Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ dùng thuốc của người cao tuổi mắc bệnh tăng huyết áp tại Quận 10 TP.HCM

Tăng huyết áp (THA) được xem là “kẻ giết người thầm lặng”, liên quan đến cái chết của hàng triệu người

hàng năm trên toàn thế giới. Việc không tuân thủ điều trị dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp luôn là một

vấn đề cần phải quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19 làm thay đổi nhiều thói quen và hành vi

của con người. Một nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên 1035 người cao tuổi được tiến hành ở Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh nhằm xác định tỉ lệ không tuân thủ điều trị dùng thuốc trong cộng đồng và các yếu tố liên

quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ không tuân thủ điều trị dùng thuốc ở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là

15,8% (KTC 95%: 13,7 – 18,2), trong đó có 2% bỏ trị. Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị là nhóm

tuổi 65-69, không bảo hiểm y tế, trị số huyết áp cao, thời gian mắc bệnh THA ngắn, không đái tháo đường đi

kèm, không có máy đo huyết áp, không tự theo dõi huyết áp và tái khám không đầy đủ.

pdf 9 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ dùng thuốc của người cao tuổi mắc bệnh tăng huyết áp tại Quận 10 TP.HCM", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ dùng thuốc của người cao tuổi mắc bệnh tăng huyết áp tại Quận 10 TP.HCM

Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ dùng thuốc của người cao tuổi mắc bệnh tăng huyết áp tại Quận 10 TP.HCM
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
180 TCNCYH 133 (9) - 2020
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KHÔNG TUÂN THỦ DÙNG 
THUỐC CỦA NGƯỜI CAO TUỔI MẮC BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP 
TẠI QUẬN 10 TP.HCM
Tô Hoàng Linh1, , Lê Hồng Hoài Linh1, Trương Hoàng Tuấn Anh1, 
Nguyễn Hùng Sang1, Trần Ngọc Đăng2, Hồ Hoàng Vũ2, Phan Thanh Xuân2
1Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, 2Đại học Y dược TP.HCM
Tăng huyết áp (THA) được xem là “kẻ giết người thầm lặng”, liên quan đến cái chết của hàng triệu người 
hàng năm trên toàn thế giới. Việc không tuân thủ điều trị dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp luôn là một 
vấn đề cần phải quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19 làm thay đổi nhiều thói quen và hành vi 
của con người. Một nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên 1035 người cao tuổi được tiến hành ở Quận 10, 
thành phố Hồ Chí Minh nhằm xác định tỉ lệ không tuân thủ điều trị dùng thuốc trong cộng đồng và các yếu tố liên 
quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ không tuân thủ điều trị dùng thuốc ở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là 
15,8% (KTC 95%: 13,7 – 18,2), trong đó có 2% bỏ trị. Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị là nhóm 
tuổi 65-69, không bảo hiểm y tế, trị số huyết áp cao, thời gian mắc bệnh THA ngắn, không đái tháo đường đi 
kèm, không có máy đo huyết áp, không tự theo dõi huyết áp và tái khám không đầy đủ.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, tăng huyết áp (THA) là một 
trong những bệnh lý diễn biến phức tạp và có 
chiều hướng ngày càng gia tăng trong cộng 
đồng. Năm 2015, theo ước tính của Hội tim 
mạch học Việt Nam, có đến 47,8% người Việt 
Nam bị mắc bệnh THA. Trong điều trị bệnh 
THA, việc kiểm soát được huyết áp mục tiêu là 
vấn đề tối quan trọng.1 Thất bại trong việc kiểm 
soát huyết áp mục tiêu sẽ dẫn tới nhiều biến 
chứng nguy hiểm, thậm chí dẫn đến tử vong 
như suy thận, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch 
máu não và một số bệnh tim mạch khác.2 Việc 
không tuân thủ điều trị liên quan với việc không 
kiểm soát được huyết áp mục tiêu. Tuy nhiên, 
kết quả nhiều nghiên cứu ở trong và ngoài 
nước đã chỉ ra tỉ lệ không tuân thủ điều trị của 
bệnh nhân THA còn cao.3,4
 Tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, theo 
kết quả quả nghiên cứu mới nhất, có 33,8% 
người trưởng thành mắc bệnh THA, trong đó, 
tỉ lệ mắc bệnh trong nhóm ≥ 60 tuổi là 66,8%.5
Bên cạnh việc chưa có dữ liệu mới về tình 
hình tuân thủ điều trị tăng huyết áp ở Quận 10, 
đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang 
thay đổi nhiều hành vi lối sống của con người, 
việc tìm hiểu về vấn đề không tuân thủ điều 
trị dùng thuốc là cấp thiết, đặc biệt trên nhóm 
người cao tuổi được ghi nhận tỉ lệ có các biến 
chứng THA là 26,25%.6 Do đó, nghiên cứu này 
được thực hiện với mục tiêu:
1. Xác định tỉ lệ người cao tuổi mắc bệnh 
THA tại Quận 10, TP.HCM không tuân thủ điều 
trị dùng thuốc hạ áp.
