nội. Các đề tài 
của tranh Hàng Trống vì thế cũng là đề tài làng 
quê, tín ngưỡng
2. Ước vọng của người Việt biểu đạt trong 
tranh dân gian
2.1. Ước vọng của người Việt biểu đạt ý 
nghĩa trực tiếp qua các biểu tượng 
Người Việt xưa chủ yếu là nông dân làm 
ruộng nước. Cuộc sống nhà nông phụ thuộc 
thiên nhiên, đôi khi mất mùa do lũ lụt, hạn hán. 
Hơn ai hết, họ chỉ muốn đời sống no đủ, yên 
ấm, hạnh phúc đơn sơ quanh mái nhà tranh, 
tình làng nghĩa xóm. Vì thế, tranh dân gian có 
nhiều con vật được coi là biểu tượng của sự no 
đủ. Đó là con lợn và con gà. Tần suất của hai 
con vật này xuất hiện trong tranh khá nhiều. 
Có khi tranh dân gian còn được gọi một cách 
dân dã là “tranh lợn gà”: “Tranh Đông Hồ gà lợn 
nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy 
điệp” (Thơ Hoàng Cầm).
Hình tượng con lợn no đủ có mặt trong cả 
ba dòng tranh dân gian. Khi thì miêu tả một 
chú lợn béo tròn đang ăn lá ráy hay vục đầu 
vào nồi cám (tranh lợn độc), khi là đàn lợn 
gồm 1 lợn mẹ và 5 lợn con vây quanh (tranh 
lợn đàn). Tranh lợn dường như không có chua 
nghĩa chữ Hán - Nôm, nhưng tự nó đã biểu 
tượng sự no đủ, người nông dân luôn gắn bó 
với vườn tược, chăn nuôi, vì thế mà con lợn trở 
nên gần gũi với đời sống thường nhật. Có thể, 
thông qua hình tượng đàn lợn, người nông 
dân còn gửi gắm thêm một mong ước nữa: 
mong có con đàn cháu đống với ý nghĩa phồn 
thực. Đó là một tín ngưỡng cổ xưa, người Việt 
muốn con người cũng sinh sôi nhiều như các 
loài vật, hay ngược lại, mong muốn các loài vật 
bắt chước con người mà sinh sôi (như trường 
hợp chiếc thạp đồng Đào Thịnh đựng thóc 
giống, trên nắp thạp có tượng người đang 
giao hoan, có ý nghĩa mong muốn thóc cũng 
bắt chước người mà nảy nở, phồn thực). 
Số 28 - Tháng 6 - 201956
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Hình tượng con gà cũng vậy, trong tranh 
khi thì gà trống đẹp mã đứng một mình, có 
thể thêm chữ Hán chua nghĩa: “Đại cát” (Tốt 
lành, may mắn); có khi tranh gà lại gồm 1 con 
mái và đàn con (tranh gà đàn), cũng mang ý 
nghĩa chúc cho may mắn, đông con nhiều 
cháu. Nhiều trường hợp, như ở tranh dân gian 
Hàng Trống, người nông dân còn vẽ nhiều gia 
súc (lợn, chó, trâu, bò), gia cầm (gà, chim) bên 
cạnh cảnh lao động sản xuất của nhà nông 
(tranh Canh nông chi đồ). 
