Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc rốn trẻ ở các bà mẹ: kết quả nghiên cứu dịch tễ học tại huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là một vấn đề y tế công cộng vì tần số cao trong cộng đồng
và có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng như tử vong ở trẻ em sơ sinh. Ơ Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ
lệ nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn dao động từ 23% đến 43%. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng mỗi
năm có khoảng nửa triệu trẻ em tử vong vì nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn, phần lớn xảy ra ở các nước
đang phát triển. Một trong những nguyên nhân của nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là do các bà mẹ thiếu
kiến thức, có thái độ không đúng, và thực hành chăm sóc rốn không thích hợp.
Mục tiêu: Nghiên cứu này có mục tiêu tìm hiểu các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng thiếu kiến thức
cũng như thái độ và thực hành không đúng ở các bà mẹ.
Phương pháp: Nghiên cứu được thiết kế như là một cuộc khảo sát cắt ngang và mô tả. Đối tượng
nghiên cứu gồm 265 bà mẹ mới sinh con (trẻ dưới 4 tháng tuổi) cư ngụ tại huyện Cần Giờ, một huyện ngoại
ô thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Kiến thức (như phương pháp chăm sóc, hiểu biết dịch tiết, thời gian rụng
rốn), thái độ (bao gồm tháo băng, không tắm rốn, giữ cuốn rốn khô sạch), và thực hành chăm rốn (như băng
rốn, bôi rốn, tắm rốn, lau rốn) được thẩm định bằng một bộ câu hỏi đã được kiểm định trước. Ba biến số
được tính từ kiến thức, thái độ, và thực hành: KA (kiến thức và thái độ), KP (kiến thức và thực hành), và
AP (thái độ và thực hành). Các yếu tố ảnh hưởng được nghiên cứu là độ tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thành
phần kinh tế, và được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp từng bà mẹ. Mô hình hồi qui đa biến logistic được
ứng dụng để phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố và KA, KP và AP.
Kết quả: Trong số 265 bà mẹ, có 30% có kiến thức đúng, 69% (n = 184) có thái độ đúng, và 33% (n =
88) có những thực hành đúng hay và thích hợp về chăm sóc rốn cho trẻ em.Phân tích hồi qui logistic cho
thấy tình trạng kinh tế gia đình khó khăn có liên quan đến kiến thức + thực hành và thái độ + thực hành
chăm sóc rốn.Những bà mẹ trên 25 tuổi và kinh tế gia đình trên trung bình có thái độ và thực hành chăm
sóc trẻ em đúng hơn các bà mẹ trẻ tuổi hay tình trạng kinh tế gia đình khó khăn.Kết quả phỏng vấn trực tiếp
phát hiện 3 nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành và thái độ chăm sóc trẻ em: nhân viên y
tế, người thân trong gia đình, và do chính bà mẹ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc rốn trẻ ở các bà mẹ: kết quả nghiên cứu dịch tễ học tại huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 1 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CHĂM SÓC RỐN TRẺ Ở CÁC BÀ MẸ: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC TẠI HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Huỳnh Thị Duy Hương* TÓM TẮT Mở đầu: Nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là một vấn đề y tế công cộng vì tần số cao trong cộng đồng và có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng như tử vong ở trẻ em sơ sinh. Ơ Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn dao động từ 23% đến 43%. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng mỗi năm có khoảng nửa triệu trẻ em tử vong vì nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn, phần lớn xảy ra ở các nước đang phát triển. Một trong những nguyên nhân của nhiễm khuẩn rốn và uốn ván rốn là do các bà mẹ thiếu kiến thức, có thái độ không đúng, và thực hành chăm sóc rốn không thích hợp. Mục tiêu: Nghiên cứu này có mục tiêu tìm hiểu các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng thiếu kiến thức cũng như thái độ và thực hành không đúng ở các bà mẹ. Phương pháp: Nghiên cứu được thiết kế như là một cuộc khảo sát cắt ngang và mô tả. Đối tượng nghiên cứu gồm 265 bà mẹ mới sinh con (trẻ dưới 4 tháng tuổi) cư ngụ tại huyện Cần Giờ, một huyện ngoại ô thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Kiến thức (như phương pháp chăm sóc, hiểu biết dịch tiết, thời gian rụng rốn), thái độ (bao gồm tháo băng, không tắm rốn, giữ cuốn rốn khô sạch), và thực hành chăm rốn (như băng rốn, bôi rốn, tắm rốn, lau rốn) được thẩm định bằng một bộ câu hỏi đã được kiểm định trước. Ba biến số được tính từ kiến thức, thái độ, và thực hành: KA (kiến thức và thái độ), KP (kiến thức và thực hành), và AP (thái độ và thực hành). Các yếu tố ảnh hưởng được nghiên cứu là độ tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thành phần kinh tế, và được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp từng bà mẹ. Mô hình hồi qui đa biến logistic được ứng dụng để phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố và KA, KP và AP. Kết quả: Trong số 265 bà mẹ, có 30% có kiến thức đúng, 69% (n = 184) có thái độ đúng, và 33% (n = 88) có những thực hành đúng hay và thích hợp về chăm sóc rốn cho trẻ em.Phân tích hồi qui logistic cho thấy tình trạng kinh tế gia đình khó khăn có liên quan đến kiến thức + thực hành và thái độ + thực hành chăm sóc rốn.Những bà mẹ trên 25 tuổi và kinh tế gia đình trên trung bình có thái độ và thực hành chăm sóc trẻ em đúng hơn các bà mẹ trẻ tuổi hay tình trạng kinh tế gia đình khó khăn.Kết quả phỏng vấn trực tiếp phát hiện 3 nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành và thái độ chăm sóc trẻ em: nhân viên y tế, người thân trong gia đình, và do chính bà mẹ. Kết luận: Tóm lại, tình trạng kinh tế gia đình và độ tuổi của bà mẹ có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh. Các kết quả này còn chỉ ra một nhu cầu cấp thiết cho một chương trình hướng dẫn về chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh, và một chương trình như thế cần phải có sự tương tác giữa ba nhân tố: nhân viên y tế, người thân, và bà mẹ. ABSTRACT SOCIO-ECONOMIC CORRELATES OF KNOWLEDGE, ATTITUDE, AND PRACTICE OF POST- NATAL CORD CARE AMONG MOTHERS IN CẦN GIỜ DISTRICT, HCMC Huynh Thi Duy Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 7-16 Background:The public health significance of umbilical infection and umbilical tetanus is well- recognized because these disorders can lead to sepsis and increased risk of mortality among newborn infants * Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 2 in developing countries. Hospital-based studies in Ho Chi Minh City suggested that the prevalence of umbilical infection and umbilical tetanus ranged between 23% and 43%. The World Health Organization estimates that annually, about half a million infants in the world, mostly from developing countries, die of umbilical infection and umbilical tetanus. One of the most important factors that lead to umbilical infection and umbilical tetanus is the traditional but unhygienic practice of cord care which has root in cultural background. Objectives: The present study was therefore designed to investigate the factors that affect the inadequate knowledge, attitude and practice of postnatal cord care among mothers. Method: The study was designed as a cross-sectional and descriptive investigation, in which 265 mothers with newborn babies (under 4 months old) were included. The mothers were residents of the Cần Giờ, a semi-rural district of Ho Chi Minh City. None of the children was diagnosed with umbilical infection or umbilical tetanus. Knowledge (methods of care, understanding of umbilical mucus, and time of umbilical removal), attitude towards hygiene of natal cord, and practice of cord care were collected by a structured questionnaire which had previously been validated. Three outcome variables were combined from the three primary variables to yield: KA (knowledge and attitude), KP (knowledge and practice), and AP (attitude and practice). Each outcome variable was dichotomized into correct versus incorrect score. In addition, data on mother’s age, occupation, educational levels, family economic status, and parity were also obtained from each mother