2. Xác định các yếu tố liên quan đến việc 
không tuân thủ điều trị dùng thuốc hạ áp của 
người cao tuổi mắc bệnh THA. 
Từ khóa: Không tuân thủ dùng thuốc, Tăng huyết áp, người cao tuổi.
Tác giả liên hệ: Tô Hoàng Linh
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Email: [email protected]
Ngày nhận: 07/09/2020
Ngày được chấp nhận: 15/09/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
181TCNCYH 133 (9) - 2020
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng 
Người cao tuổi mắc bệnh THA đang sinh 
sống tại Quận 10, TP.HCM. Nghiên cứu chọn 
vào những người ≥ 60 tuổi được chẩn đoán 
tăng huyết áp trên 1 tháng và đã loại ra những 
người không đủ khả năng trả lời bộ câu hỏi 
(không có khả năng nghe, hiểu tiếng Việt, 
không còn minh mẫn, tự trả lời các câu hỏi lưu 
loát, không thể trả lời câu hỏi nghiên cứu do 
câm điếc, tâm thần, thiểu năng trí tuệ hay tình 
trạng sức khỏe).
2. Phương pháp
Thời gian nghiên cứu: tháng 08/2020.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang 
mô tả có phân tích.
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu 
cho nghiên cứu ước tính tỉ lệ:
Với tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc là 75%,3 
d (độ chính xác tuyệt đối mong muốn) = 0,05 
(5%), Z score 95% CI = 1,96, hệ số thiết kế = 3 
và tỉ lệ mất mẫu ước tính là 10%2. Từ đó, có cỡ 
mẫu tối thiểu là 964. 
Kỹ thuật chọn mẫu: Dùng phương pháp 
chọn mẫu nhiều bậc. Bậc 1: chọn ngẫu nhiên ra 
5 phường. Bậc 2: chọn ngẫu nhiên 4 tổ dân phố 
trong mỗi khu phố trên tổng số 26 khu phố của 
5 phường. Bậc 3: Ở mỗi tổ dân phố, điều tra 
viên chọn ngẫu nhiên 1 hộ gia đình và những 
hộ gia đình liền kề phía bên tay phải. Bậc 4: Ở 
mỗi hộ gia đình, chọn tất cả các đối tượng phù 
hợp với tiêu chuẩn chọn vào, loại ra của nghiên 
cứu cho đến khi đủ 10 người. Trên thực tế, ng-
hiên cứu phỏng vấn được 1035 người cao tuổi 
mắc bệnh THA tại quận 10, TPHCM.
Biến số nghiên cứu: Biến số độc lập gồm: 
các biến số nền (tuổi, giới tính, trình độ học vấn, 
nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, có BHYT), 
các biến số về tiền sử bệnh (chỉ số huyết áp, 
thời gian mắc THA, bệnh đi kèm), các biến số 
về theo dõi điều trị (có máy đo huyết áp, có theo 
dõi huyết áp, số loại thuốc trong toa, mức độ tái 
khám đầy đủ trong dịch COVID-19 từ 2/2020 
đến 6/2020). Biến số phụ thuộc: sử dụng bộ 
câu hỏi Morisky Medication Adherence Scale 
để đánh giá tuân thủ dùng thuốc (bộ công cụ 
này có độ nhạy là 0,81 và độ tin cậy Cronbach 
α = 0,617): Câu 1-4, 6-7: mỗi câu “Không” tính 
1 điểm, “Có” tính 0 điểm. Câu 5: “Có” tính 1 
điểm, “Không” tính 0 điểm. Câu 8: “Luôn luôn 
cảm thấy vậy” tính 0 điểm, “Thường xuyên” 
tính 0 điểm, “Thỉnh thoảng” tính 0 điểm, “Gần 
như không có” tính 0 điểm và “Tuyệt đối không” 
tính 1 điểm, biến số tuân thủ điều trị dùng thuốc 
theo MMSA-8 là biến nhị giá, không tuân thủ 
(< 6 điểm), tuân thủ (≥ 6 điểm).