Biểu tượng cho mong muốn sinh con trai 
cũng được tranh dân gian miêu tả trực tiếp, 
đơn giản chỉ là vẽ một bé trai ngộ nghĩnh, 
mũm mĩm, có thể trên tay cầm một quả phật 
thủ, trái đào hay ôm con cá, con tôm, con rùa, 
con cóc, con mèo Những ước vọng này đều 
cụ thể, trực tiếp phản ánh mong muốn của 
người Việt về cuộc sống thanh bình, no đủ, 
nhiều khi chỉ qua mô tả cảnh tượng sinh hoạt, 
lao động sản xuất. Có thể xếp vào nhóm đề 
tài này những cảnh chú bé cưỡi trâu thổi sáo, 
thả diều, đọc sách, đấu vật, kéo co, chơi cá, sản 
xuất nông nghiệp (tranh về các công đoạn làm 
nông, buôn bán như tranh “nhất bản vạn lợi” 
(một vốn bốn lời), “tích ngọc đồi kim” (vàng 
ngọc chất đống), “chiêu tài tấn bảo” (tài lộc 
ngày một nhiều), “bách mẫu dư điền” (có trăm 
mẫu ruộng), bốn nghề sĩ nông công thương, 
các trò chơi kéo co, đấu vật, đánh ghen, hái 
dừa
Bên cạnh những mong muốn về đời sống 
vật chất, ấm no, người Việt còn mong cho con 
cháu học hành, đỗ đạt làm quan, tiến thêm 
một bước là giàu sang, phú quý. Điển hình cho 
nhóm đề tài này là các bức tranh miêu tả sự 
hiếu học: có tranh vẽ cậu bé vừa dỗ em vừa 
đọc sách; có tranh vẽ ông quan mũ cao áo dài 
tay cầm trượng như ý, tay cầm sách, bên trong 
có chữ “Tiến lộc” với hàng chữ chua nghĩa: “Cao 
lộc thăng vị” (nhiều bổng lộc, thăng quan tiến 
chức). Một ông quan khác cũng cầm trượng 
như ý và cầm sách nhưng bên trong có chữ 
“Tiến tài” với hàng chữ chua nghĩa: “Tài hằng 
nguyên chí” (tiền bạc nhiều như nước) [4, tr.87]. 
Hai bức tranh dân gian này phản ánh ước vọng 
đổi đời, mong cho con cháu giàu sang, quyền 
quý. Bên cạnh đó, người Việt còn mong cho 
gia đình êm ấm, thể hiện qua những bức tranh 
như “nhất gia hòa khí, tử tôn hiền” (gia đình 
thuận hòa, con cháu ngoan ngoãn), “đắc thọ 
đa nam tử” (chúc sống lâu và nhiều con trai), 
“hữu phúc khán nhi tôn” (có phúc sống lâu để 
nhìn con cháu), “xuất môn nghênh bách phúc” 
(ra đường đón nhiều điều phúc), “nhập hộ 
chúc tam đa” (về nhà có phúc, lộc, thọ). 
2.2. Ước vọng của người Việt biểu đạt ý 
nghĩa trực tiếp qua câu chữ 
Người Việt xưa có khi biểu đạt mong ước 
của mình qua những bức đại tự. Những chữ 
này được viết và trang trí mỹ thuật hoặc được 
in bằng các ván khắc. Có lẽ đây là loại tranh 
dân gian đặc biệt vì chỉ có chữ mà không có 
người, động vật hay cảnh quan. Phổ biến nhất 
là loại tranh có chữ Thọ hay chữ Phúc. Những 
chữ này được viết hay vẽ khá cách điệu. Nghĩa 
của các chữ này cũng là nghĩa trực tiếp, mong 
muốn cho người sở hữu tranh được thọ, hưởng 
phúc dài lâu. Trong nhóm tranh dân gian dùng 
đại tự biểu đạt sự mong ước này còn có thể kể 
đến các chữ Phú, Quý, Đức, Nhân, Nghĩa, Trí, 
Tín, Khang, Ninh, Kim Đôi khi còn có các đại 
tự như “Phúc mãn đường” (Phúc đầy nhà) hay 
“Đức lưu quang” (Đức độ lưu lại mãi như ánh 
sáng) là chữ có kích thước khá lớn mà người 
thợ làm tranh Kim Hoàng xưa còn lưu lại sau 
những năm tháng dòng tranh này bị thất 
truyền [7]. Một số trường hợp, còn có câu chữ 
dài hơn như “Phúc như Đông Hải, Thọ tỷ Nam 
Sơn” (Phúc như biển Đông, Thọ như núi nước 
Nam). 