by direct interview. These covariates were then analyzed in relation to the three outcome variables by the multiple logistic regression model. Results: The average age of mothers was 27 (range: 22-29), with approximately 60% having age above 25 years. Among the 265 mothers, 30%, 69% and 33% was deemed to have adequate knowledge, appropriate attitude, and correct practice of cord care, respectively. Mothers aged 25 or older and with economic hardship were found to have higher probability of poor KA, KP, and AP. Furthermore, qualitative analysis suggested that the practice and attitude of cord care were influenced by healthcare workers, relatives, and the mothers themselves. Conclusion: In summary, these results indicate that in the Can Gio community, economic hardship and mothers’ age were associated with knowledge attitude and practice of post-natal cord care. These results also underscore an urgent need for a educational program to help prospective mothers in the care of postnatal cord, and that such a program must incorporate the participation of healthcare workers and relatives. . ĐẶT VẤN ĐỀ Tại các nước đang phát triển, uốn ván rốn (UVR) và nhiễm khuẩn rốn (NKR) là những nguyên nhân chính đưa đến tử vong ở trẻ sơ sinh. Mỗi năm, theo tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) độ 500.000 trẻ chết do UVR và độ 460.000 trẻ chết vì những hậu quả của nhiễm khuẩn nặng(27). Một trong 3 yếu tố thường gặp sự tồn tại những hủ tục nuôi con, những thói quen tập quán có hại gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ ở cộng đồng dân cư. Từ 1984 có rất nhiều nghiên cứu, thảo luận quanh việc “chăm sóc rốn như thế nào là an toàn và lợi ích nhất”, nhằm tránh NKR, UVR xảy ra tại bệnh viện cũng như khi trẻ xuất viện về nhà, tập trung chủ yếu tại các nước phát triển(11,21,28,29). Tại những nước đang phát triển còn ít nghiên cứu về vấn đề này(9,15,19,26). Tại Việt Nam, tỷ lệ NKR được ghi nhận tại các Bệnh viện (BV) Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi từ 23% đến 43% và cá biệt vài trường hợp nặng dẫn đến nhiễm khuẩn huyết và gây tử vong rất đáng tiếc(2,3,4). Nghiên cứu này chỉ tập trung ở yếu tố thứ 3 làm gia tăng tần suất NKR và UVR ở những nước đang phát triển là “Sự tồn tại những hủ tục nuôi con, những thói quen tập quán có hại Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 3 gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ ở cộng đồng dân cư” qua các mục tiêu: 1. Xác định liên quan giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành CSRTSS của các bà mẹ. 2. Thăm dò những nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS của các bà mẹ. KHÍA CẠNH DỊCH TỄ CỦA NHIỄM TRÙNG RỐN SƠ SINH Trên thế giới, tỷ lệ NKR sơ sinh tương đối hiếm ở các nước phát triển, nhưng những trường hợp đơn lẻ và các dịch nhỏ NKR vẫn xảy ra dù việc sinh trong các bệnh viện đã được thực hiện vô trùng(29). NKR thường gặp nhiều hơn ở những nước đang phát triển(28,29). Một nghiên cứu tại BV ở Ấn Độ đã cho thấy, trong số những trẻ nhập viện do nhiễm khuẩn huyết thì 47% có nguồn lây từ rốn và trên những trẻ nhập viện 21% là do NKR(28). Theo nghiên cứu tổng quan của TCYTTG, mỗi năm độ 500.000 trẻ chết do UVR và độ 460.000 trẻ chết vì những hậu quả của nhiễm khuẩn nặng(27). Nguồn lây chính cho bệnh lý này là việc sử dụng phân bò thoa lên rốn, đây là một thực hành có nguồn gốc từ tôn giáo hay phong tục tập quán, nhất là ở Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ và những quốc gia Châu Phi như Zạre, Nigeria, Sudan(27,28,29). Ngay tại Hoa kỳ năm 1998 vẫn còn báo cáo có ca UVR tại Montana. Một nghiên cứu tại Pakistan năm 2004 cho thấy trong 3 năm đã có 125 bệnh nhi UVR. Một nghiên cứu tiền cứu trong đô thị ở Ấn Độ cho thấy tỷ lệ mới mắc của NKR là 30/1000, tỷ lệ bệnh mới mắc của NKR của sơ sinh tại bệnh viện là 2,3% ; tại nhà là 21,3% . Theo Obimbo và cộng sự, tại khoa Nhi, Trường Đại học Nairobi, Kenya trong một nghiên cứu về KT-TĐ-TH của các bà mẹ và KT của NVYT liên quan đến vấn đề CSRTSS, cho thấy các bà mẹ có KT tốt trong việc giữ vệ sinh khi cắt rốn nhưng lại không biết và TH sai việc CSRTSS sau khi sinh(24). Tại Việt Nam, một nghiên cứu năm 2000 tại quận 8 TP HCM, cho thấy bà mẹ có KT tốt, TĐ tốt trong việc CSRTSS, nhưng TH còn nhiều vướng mắc và chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ chồng, mẹ ruột(14). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu định lượng Tiêu chí chọn vào Bà mẹ đang nuôi con dưới 4 tháng; Mẹ cư trú tại Cần Giờ từ sáu tháng trở lên; Trẻ chưa từng được chẩn đoán NKR từ NVYT. Tiêu chí loại ra Bà mẹ bị chậm phát triển tâm thần hoặc có những biểu hiện bệnh lý về tâm thần kinh; Trẻ trong nhóm tuổi nghiên cứu không có mặt khi phỏng vấn viên đến phỏng vấn và đã từng được chẩn đoán là nhiễm tùng rốn bởi NVYT. Nghiên cứu định tính Tất cả các NVYT và bà mẹ được chọn vào phỏng vấn sâu có định hướng và thảo luận nhóm có trọng tâm đều tự nguyện và ký tên vào bảng thỏa thuận tham gia nghiên cứu, các NVYT đang làm việc tại TTYT Cần Giờ, các bà mẹ cư ngụ tại huyện Cần Giờ. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu định lượng (mục tiêu 1) Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu định lượng: cắt ngang, mô tả và phân tích(18,22,23). Cỡ mẫu Theo công thức tính cỡ mẫu cho mục tiêu ước lượng một tỷ lệ với sai số nhất định, với : = 0,05; do đó Z (1-/2) = 1,96, p = là tỷ lệ các bà mẹ có KT, TĐ, TH đúng, mong đạt được trong nghiên cứu. Trong 1 nghiên cứu về KT-TĐ-TH về CSRTSS của các bà mẹ tại Quận 8 năm 2000(14), tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức đúng là 0,35; thái độ hợp tác là 0,64; thực hành đúng la 0,25. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn tỷ lệ sẽ cho mẫu được chọn là lớn nhất, do đó p = 0,64. d= 0,07. Chúng tôi được n= 180, dự trù khoảng 10% các bà mẹ sẽ không trả lời đầy đủ các câu phỏng vấn, chúng tôi có cộng thêm 10% của mẫu cần thu thập, tức 18 người nữa. Vậy mẫu cần thu thập là 180 + 18 = 198, làm tròn 200. Do số bà mẹ hiện cư ngụ tại địa Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 4 phương khoảng gấp rưỡi số mẫu dự kiến nên chúng tôi quyết định phương pháp lấy mẫu toàn thể để đảm bảo tính chính xác của ước lượng và tránh các sai lầm có thể có do việc chọn mẫu không đại diện. Kỹ thuật chọn mẫu: lấy mẫu toàn thể Biến số nghiên cứu Các biến số về kiến thức, thái độ và thực hành (biến phụ thuộc) Các biến số kiến thức về CSRTSS là biến số nhị giá với hai giá trị: kiến thức đúng và kiến thức chưa đúng, bao gồm các biến kiến thức sau đây: thời gian rốn rụng; phương pháp chăm sóc rốn: giữ rốn không ướt lúc tắm trẻ (khi rốn chưa rụng), tháo băng rốn đã được NVYT quấn kín lúc rời nhà bảo sanh, không băng rốn kín (khi rốn chưa rụng), không băng rốn kín (khi rốn đã rụng), giữ rốn khô và sạch; dịch tiết tại rốn gồm dịch sinh lý, dịch bệnh và biến số kiến thức chung (thời gian rụng rốn+ chăm sóc rốn + dịch rốn). Các biến số thái đo về CSRTSS là biến số nhị giá với hai giá trị: thái độ hợp tác (đúng) hoặc không không hợp tác (chưa đúng), với việc:tháo băng rốn đã được NVYT băng kín lúc rời nhà bảo sanh; không tắm rốn đồng thời lúc tắm trẻ (khi rốn chưa rụng); giữ cuống rốn luôn khô sạch (khi rốn chưa rụng); không bôi bất kỳ dung dịch nào lên chồi rốn trẻ và biến số thái độ chung (gồm 4 thái độ về chăm sóc rốn kể trên). Các biến số thực hành về CSRTSS là biến số nhị giá với hai giá trị: thực hành đúng và thực hành chưa đúng gồm: không băng rốn; không bôi thuốc lên rốn lúc rốn chưa rụng (khi có tiết dịch sinh lý tại rốn); không bôi thuốc lên rốn lúc rốn đã rụng; giữ rốn khô khi tắm trẻ (= không tắm rốn đồng thời với tắm trẻ); lau rốn (khi rốn ướt, dùng gòn sạch hay vải sạch lau khô rốn) và biến số thực hành chung (5 thực hành chăm sóc rốn kể trên). Các biến số về đặc trưng cá nhân và xã hội (ĐTCNXH) (biến độc lập) Những biến số đặc trưng cá nhân và xã hội của bà me Tuổi: hai lớp: từ 25 tuổi trở lên; từ 24 tuổi trở xuống; nghề nghiệp: hai lớp: có nghề nghiệp; nội trợ: tức thất nghiệp; học vấn: hai lớp: từ cấp 2 trở lên; từ cấp 1 trở xuống; số con: hai nhóm: nhóm từ 2 con trở lên; nhóm chỉ có 1 con; khoảng