Công cụ thu thập số liệu: 1) Máy đo huyết 
áp điện tử được chuẩn hóa. 2) Bảng câu hỏi 
phỏng vấn gồm 4 phần: Thông tin chung, Tiền 
sử bệnh, Theo dõi điều trị, Tuân thủ dùng thuốc 
hạ áp.
Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn 
trực tiếp người cao tuổi mắc bệnh THA dựa 
trên bộ câu hỏi soạn sẵn và đo huyết áp tại thời 
điểm phỏng vấn.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epida-
ta 3.1. Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 
14.2. Thống kê mô tả: đối với biến định tính: 
mô tả bằng tần số và tỉ lệ phần trăm; đối với 
biến định lượng: mô tả bằng trung bình, độ lệch 
chuẩn hoặc trung vị và khoảng tứ vị. Thống kê 
phân tích: sử dụng phép kiểm chi bình phương 
và kiểm định t để đo lường mối liên quan giữa 
các biến độc lập và biến số tuân thủ điều trị 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
182 TCNCYH 133 (9) - 2020
viện/Trung tâm y tế Quận chiếm nhiều nhất với 
64,7%, kế tiếp là Bệnh viện đa khoa cấp thành 
phố với 23,8%, ở Trạm y tế thấp với 0,2%.
Đặc điểm bệnh lý: Tỉ lệ đạt huyết áp mục 
tiêu chỉ chiếm 38%. Về thời gian mắc bệnh 
THA, tỉ lệ mắc trên 10 năm cao nhất với 35,5%, 
tỉ lệ mắc bệnh dưới 1 năm thấp nhất, chiếm 
tỉ lệ 11,1%. Đa số đều mắc bệnh đi kèm với 
65,4%, trong đó, tỉ lệ bệnh đi kèm là đái tháo 
đường nhiều nhất với 49,8%, thứ hai là bệnh 
khớp với 44,7%, rối loạn lipid máu đứng thứ ba 
với 16,1%.
Đặc điểm theo dõi điều trị THA: Tỉ lệ có máy 
đo huyết áp chiếm đa số với 71,2%. Tỉ lệ có 
theo dõi huyết áp tại nhà là 57,5%. Tỉ lệ người 
đang không dùng thuốc hạ áp là 2%. Trong toa 
của người sử dụng thuốc hạ áp, sử dụng 2-3 
loại thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất với 39,8%, thấp 
nhất là sử dụng 1 loại thuốc với 27,1%. Trong 
dịch COVID-9 từ tháng 2 - 6/2020, số người 
không tái khám lần nào chiếm tỉ lệ 15,9% và 
tái khám không đầy đủ chiếm 11,3%. Đa phần 
các lý do không tái khám trong khoảng thời 
gian từ tháng 2 - 6/2020 là lý do liên quan đến 
COVID-19 hoặc cảm thấy huyết áp đã ổn.
dùng thuốc. Mức ý nghĩa α < 0,05 và khoảng tin 
cậy 95% được sử dụng.
4. Đạo đức nghiên cứu
Người cao tuổi mắc bệnh THA được mời 
tham gia nghiên cứu sẽ được giải thích về ý 
nghĩa của nghiên cứu và quyền được từ chối 
tham gia nghiên cứu tại bất cứ thời điểm nào. 
Nghiên cứu được thông qua hội đồng đạo đức 
trong nghiên cứu y sinh của Đại học Y dược 
TP.HCM, số quyết định: 457/HĐĐĐ-ĐHYD 
ngày 24/07/2020.