Để những bức đại tự đẹp hơn về góc độ mỹ 
thuật, người thợ làm tranh thường có thêm 
các họa tiết trang trí phụ như 28 chòm sao hay 
hình tượng 24 tấm gương về lòng hiếu thảo 
được lồng gọn trong đường viền của chữ. 
Trong nhóm tranh dân gian này, chủ đề chính 
vẫn là chữ, cũng là một tạo hình đẹp, đầy chất 
đồ họa, còn những trang trí dẫu là sao, người, 
hoa lá, chỉ làm nền cho ý nghĩa trực tiếp qua 
ngữ nghĩa của chữ mà thôi.
2.3. Ước vọng của người Việt biểu đạt qua 
liên tưởng ý nghĩa của vật và người
Ở một góc độ nào đó, khi người thợ làm 
tranh dân gian làm ra tranh lợn, gà đã là một 
biểu tượng của sự sung túc, no đủ, phồn thực 
57Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ở ngay hình dáng của chúng. Nhưng ở cấp độ 
cao hơn, họ còn tìm được cái biểu tượng của 
các con vật này, chẳng hạn là con gà. Với sự 
liên tưởng phong phú, người Việt cho rằng con 
gà có tiếng gáy đánh thức ban mai, mặt trời, có 
khi còn phong cho gà là thần như trong bức 
tranh “Thần kê” của dòng tranh Kim Hoàng. 
Tiếng gáy của gà vang lên còn xua tan bóng 
đêm, quỷ dữ, bảo hộ cuộc sống dân lành. Nhìn 
từ góc độ này, gà được coi như một vị thần 
“trấn trạch”. Người dân quê thường mua tranh 
gà theo cặp đôi để dán ở cửa nhà với mục đích 
trấn trạch, trấn môn. 
Cặp tranh gà Kim Hoàng được người dân 
quê mua nhiều, không những đẹp về màu sắc 
(ta có thể còn được ngắm qua bản gốc ở Bảo 
tàng Mỹ thuật Việt Nam), mà còn có những 
dòng thơ chữ Hán - Nôm được chua trong 
tranh, lại có cả hình tượng bùa chú kèm theo 
nữa. Có thể nhận thấy, đôi tranh gà Kim Hoàng 
là một dạng bùa chú dán cửa, xua tà ma, trấn 
trạch. Tranh bên phải có bài thơ sau: 
Thi vấn:
Thần kê ngũ đức, thái phượng hình
Hạng thượng Côn cương, đẩu hoán thanh
Quỷ khốc thần kinh, tà tẩu tán
Trấn chi môn hộ, thọ trường sanh
Thơ rằng:
Thần Gà trống có năm đức tính, giống như 
chim phượng
Cổ giương cao, mào dựng ngược lên khi gáy
Quỷ khóc thần sầu, mọi tà ma đều biến hết
Có gà trống trước cửa, gia chủ sẽ được trường 
thọ [4, tr.111].
Dịch sát nghĩa là: Con gà được phong thành 
thần với 5 đức: văn, võ, dũng, nhân và tín, lại đẹp 
như phượng hoàng. Cổ giương cao, mào dựng 
ngược lên khi gáy. Làm cho quỷ phải khóc, tà 
ma phải chạy. Thần gà đã trấn giữ trước cửa, 
giúp cho gia chủ sống lâu muôn tuổi.
Tranh bên trái có bài thơ:
Thi vấn:
Đông phương di hiệu, thực tà thần
Kim cự, hoa quan, ngũ thái văn
Hộ hộ khả lân, quần quỷ tỵ 
Môn môn trùng khánh, vạn niên xuân
Thơ rằng:
Ở phương Đông ngày xưa, người ta gọi là kẻ 
nuốt tà ma
Đôi cựa sắc như kim khí, mào đỏ và bộ lông 
ngũ sắc
Trước ngõ, ra lệnh cho ma quỷ phải lui
Trước cửa, mang hạnh phúc đến cho mọi nhà 
mỗi năm xuân đến
Dịch sát nghĩa là: Gà thần là biểu hiện của 
phương Đông, trấn trị tà ma. Cựa gà sắc như 
kim khí, mào hoa và bộ lông ngũ sắc. Trước 
ngõ, ra lệnh cho ma quỷ phải lui. Trước cửa, 
mang hạnh phúc đến cho mọi nhà mỗi năm 
xuân đến [7, tr.183-186].