cách sinh: hai nhóm:nhóm trên 2 năm; nhóm từ 2 năm trở xuống; nơi sinh: 2 nhóm: nhóm sinh con tại TTYT huyện, BV TP HCM; nhóm sinh con tại nhà, bệnh viện tư; kinh tế gia đình (theo phân loại của chính quyền địa phương): được chia hai nhóm: nhóm 1: từ trung bình đến giàu; nhóm 2: nghèo. Biến số đặc trưng của con: nam hoặc nữ Nghiên cứu định tính (mục tiêu 2) Thiết kế nghiên cứu: thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu để tìm hiểu những nguyên nhân ảnh hưởng đến các bà mẹ có thực hành CSRTSS chưa đúng Cỡ mẫu với thảo luận nhóm, chúng tôi có 4 nhóm cho mỗi đối tượng: 20 nhân viên y tế và 30 bà mẹ. Tổng cộng 50 người. Trong phỏng vấn sâu, chúng tôi mời 3 người của mỗi nhóm: có tất cả 24 người. Kỹ thuật chọn mẫu: Được thực hiện với 4 nhóm cho mỗi đối tượng là NVYT và bà mẹ, mỗi nhóm có từ 6-8 người. Bà mẹ được phân tầng theo tuổi, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế xã hội. NVYT được phân tầng theo trình độ chuyên môn. Để kiểm tra tính chính xác, thông tin được thu thập theo phương pháp tam giác hóa(25). Biến số nghiên cứu qua thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu. Chủ đề được thảo luận: lý do các bà mẹ thực hành chưa đúng việc CSRTSS. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ & PHÂN TÍCH DỮ LIỆU Nghiên cứu định lượng Phân tích đa biến các mối liên quan Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 5 Phân tích đa biến mối liên quan giữa TH với KT, giữa TH với TĐ bằng phương pháp hồi qui đa biến với phần mềm STATA 8.0 để tìm ... gười mẹ nuôi con khác (26/30) - Từ trước đến giờ, ai có con cũng đều chăm sóc rốn như thế, có ai làm khác đâu ? Làm như vậy là bình thường mà. - Ai nuôi con cũng đều làm rốn như vậy, ai mà dám làm khác. Lý do chăm sóc rốn trẻ sơ sinh chưa đúng thuộc về bà mẹ, được suy nghĩ là bảo vệ con Tránh xê dịch, tránh chảy máu (30/30) - Khi rốn xê dịch, va chạm, cọ sát với tã và áo sẽ dễ chảy máu rốn. Tránh nhiễm khuẩn, khí độc, bảo vệ con (30/30) - Băng rốn để che kín gió, cho sạch, không bị khí độc - Băng rốn vì nước văng vào dễ nhiễm khuẩn. - Rửa rốn cho sạch sẽ, vệ sinh, rửa rốn sau tắm cho trẻ ngủ ngon. - Rửa rốn ngay cả khi rốn đã rụng. Tránh ướt rốn (30/30) - Băng rốn cho rốn mau khô. Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 7 - Rửa rốn cho đến khi khô và lành hẳn. Rửa rốn khi trẻ tiểu ướt. - Bôi rốn làm rốn mau khô, tránh nhiễm khuẩn, mau rụng. Tránh lạnh bụng (30/30) - Băng rốn cho ấm bụng, mau lành. - Băng rốn cho mau rụng, tránh rụng rốn kéo dài. - Bôi rốn làm rốn mau khô. Ướt rốn làm sình bụng. Bà mẹ tự động làm, vì lo lắng không biết hỏi ai khi về nhà (26/30) - Bác sĩ không khuyên băng rốn nhưng vẫn băng vì sợ trẻ đau bụng. - Rửa rốn cho đến khi rốn rụng cho sạch vì nuôi con nhỏ lần đầu không biết hỏi ai - Bôi rốn bằng thuốc bôi vết thương thấy con ngủ yên, nghĩ có tác dụng giảm đau, - mau khô nên cũng tốt, không bôi rốn.. em sợ lắm, rủi ro nhiễm khuẩn thì sao. BÀN LUẬN Liên quan đa biến giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành Liên quan giữa KT với TH phân tầng theo các ĐTCNXH của các bà mẹ Qua phân tích đa biến, ảnh hưởng của “kiến thức” lên “thực hành” phân tầng theo các ĐTCNXH thì “thực hành” không bị tác động bởi yếu tố thuộc ĐTCNXH có thể do cỡ mẫu có thể chưa đủ lớn để những mối liên quan, nếu có, được cơ hội xuất hiện. Nghiên cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.(24) cho thấy các biến số sau đây là độc lập có ảnh hưởng tốt mang ý nghĩa thống kê với TH CSRTSS qua phân tích đa biến: trình độ học vấn tăng, kinh tế khá, tuổi mẹ lớn, sống trong nhà gạch chứ không trong nhà vách bùn. Nghiên cứu ở Quận 8(14) không xét đến mối liên quan này. Liên quan giữa TĐ với TH phân tầng theo các ĐTCNXH của các bà mẹ Phân tích đa biến đã chứng minh được: ảnh hưởng của “thái độ “ lên “thực hành” có ý nghĩa thống kê, nghĩa là người mẹ có “thái độ” tốt sẽ có khuynh hướng “thực hành” tốt hơn. Nghiên cứu ở Quận 8(14) không xét đến mối liên quan này. Liên quan giữa TH với TĐ ở nhóm bà mẹ nghèo Kết quả cho thấy rõ hơn nữa người mẹ có “thái độ” tốt sẽ có khuynh hướng “thực hành” tốt hơn. Tuy nhiên, ở nhóm nghèo, TĐ tốt không giúp thay đổi TH như ở nhóm có điều kiện kinh tế trung bình hay khá, TSC=8 có nghĩa là ở nhóm kinh tế khá, TĐ tốt sẽ có tác động rất tích cực và làm tăng khả năng người mẹ có TH đúng lên 8 lần. Ở nhóm kinh tế khá nếu TĐ không tốt thì TH cũng sẽ không đúng. Một lần nữa, chúng ta thấy chính TĐ hợp tác đã tác động vào TH và chính kinh tế tốt đã tác động tích cực vào việc TH đúng. Nghiên cứu ở Quận 8(14) không xét đến mối liên quan này. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS Nguyên nhân thuộc về nhân viên y tế Bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh cũng khuyên băng rốn. Bác sĩ, điều dưỡng hướng dẫn bôi thuốc. Các bà mẹ rất tin tưởng vào NVYT, do đó các bà mẹ chỉ thực hiện những gì bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh đã hướng dẫn, khuyên bảo. Nghiên cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.(24) cho thấy NVYT là người tiếp cận với bà mẹ, được bà mẹ tin tưởng và thường làm theo những gì NVYT hướng dẫn. Nghiên cứu của Pezzati M, Rossi S, Tronchin M, Dani C, Filippi L, Rubaltelli FF nhận xét rằng các bà mẹ rất cần đến sự giúp đỡ của NVYT cho đến khi rốn rụng hoàn toàn và chỉ làm theo những gì NVYT chỉ bảo. Theo Adrea Guala, Guido Pastore, Vasco Garipoli, Mario Agosti, Marco Vitali, Vianni Bona(13), NVYT là người trực tiếp hướng dẫn cách chăm sóc rốn cho các bà mẹ. Khi khuyến khích các bà mẹ để rốn khô thoáng. NVYT của BV Nhi Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 8 Wisconsin đã làm mẫu cho các bà mẹ bắt chước chăm sóc trẻ tại nhà(10). Nghiên cứu của Tammy P. McConnell; Connie W. Lee; Mary Couillard; Windsor Westbrook Sherrill(20) nhận xét mặc dù việc để rốn lành và khô tự nhiên không mất tiền, nhưng giá thành có thể gia tăng do những phong tục tạp quán xa hoa có cả sự liên quan đến NVYT, do bà mẹ làm theo những gì NVYT đã thực hiện, do đó chính NVYT phải là người thực hiện việc để rốn khô trước tiên. Khi sử dụng thuốc sát khuẩn cho trẻ, chính NVYT cũng hài lòng. Theo nghiên cứu của Lefber Y.(17) ĐD, NHS có vai trò rất quan trọng trong việc chăm sóc rốn với việc cập nhật các cách chăm sóc mới, sử dụng các chứng cứ y học dựa trên các nghiên cứu và các bà mẹ học tập được rất nhiều từ đây, nếu ĐD, NHS không cập nhật kiến thức thì sẽ hướng dẫn bà mẹ làm sai(17). Trong nghiên cứu của Vural G, Kisa S.(26), các NVYT đến tận nhà để hướng dẫn, làm mẫu cho các bà mẹ và các bà mẹ học được rất nhiều về việc CSRTSS. Tuy nhiên, cũng trong nghiên cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.(24), bà mẹ nhận thông tin từ NVYT nhưng có đến 50% NVYT có KT chưa đúng về CSRTSS sau sinh theo chuẩn mực thế giới. Do đó chúng ta thấy để bà mẹ có TH đúng, trước tiên người hướng dẫn cho bà mẹ cũng phải đúng chuẩn, vì tất cả những hành động của NVYT sẽ được bà mẹ sao chép và thực hiện tại nhà với con mình. Nguyên nhân thuộc về các người thân trong gia đình của bà mẹ Các bà mẹ đã CSRTSS là tuân theo phong tục tập quán từ lâu đời, theo truyền thống gia đình, mẹ dạy con nghe, các bà mẹ không thể có ý kiến khác với mẹ chồng khi cả hai mẹ con còn đang ở tại nhà của mẹ chồng và bà mẹ cũng yên tâm vì đã làm đúng theo tập quán xã hội từ lâu đời, như việc rắc tiêu đen xay nhuyễn vào rốn trẻ cho ấm bụng trẻ. Trong y văn đã nhắc đến các cộng đồng xa xưa, khi trẻ chào đời tại Kwazulu Natal, những người trong gia đình sẽ dùng cạnh bén của đá hay bất cứ vật gì có cạnh sắt bén để cắt cuống rốn trẻ(19). Tại Thái lan và Bangladesh, cắt rốn theo truyền thống bằng thớ vỏ tre(27). Do vật cắt rốn không vô trùng nên đã có trường hợp uốn ván rốn xảy ra. Một cách chăm sóc rốn khác được thực hiện ở vùng bắc Pakistan là quấn chặt trẻ. Trẻ được rắc phân bò đã phơi khô vào rốn và được quấn chặt trong một thời gian. Điều này cho thấy sự dễ nhiễm khuẩn của rốn sau khi cắt trong những ngày đầu sau khi sinh. Đây cũng là phong tục tập quán mà bà mẹ phải tuân theo. Hơn nữa trong một số phong tục tập quán của các quốc gia, bà mẹ và trẻ sơ sinh không thể gặp