III. KẾT QUẢ
1. Mô tả đặc điểm của người cao tuổi mắc 
bệnh THA tại quận 10, TPHCM (n=1035)
Đặc điểm chung: Nhóm tuổi 60-64 chiếm tỉ 
lệ nhiều nhất với 34,3%, nhóm tuổi từ 80 trở 
lên chiếm tỉ lệ thấp nhất với 16,6%. Giới tính 
nữ chiếm đa số với 66,3%. Trình độ học vấn 
Bậc THPT chiếm tỉ lệ cao nhất với 32,9%, sau 
đó là bậc THCS 30,6%, tỉ lệ không đi học thấp 
nhất với 9%. Về nghề nghiệp hiện tại, đa số đều 
không đi làm với tỉ lệ 77,5%. Số người sống 
một mình chỉ chiếm 3,2%, còn lại 96,8% là sống 
cùng người thân và đình. Tỉ lệ sở hữu BHYT 
chiếm 97,6% và nơi đăng ký BHYT là Bệnh 
2. Tỉ lệ tuân thủ điều trị dùng thuốc hạ áp
Hình 1. Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc hạ áp (n=1035) 
Tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc hạ áp chiếm 15,8% (KTC 95%: 13,7 – 18,2). 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
183TCNCYH 133 (9) - 2020
3. Các yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị dùng thuốc hạ áp
Bảng 1. Mối liên quan giữa các đặc điểm chung với việc không tuân thủ điều trị dùng thuốc 
tại quận 10, TPHCM (n = 1035)
Đặc điểm
Tuân thủ điều trị dùng thuốc THA
PR
(KTC 95%)
Giá trị pKhông
(n = 164)
Có
(n = 871)
Giới tính
 Nam 54 (15,5) 295 (84,5) 1
 Nữ 110 (16,0) 576 (84,0) 1,04 (0,77 – 1,40) 0,230
Nhóm tuổi
 60 - 64 tuổi 48 (13,5) 307 (86,5) 1
 65 - 69 tuổi 55 (21,4) 202 (78,6) 1,58 (1,11 – 2,25) 0,011
 70 -79 tuổi 36 (14,0) 221 (86,0) 1,04 (0,69 – 1,55) 0,863
 80 tuổi trở lên 25 (15,0) 141 (85,0) 1,11 (0,71 – 1,74) 0,673
Học vấn (n=1034)
 Bậc THPT 54 (15,9) 286 (84,1) 1
 Không đi học 14 (16,9) 69 (83,1) 1,06 (0,62 – 1,82)
 Bậc tiểu học 31 (17,3) 148 (82,7) 1,09 (0,73 – 1,63)
 Bậc THCS 46 (14,5) 271 (85,5) 0,91 (0,64 – 1,31)
 Trung cấp trở lên 19 (16,4) 97 (83,6) 1,03 (0,64 – 1,67) 0,938
Nghề nghiệp
 Không đi làm 123 (15,3) 679 (84,7) 1
 Có đi làm 41 (17,6) 192 (82,4) 1,15 (0,83–1,58) 0,406
Hoàn cảnh gia đình
Sống cùng người thân 159 (15,9) 843 (84,1) 1
 Một mình 5 (15,2) 28 (84,8) 0,95 (0,42–2,17) 0,912
Bảo hiểm y tế
 Có 154 (15,3) 856 (84,7) 1
 Không 10 (40,0) 15 (60,0) 2,62 (1,59–4,33) 0,003
Người trong nhóm 65-69 tuổi có tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc hạ áp cao gấp 1,58 lần người 
trong nhóm 60-64 tuổi (KTC 95%: 1,11 – 2,25), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,02. 
Trong khi đó, tỉ lệ không tuân thủ hạ áp dùng thuốc của người trong nhóm 70-79 tuổi và từ 80 tuổi 
trở lên so với nhóm 60-64 tuổi có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Người cao 
tuổi không có BHYT có tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc hạ áp cao gấp 2,62 lần người có BHYT (KTC 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
184 TCNCYH 133 (9) - 2020
95%: 1,59 – 4,33), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa không tuân thủ điều trị dùng thuốc với yếu 
tố giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình (p > 0,05).