Người Việt tạo ra khá nhiều tranh dân gian 
thể hiện ước vọng của mình qua sự liên tưởng 
phong phú giữa các vật, động vật và con 
người Có thể kể ra những ví dụ điển hình:
Quả đào biểu tượng cho sự trường thọ. Có 
thể, biểu tượng quả đào tiên liên quan đến 
truyền thuyết về vườn đào Thượng uyển có 
mặt trong nhiều cốt truyện như trong truyện 
Tây Du Ký chẳng hạn. Người nào ăn được đào 
sẽ trường sinh bất lão. 
Quả lựu biểu tượng cho việc sinh sôi nảy 
nở, đông con nhiều cháu. Có lẽ, người xưa đã 
có tư duy liên tưởng khi thấy quả lựu được bổ 
ra có rất nhiều hạt bên trong, họ đã mong cho 
mình cũng sinh ra đàn con đông đúc như vậy.
Chim công biểu tượng cho sự thanh bình 
và phồn vinh. Có lẽ loài chim này đẹp mã lại 
múa giỏi, thể hiện cái đẹp, cái tài giỏi trong 
cuộc sống thanh tao.
Chim hạc và rùa là hai động vật luôn cặp 
đôi với nhau như trong câu ca về thân phận 
con rùa “lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia”. 
Hai con vật này tượng trưng cho sự trường thọ. 
Có lẽ, người xưa liên tưởng đến đời sống của 
loài rùa có khi kéo dài đến hơn trăm năm.
Con cóc ba chân tượng trưng cho sự đỗ đạt 
trong thi cử, giàu sang. Nếu là cóc tía thì còn 
tượng trưng cho sự dũng mãnh, không sợ bất 
kỳ điều gì. Có lẽ do người xưa quan sát thấy cóc 
khi bị dồn đến đường cùng thì phùng mang, 
trợn mắt đối mặt với kẻ thù mà không sợ hãi 
trốn đi, vì thế mà có câu “gan như cóc tía” 
Số 28 - Tháng 6 - 201958
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Một số biểu tượng trẻ em mũm mĩm, đẹp 
đẽ thể hiện ý nghĩa chúc cho con cháu xinh 
đẹp, đầy nhà; các quan văn thể hiện sự thành 
đạt, quyền cao chức trọng. Nhiều trường hợp, 
các vị quan còn cầm trong tay một quyển sách. 
Đó chính là biểu tượng của sự học hành, đỗ 
đạt, quyền quý, phẩm tước; các cụ già có râu 
tóc bạc phơ là biểu tượng trường thọ 
2.4. Ước vọng của người Việt biểu đạt qua 
liên tưởng vật, sự kiện có tên gọi đồng âm
Nhiều thế kỷ qua, người Việt đã lấy chữ Hán 
và chữ Nôm (Quốc âm) làm phương tiện giao 
tiếp, học hành, thi cử và cả làm thơ nữa. Họ 
còn có tư duy liên tưởng âm đọc của chữ Hán 
- Nôm có sự liên hệ với cuộc sống vật chất và 
tinh thần của họ. Vì thế, trong nhiều ước vọng, 
thông qua tranh dân gian, họ đã gửi gắm vào 
tranh cách suy nghĩ đa tầng ngữ nghĩa, mà 
nếu không hiểu sự tích, ý nghĩa sâu xa của sự 
vật thì sẽ khó mà đoán định ý nghĩa thực sự 
của tranh là gì.