những bà đỡ đẻ, NVYT cho tới khi cuống rốn rụng hoàn toàn(16), chính vì thế người trong gia đình sẽ thay thế NVYT để CSRTSS, bà mẹ chỉ biết vâng lời tuân theo. Nguyên nhân thuộc về bà mẹ Các bà mẹ giải thích việc CSRTSS đều nhằm mục đích tránh xê dịch cuống rốn, tránh gây chảy máu, tránh nhiễm khuẩn, tránh khí độc, tránh ướt rốn, tránh lạnh bụng, tránh rụng rốn kéo dài...nhằm bảo vệ con mình. Với những hoang mang lo lắng không biết chia sẻ cùng ai khi phải chăm sóc trẻ, các bà mẹ cảm thấy bất lực và phải nghe theo ý kiến của mẹ chồng, hoặc CSRTSS theo suy nghĩ của mình, lại làm theo truyền thống, dù không phải tất cả bác sĩ hay điều dưỡng khuyên bảo như thế nhưng các bà mẹ vẫn thực hiện băng rốn, rửa rốn và bôi rốn, ngay cả việc rắc tiêu đâm nhuyễn vào rốn trẻ. Cũng có lúc các bà mẹ cảm nhận việc mình đang làm không đúng, nhưng vẫn thực hiện vì không biết hỏi ai. Trong nghiên cứu của Obimbo E, Musoke RN, Were F.(24), 79% bà mẹ sợ rốn không lành, KT-TĐ-TH không tốt thường xảy ra trên các bà mẹ trẻ, nghèo, học vấn thấp, nhận thông tin từ các nguồn không phải từ NVYT, do khó tiếp cận với NVYT để trình bày những thắc mắc trong CSRTSS. Nghiên cứu của Adrea Guala, Guido Pastore, Vasco Garipoli, Mario Agosti, Marco Vitali, Vianni Bona(13) cũng nhận thấy Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 9 các phụ huynh rất lo lắng khi rốn rụng trễ, do đó chất sát khuẩn nào làm rốn mau rụng được các bà mẹ thích sử dụng(8,26) và do vấn đề rụng rốn của trẻ mà bà mẹ phải cần nhiều lần đưa trẻ đi khám và khi tính giá thành thì phải tính cả về phương diện kinh tế lẫn cảm xúc của bà mẹ, về các tỷ lệ tử vong sơ sinh cũng như tỷ lệ mắc bệnh do nhiễm khuẩn rốn gây ra. Tóm lại, hầu hết các bà mẹ cho rằng cần phải băng rốn, bôi rốn và rửa rốn và cho đây là việc làm cần thiết nhằm bảo vệ con của mình. Các bà mẹ chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình, từ mẹ chồng mẹ ruột, nhưng ở nghiên cứu này chúng tôi cũng ghi nhận ảnh hưởng lớn hơn nữa từ các NVYT, một khi bà mẹ được cơ hội tiếp xúc. Nếu không được chia sẻ thông tin các bà mẹ sẽ tự làm theo truyền thống, trong đó có việc bôi những dung dịch không an toàn hoặc rắc tiêu đâm nhuyễn vào rốn trẻ. KẾT LUẬN 1. Qua nghiên cứu định lượng với 265 bà mẹ chúng tôi được những kết quả như sau: Liên quan giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành CSRTSS của các bà mẹ tại huyện Cần Giờ: Liên quan giữa KT và TH chịu ảnh hưởng tốt của yếu tố kinh tế. Liên quan giữa TĐ và TH cho thấy chính TĐ hợp tác đã tác động vào TH và chính kinh tế tốt đã tác động tích cực vào việc TH đúng. 2. Qua nghiên cứu định tính với 50 người gồm 20 NVYT và 30 bà mẹ chúng tôi có kết quả về ba nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS chưa đúng của bà mẹ tại Cần Giờ: 2.1 Liên quan đến nhân viên y tế: bà mẹ làm theo những gì học được từ NVYT, NVYT là chuẩn mực cho các bà mẹ bắt chước thực hành CSRTSS; 2.2 Liên quan đến các người thân trong gia đình: CSRTSS là làm theo truyền thống mẹ dạy con nghe từ bao đời nay; 2.3 Liên quan đến bà mẹ: để bảo vệ trẻ nên cần băng rốn, rửa rốn, bôi rốn. Do hoang mang lo lắng khi phải chăm sóc con, bà mẹ tự CSRTSS theo suy nghĩ của mình bất kể đúng sai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bender et al, (1994), "The focus group as a tool for Health Research: Issues in design and analysis," Health Transition Review, 4(1): pp63-80. 2. Bệnh viện Nhi Đồng1 (2004), Báo cáo tổng kết năm 2003 và phương hướng hoạt động năm 2004 của khoa Sơ sinh. 3. Bệnh viện Nhi Đồng1 (2003), khoa Phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện, Tình hình nhiễm 4. Bệnh viện Nhi Đồng1 (2003), phòng Kế hoạch tổng hợp, Tình hình bệnh tật và tử vong tại Khoa Sơ sinh. 5. Bernard HR, (1988), Unstructured and semistructured interviewing, Newbury park: Sage Publication. 6. Bruce L, (2004), Qualitative research methods for the social sciences, California, Pearson. 7. Catherine M, Gretchen B.R, (1999), Designing qualitative research, California, Sage publications. 