Bảng 2. Mối liên quan giữa các đặc điểm bệnh lý với việc không tuân thủ điều trị dùng thuốc 
của người cao tuổi mắc bệnh THA tại quận 10, TPHCM (n = 1035)
Đặc điểm
Tuân thủ điều trị dùng thuốc THA
PR
(KTC 95%)
Giá trị pKhông
(n = 164)
Có
(n = 871)
HATT (mmHg) 139,2 ± 17,0 131,1 ± 13,3 <0,001
HATTr (mmHg) 83,7 ± 9,3 79,4 ± 9,0 <0,001
Thời gian mắc bệnh THA
 Dưới 1 năm 20 (29,4) 48 (70,6) 1
 Từ 1 đến 5 năm 40 (14,6) 233 (85,4) 0,79 (0,69 – 0,91)
 Từ 5 đến 10 năm 45 (16,1) 234 (83,9) 0,63 (0,48 – 0,82)
 Trên 10 năm 45 (12,2) 323 (87,8) 0,49 (0,33 – 0,74) 0,001**
Đái tháo đường đi kèm
 Không 125 (17,6) 585 (82,4) 1
 Có 2 (6,9) 27 (93,1) 0,43 (0,11 – 1,64) 0,298*
Bệnh thận đi kèm
 Không đi làm 123 (15,3) 679 (84,7) 1
 Có đi làm 41 (17,6) 192 (82,4) 1,15 (0,83–1,58) 0,406
*Kiểm định Fisher’s exact, **Kiểm định tính khuynh hướng
Người cao tuổi không tuân thủ dùng thuốc hạ áp có huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương 
trung bình cao hơn lần lượt khoảng 8,1 và 4,3 mmHg so với nhóm tuân thủ dùng thuốc hạ áp, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Người cao tuổi có thời gian mắc bệnh THA càng 
lâu thì có tỉ lệ không tuân thủ điều trị càng giảm với thời gian mắc bệnh THA lâu thêm 1 bậc thì tỉ lệ 
không tuân thủ điều trị giảm đi 1 bậc, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Người cao 
tuổi có bệnh THA mắc kèm bệnh đái tháo đường có tỉ lệ không tuân thủ điều trị thấp hơn 0,43 lần 
người không mắc kèm bệnh đái tháo đường (KTC 95%: 0,54 – 0,97), sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,03.
Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố có bệnh thận đi kèm với việc không 
tuân thủ điều trị dùng thuốc (p > 0,05).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
185TCNCYH 133 (9) - 2020
Bảng 3. Mối liên quan giữa các yếu tố theo dõi điều trị với việc không tuân thủ điều trị dùng 
thuốc của người cao tuổi mắc bệnh THA tại quận 10, TPHCM (n = 1035)
Đặc điểm
Tuân thủ điều trị dùng thuốc THA
PR
(KTC 95%)
Giá trị pKhông
(n = 164)
Có
(n = 871)
Máy đo huyết áp
 Có 106 (14,4) 631 (85,6) 1
 Không 58 (19,5) 240 (80,5) 1,35 (1,01–1,81) 0,041
Theo dõi huyết áp 
 Có 82 (13,8) 513 (86,2) 1
 Không 82 (18,6) 358 (81,4) 1,35 (1,02–1,79) 0,035
Số loại thuốc trong toa
 ≥ 4 thuốc 42 (12,5) 294 (87,5) 1
 2 – 3 thuốc 54 (13,4) 349 (86,6) 1,07 (0,74 – 1,56)
 1 47 (17,1) 228 (82,9) 1,37 (0,93 – 2,01) 0,234
Tái khám trong COVID-19
 Đầy đủ 90 (12,0) 661 (88,0) 1
 Không đầy đủ 19 (16,2) 98 (83,8) 1,63 (1,40–1,90) <0,001
 Không tái khám 53 (32,3) 111 (67,7) 2,65 (1,96–3,60) <0,001
Người cao tuổi không có máy đo huyết áp có tỉ lệ không tuân thủ điều trị thuốc cao gấp 1,35 lần 
người có máy đo huyết áp với PR=1,35 (KTC 95%: 1,01 – 1,81), sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05. Người cao tuổi không có hành vi tự theo dõi HA có tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc 
hạ áp cao gấp 1,35 lần người có hành vi theo dõi HA với PR= 1,35 (KTC 95%: 1,02 – 1,79), sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trong dịch COVID-19 từ tháng 2/2020 đến 6/2020, người 
cao tuổi càng tái khám không đầy đủ thì tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc hạ áp càng tăng, với mức 
độ đầy đủ của tái khám giảm 1 bậc thì tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc tăng lên 1 bậc, sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số loại thuốc trong toa với việc không tuân 
thủ dùng thuốc (p=0,234).