Hình tượng con gà trong tranh ngoài ý 
nghĩa mong cho cuộc sống no đủ, chúng ta 
còn thấy con gà trống có âm đọc là kê, đồng 
âm với chữ cát (nghĩa là cát tường, tốt lành). Vì 
thế, con gà còn biểu tượng cho sự cát tường 
nữa. Tranh Đông Hồ có mặt gà trống, lại còn 
được chua chữ “Đại cát” là vì vậy.
Hình tượng con cá (âm đọc là ngư) khá gần 
với chữ dư (nghĩa là dư thừa), đã cho thấy tư 
duy liên tưởng này được thể hiện con cá chép 
trong tranh dân gian “Lý ngư vọng nguyệt” (Cá 
chép trông trăng), mong cho cuộc sống được 
dư dật, của ăn của để. 
Hình ảnh chiếc bình sứ trong tranh cũng 
thể hiện mong ước cuộc sống bình an, vô sự. 
Âm đọc của chiếc bình gần với âm đọc của chữ 
bình trong câu bình an. Hình ảnh của cây hoa 
sen (liên) gần với âm liên chỉ sự liên tục, tiếp 
nối, thể hiện ước vọng nhiều thế hệ tiếp nối 
sự nghiệp. Hoa cúc đồng âm với chữ cửu nên 
được coi là biểu tượng của sự vĩnh cửu, trường 
tồn. Cũng vậy, hoa cúc còn đồng âm với chữ cư 
(định cư). Hình ảnh con tuần lộc đồng âm với 
chữ lộc, hàm ý chúc nhau nhiều bổng lộc. Con 
bướm có âm là điệp, đồng âm với chữ điệt, chỉ 
người già 70 - 80 tuổi, biểu hiện ước vọng sống 
lâu muôn tuổi. Một loại quả hồ lô có âm gọi là 
đái, đồng âm với chữ đại (đời, thế hệ, vạn đại) 
thể hiện sự mong ước trường thọ, muôn đời 
con cháu nối dõi. Hình ảnh của bông hoa, gợi 
nên từ vinh hoa, thể hiện điều cầu chúc danh 
vọng. 
Sự liên tưởng giữa các từ đồng âm để 
mong ước có sự đồng nghĩa đã là một giá trị 
văn hóa của nhiều nước phương Đông, trong 
đó có Việt Nam, thể hiện một niềm tin, tín 
ngưỡng có từ lâu và kéo dài cho đến tận ngày 
nay (trường hợp của cách chọn số trên biển 
xe máy, ôtô, hay điện thoại di động hiện nay 
cho thấy điều đó). Người Việt ngày nay chuộng 
con số 6 (theo chữ Hán là lục, gần với âm lộc 
nghĩa là bổng lộc), số 8 (bát, gần với âm phát 
nghĩa là phát tài), có khi hai số ghép lại là lộc 
phát hay phát lộc. Sự liên tưởng giữa âm của 
sự vật, động thực vật, người, đã được thể 
hiện trong tranh dân gian qua nhiều thế hệ, 
nếu không đi sâu tìm hiểu thì sẽ chẳng thể nào 
giải thích được ý nghĩa phong phú của tranh.
2.5. Ước vọng đa nghĩa của người Việt 
biểu đạt qua sự phối hợp giữa các biểu tượng
Các dòng tranh dân gian của người Việt khá 
phong phú về ý nghĩa biểu tượng. Có khi đơn 
nghĩa, nhìn thấy hình ảnh con lợn béo tròn thì 
đấy là mong muốn cuộc sống sung túc. Nhưng 
nhiều khi, tranh dân gian thể hiện các vật, đồ 
vật, người theo cách đa nghĩa, liên tưởng đồng 
âm với vật khác. Một số trường hợp lại thể hiện 
tổng hợp, pha trộn giữa các biểu tượng đa 
nghĩa trong mối tương quan với nhau [4, tr.24]. 