8. Capurro H, (2007), "Routine topical umbilical cord care at birth," The WHO Reproductive Health Library. 9. Chamnanvanakij S, Decharachakul K, Rasamimaree P, (2005), "A randomized study of 3 umbilical cord care regimens at home in thai neonates: comparison of time to umbilical cord separation, parental satisfaction and bacterial colonization," J Med Assoc Thai, Jul;88(1): pp967-72. 10. Children Hospital Of Wisconsin, (2007), "Umbilical Cord Care," Health Information, webmaster@chw.org 2007 Children’s Hospital and Health System. 11. Dore S, et al, (1998), "Alcohol versus natural drying for newborn cord care," J Obstet Gynecol Nurs, Nov-Dec;27(6): pp621-7. 12. Fielding NG, Fieling JL, (1986), "Qualitative Research Method Series 4," London: Sage Publications: pp Linking data. 13. Guala A, Pastore G, Garipoli V, Agosti M, Vitali M, Bona V, (2003), "The time of umbilical core separation in healthy full- term newborns: a controlled clinical trial of different cord care practices," Eur J Pediatric, 162: pp350-351. 14. Huỳnh Thị Duy Hương (2001), “Đánh giá KT-TĐ-TH về chăm sóc rốn trẻ sơ sinh ở các bà mẹ đang nuôi con dưới 4 tháng tuổi tại quận 8 ,Thành phố Hồ Chí Minh”, Y học Thành phố HCM, tập 5, số 2, tr 92-98. 15. Jeena PM, Coovadia HM, Gouws E, (1997), "Risk factors for neonatal tetanus in Kwazulu-Natal," S Afr Med J, Jan;87(1): pp46-8. 16. JoDee M. Anderson, Alistair G.S. Philip, (2004), "Management of the umbilical core: care regimens, colonisation, infection and separation," Neoreviews, April; vol 5(N0 4): pp158-116. 17. Lefber Y, (1994), "Midwives without training, Practices and beliefs of TBAs in Africa, Asia and Latin America," Van Gorcum, Assen, Netherlands. 18. Lê Hoàng Ninh (1995), “Nghiên cứu mô tả”, Dịch tễ học cơ bản, Nhà xuất bản Y học, tr 156-180. 19. Mapata S et al, (1988), "A study comparing rooming - in with separate nursing," Paediatr Indones, May-Jun;28(5-6): pp116 - 23. 20. McConnell TP. , Lee CW., Couillard M, Sherrill WW, (2004), "Trends in Umbilical Cord Care: Scientific Evidence for Practice," Newborn & Infant Nursing Reviews, 4(4): pp211-222. 21. Mugford M et al, (1986), "Treatment of umbilical cords: a randomised trial to assess the effect of treatment methods on the work of midwives," Midwifery, Dec;2(4): pp177 - 86. 22. Nguyễn Đỗ Nguyên (1998), Nghiên cứu cắt ngang, Giáo trình Cao học. Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 10 23. Nguyễn văn Truyền (1988), “Các thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng” Dịch tễ học, Nhà xuất bản Y học. TP Hồ Chí Minh, tr 36-38 24. Obimbo E, Musoke RN, Were F, (1999), "Knowledge, attitudes and pratices of mothers and knowledge of health workers regarding care of the newborn umbilical cord," East Afr Med J, Aug;76(8): pp425-9. 25. Pranee Liamputtong, Rice and Douglas Ezzy, (2001), Qualitative Research Methods: A Health Focus, Australia, Oxford University Press. 26. Vural G, Kisa S, (2006), "Umbilical cord care: a pilot study comparing topical human milk, povidone-iodine, and dry care," J Obstet Gynecol Neonatal Nurs, 35(1): pp123-8. 27. WHO, (1999), "Care of the umbilical cord "Reproductive Health -Technical Support, Maternal and Newborn Health / Safe Motherhood"," Geneva: A Review of the evidence. 28. Zupan J, Garner P (1998), Routine topical umbilical cord care at birth, Pregnancy and childbirth module of the Cochrane database of systematic review (updated 25 February 1998), In: Nielson JB, Crowther CA, Duley L, Hodnett ED, Hofmeyr GJ (eds), Available in the Cochrane Library (database on disk and CDROM). The Cochrane Collab. Issue 2 Oxford: Update software 1998. Updated quarterly. 29. Zupan J, Garner P, (2004), "Topical umbilical cord care at birth," The Cochrane Database of Systematic Reviews,(3): ppArt. No.: CD001057.pub2. DOI: 10.1002/14651858. CD001057.pub2. Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 11 Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008 Nghieân cöùu Y hoïc Nhi Khoa 12
File đính kèm:
- cac_yeu_to_lien_quan_den_kien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_cham.pdf