Biểu tượng của hoa đào là cái đẹp và mùa 
xuân. Nhưng hoa đào và quả đào cũng tượng 
trưng cho sự bất tử, trường thọ. Nhiều trường 
hợp, trong tranh dân gian, quả đào được một 
ông lão râu tóc bạc phơ, biểu tượng của ông 
Thọ cầm trên tay (tranh “Đào hiến thiên xuân” - 
Đào dâng ngàn mùa xuân) thể hiện ước mong 
và cầu chúc sống lâu muôn tuổi. Có những bức 
tranh dân gian kết hợp được các biểu tượng với 
nhau: quả đào có 5 con dơi vây quanh, tượng 
trưng cho “ngũ phúc” (5 điều phúc: sống lâu, 
giàu sang, an vui, may mắn, nhiều phúc đức). 
Trong tiếng Hán, con dơi có tên là biên phúc, 
chữ phúc này lại đồng âm với chữ phúc trong 
hạnh phúc, nên hình tượng con dơi thường 
được sử dụng trong tranh cầu phúc. Tranh dân 
59Số 28 - Tháng 6 - 2019
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
gian có hình tượng hoa cúc vạn thọ, con dơi, 
hoa đào và các dải nơ dài vô tận (gọi là bàn 
trường) kết hợp với nhau và cho ra một lời cầu 
chúc như sau: chúc cho người sở hữu tranh 
được sống lâu, hạnh phúc mãi mãi. Hình ảnh 
hoa cúc (gần âm với chữ cử) đôi khi được kết 
hợp với chim vàng anh (gọi là Hoàng tước) mà 
chữ hoàng gần âm với chữ hoan (vui vẻ, hân 
hoan) mang một ý nghĩa cầu chúc là “cử gia 
hoan lạc” (mọi nhà đều vui). 
Trong tranh dân gian còn có sự phối hợp 
giữa hình ảnh quả phật thủ (tay Phật, tượng 
trưng cho sự trường thọ) với con bướm (điệp, 
gần âm với chữ điệt), với ý nghĩa cầu chúc 
“điệt thọ”. Có khi 3 loại quả phật thủ, đào, lựu 
cùng phối hợp với nhau trong tranh để tạo 
nên ý nghĩa của lời chúc. Phật thủ có chữ phật 
gần âm với chữ phúc, đào biểu tượng của thọ, 
lựu biểu tượng cho sự đông con cháu. Như 
vậy, biểu tượng 3 loại quả này cùng có mặt 
trong tranh đã thành một lời chúc mang ý 
nghĩa: chúc thọ, chúc phúc, chúc nhiều con 
trai, tương ứng với hình tượng của bộ ba Tam 
Đa trong tranh Tam Đa: Đa phúc, đa thọ, đa 
nam tử. 
Quả lựu nhiều hạt, tượng trưng cho đông 
con cháu. Trong tranh “Lựu khai bách tử” (quả 
lựu sinh ra 5 người con), có khi thể hiện là quả 
thạch lựu có nhiều hạt; đôi khi lại vẽ 5 cậu bé 
sinh ra từ quả lựu liên quan đến truyền thuyết 
về ngũ tử, 5 người con trai trong nhà đều 
thành đạt thời Tống. 
Hình ảnh quả thị, có âm là từ thị, gần với âm 
sự trong từ công việc, được kết hợp với cây gậy 
như ý và dải nơ dài (bàn trường) đã cho thấy 
ý nghĩa câu chúc: Chúc cho công việc làm ăn 
mãn nguyện và kéo dài vô tận.
Hình ảnh cây ngô đồng, có chữ đồng, cùng 
âm với chữ đồng nghĩa là đồng lòng, được 
phối hợp với hình ảnh chim hạc và hươu (lộc), 
đã cho thấy ý nghĩa của câu chúc: Mong cho 
người có tranh trường thọ giống như chim 
hạc và nhiều lộc như hươu. Hình ảnh chim sáo 
(hỷ tước) đậu trên cây ngô đồng cũng chuyển 
tải một câu chúc: Cầu cho mọi người đều vui 
(đồng hỷ). 
Bức tranh dân gian có hình em bé đeo 
khánh vàng đang ngắm cá biểu đạt ý nghĩa 
qua những biểu tượng: khánh vàng có từ 
khánh đồng âm với từ khánh trong khánh 
thành, chúc mừng. Con cá có âm ngư gần với 
chữ dư trong nghĩa dư dả. Câu này đã thể hiện 
một câu chúc: Mong cho của cải dư dả, đời 
sống an vui và có con trai nối dõi. Hình ảnh 
cây mai thường được xuất hiện cùng với cây 
trúc trong cặp “trúc mai” gần âm với chữ “chúc 
mọi” (chúc mọi điều tốt lành). Hình tượng cây 
quế có âm gần với chữ quý (quý tử), kết hợp 
với hình ảnh một thiếu niên cưỡi trên lưng con 
kỳ lân (có ý nghĩa chỉ thời kỳ hòa bình, hạnh 
phúc). Cậu bé cầm hoa sen (liên), một cây sáo 
(sinh) và một cành quế thì ý nghĩa của các biểu 
tượng này khi kết hợp với nhau là: thời kỳ thái 
bình kéo dài liên tiếp và sinh được quý tử. 
Hình tượng rồng giữa đám mây (Long vân 
khánh hội) đang quấn quýt với chữ đại tự Phúc 
hoặc Thọ, đã cho thấy ý nghĩa của câu chúc: 
Người tài giỏi như rồng gặp vận may, như 
rồng gặp mây vậy. Hình tượng rồng thường đi 
cặp với hình tượng chim phượng có ý nghĩa 
biểu tượng niềm vui và hạnh phúc. Có khi có 
hình ảnh phượng ngậm sách với hàm ý mong 
muốn sâu xa là mong cho sự học hành tấn tới, 
thành đạt. 
Kết luận
Đời sống vật chất của người Việt luôn gắn 
với những giá trị tinh thần để đạt ước vọng về 
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, đời sống 
tinh thần luôn có giá trị song hành cùng với sự 
phát triển của xã hội. Người xưa luôn thể hiện 
ước vọng của mình qua các nghi thức, nghi lễ 
đối với thần linh, coi đó là niềm tin, chỗ dựa 
tinh thần. Những ước vọng đó được thể hiện 
qua sự kết tinh, tư duy sáng tạo trong lịch sử 
tạo hình của người Việt.
Trong những loại hình nghệ thuật tạo hình 
của người xưa để lại, tranh dân gian là loại hình 
nghệ thuật gần gũi nhất với đời sống, sinh 
hoạt của cư dân nông nghiệp. Tranh dân gian 
của người Việt là di sản quý giá, không những 
về mặt mỹ thuật mà còn phản ánh tâm tư, ước 
vọng của họ qua nhiều thế kỷ. Những bức 
tranh dân gian mộc mạc đã nói giúp những 
người nông dân, thị dân mong muốn có cuộc 
sống no đủ, yên bình, con cháu đầy nhà qua 
các hình vẽ biểu tượng trực tiếp như vẽ con 
Số 28 - Tháng 6 - 201960
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lợn, con gà, trẻ con,... hay các chữ đại tự như 
chữ Phúc, Lộc, Thọ. Có khi, ước vọng của họ 
thầm kín hơn, thông qua sự liên tưởng âm đọc 
chữ Hán gần gũi với tên gọi các vật, động vật 
được thể hiện trong tranh. Qua nghiên cứu 
tranh dân gian, chúng ta có thể hiểu được tư 
duy và tâm thức của người Việt bao đời nay. 
Lịch sử phát triển của tranh dân gian cho ta 
thấy: Tranh dân gian ngoài những ý nghĩa, 
biểu tượng tâm linh (tranh thờ), ước vọng của 
con người (tranh phong thủy), còn là một thú 
chơi thanh tao, thể hiện sự hiểu biết, đề cao 
giáo dục gia phong trong các gia đình.
Đời sống tinh thần của con người càng 
được nâng cao thì tính đa dạng của tranh dân 
gian càng được thể hiện qua các chất liệu, 
nội dung, mang tính đặc trưng của mỗi 
làng nghề. Tranh Đông Hồ thể hiện tính dân 
gian trên chất liệu giấy quét điệp (tranh điệp); 
tranh Hàng Trống chủ yếu là tranh chơi Tết 
phục vụ cho người dân thành thị, được thể 
hiện trên giấy trắng (tranh trắng); tranh Kim 
Hoàng thường được in trên nền giấy màu đỏ 
(tranh đỏ). Ngày nay, tranh dân gian không 
chỉ được thể hiện trên các chất liệu truyền 
thống mà nó còn được chuyển thể trên các 
chất liệu khác như: gốm, gỗ, sơn dầu Với 
những giá trị tinh thần của dòng tranh dân 
gian và sức sống lâu bền của nó trong xã 
hội hiện đại đã phần nào cho thấy đời sống 
tinh thần của người Việt là sự kế thừa, kết tụ 
những tinh hoa, tinh túy của cha ông. 
P.L.T
 (ThS., Khoa Du lịch, Trường ĐHVHHN)
T.S 
(GS.TS, Viện Khảo cổ học, 
Viện Hàn lâm KHXHVN) 
Tài liệu tham khảo
1. An Chương (2010), Tranh dân gian Đông Hồ, 
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. 
2. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới 
biểu tượng trong di sản văn hóa Thăng Long, Nxb. 
Hà Nội, Hà Nội. 
3. Durand M. (2000), “L’imagerie populaire 
vietnamiene” (Tranh dân gian Việt Nam), in trong 
sách Nhìn lại một thế kỷ nghiên cứu khoa học, Viện 
Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam: 1900-2000, 
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
4. Durand M. (2017), Tranh dân gian Việt Nam 
(Sưu tầm và nghiên cứu), Philippe Papin, Marcus 
Durand biên soạn, Nguyễn Thị Hiệp, Olivier 
Tessier dịch và giới thiệu, Nxb. Văn hóa - Văn 
nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 
5. Trương Minh Hằng (2006), Làng nghề thủ 
công mỹ nghệ miền Bắc, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. 
6. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử mỹ thuật 
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Thu Hòa, Trịnh Sinh, Lê Bích 
(2019), Dòng tranh dân gian Kim Hoàng, Nxb. Thế 
giới, Hà Nội. 
8. Phan Ngọc Khuê (2015), Tranh dân gian 
Hàng Trống, Nxb. Hà Nội, Hà Nội. 
9. Laubie Y. (1937), “Suy nghĩ về tranh dân 
gian ở Bắc Kỳ”, in trong sách Những người bạn Cố 
đô Huế (B.A.V.H), bản dịch năm 2010, tập XXIV, 
Nxb. Thuận Hóa, Huế. 
10. Oger H. (1909), Administrateur des services 
civils en Indochine, Technique du people Annamite 
(encyclopedie de la civilization materielle du 
pays d’Annam). 
11. Oger H. (2009), Introduction générale à 
l’etude de la technique du people Annamite, Olivier 
Tessier, Philippe Le Failler chủ biên, Viện Viễn 
Đông Bác cổ dịch và tái bản. 
12. Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung 
Khắc Lược (1999), Đồ họa cổ Việt Nam, Nxb. Mỹ 
thuật, Hà Nội. 
13. Chu Quang Trứ (2002), Văn hóa Việt Nam, 
nhìn từ mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
14. Nguyễn Bá Vân, Chu Quang Trứ (1984), 
Tranh dân gian Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 
15. Viện Nghệ thuật, Bộ Văn hóa (1973), Về 
tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb. Văn 
hóa, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 8 - 02 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 27 - 4 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019

File đính kèm:

  • pdfcach_bieu_dat_uoc_vong_cua_nguoi_viet_trong_tranh_dan_gian.pdf