IV. BÀN LUẬN
Theo kết quả nghiên cứu này, tỉ lệ không 
tuân thủ điều trị dùng thuốc ở nhóm đối tượng 
tham gia nghiên cứu là 15,8%. Tỉ lệ này khá 
thấp so với kết quả của các nghiên cứu khác 
trên thế giới như nghiên cứu của Haley William 
và các cộng sự sử dụng thang đo MMAS-8 
cho kết quả 61,2% người không tuân thủ dùng 
thuốc,8 nghiên cứu của tác giả Yunying Hou 
và các cộng sự thực hiện tại Trung Quốc cũng 
sử dụng thang đo MMAS-8 cho thấy có 65,8% 
người không tuân thủ dùng thuốc.9
Khi xét các yếu liên quan, về tuổi tác, ng-
hiên cứu tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
186 TCNCYH 133 (9) - 2020
kê giữa các nhóm tuổi với việc không tuân thủ 
điều trị, nhưng khi so sánh với nhóm 60-64 tuổi, 
chỉ có nhóm 65-69 tuổi có tỉ lệ không tuân thủ 
điều trị dùng thuốc cao gấp 1,58 lần (KTC 95%: 
1,11–2,25), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 
< 0,05), trong khi đó, nhóm 70-79 tuổi và nhóm 
từ 80 tuổi trở lên có tỉ lệ không tuân thủ điều trị 
dùng thuốc gấp lần lượt 1,04 lần (KTC 95%: 
0,69-1,55) và 1,11 lần (KTC 95%: 0,71-1,74) 
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê (p > 0,05). Mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa các nhóm tuổi và không tuân thủ điều trị 
dùng thuốc ở nghiên cứu này tương đồng với 
nhiều kết quả nghiên cứu khác.3,4 Người không 
có BHYT có tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc 
hạ áp cao hơn 2,62 lần người có bảo hiểm y 
tế (KTC 95%: 1,59 – 4,33), sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,01). Có thể lí do đến từ 
việc sở hữu BHYT sẽ khiến người bệnh quan 
tâm đến tình trạng sức khỏe hiện tại và đi khám 
bệnh nhiều hơn khi có sự hỗ trợ từ việc chi trả 
của BHYT, từ đó tiếp cận với y tế tốt hơn và 
tuân thủ điều trị hơn. Ngoài ra, kết quả nghiên 
cứu cho thấy có sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê giữa không tuân thủ điều trị với các 
yếu tố giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp 
và hoàn cảnh gia đình với việc không tuân thủ 
điều trị dùng thuốc (p > 0,05), khá tương đồng 
với một số kết quả nghiên cứu khác. 3,10,11
Về yếu tố đặc điểm bệnh lý, kết quả nghiên 
cứu chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa không tuân thủ điều trị dùng thuốc với chỉ 
số huyết áp hiện tại, thời gian mắc bệnh tăng 
huyết, có bệnh đái đường đi kèm (p < 0,05). Cụ 
thể, người mắc bệnh THA càng lâu thì tỉ lệ không 
tuân thủ điều trị dùng thuốc càng giảm, tương 
đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu khác.4,9 
Việc người có bệnh đái đường đi kèm có tỉ lệ 
không tuân thủ điều trị thấp hơn người không 
có bệnh đái đường kèm theo cũng tương đồng 
với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Mỹ Hạnh.9 Nhóm không tuân thủ điều trị dùng 
thuốc có huyết áp tâm thu và tâm trương cao 
hơn nhóm tuân thủ điều trị dùng thuốc lần lượt 
khoảng 8,1 và 4,3 mmHg. Điều này cho thấy 
việc không tuân thủ điều trị dùng thuốc gây khó 
khăn trong việc điều trị bệnh THA, cụ thể là làm 
giảm chỉ số huyết áp của người bệnh về mục 
tiêu điều trị. Trong một nghiên cứu công bố năm 
2011, tác giả Gianpaolo Reboldi đã chỉ ra rằng 
nguy cơ đột quỵ sẽ giảm lần lượt 13% (KTC 
95%: 5-20l; p=0,002) và 11,5% (KTC 95%: 5-17 
mmHg; p < 0,001) của mỗi 5 mmHg được giảm 
của huyết áp tâm thu và mỗi 2 mmHg được 
giảm của huyết áp tâm trương.13
Về yếu tố theo dõi điều trị, khiên cứu tìm 
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
không tuân thủ điều trị dùng thuốc với việc sở 
hữu máy đo huyết áp, có tự theo dõi huyết áp 
và tình trạng đi tái khám của người bệnh với 
việc không tuân thủ điều trị (p < 0,05). Cụ thể 
hơn, người không có máy đo huyết áp có tỉ lệ 
không tuân thủ điều trị thuốc cao gấp 1,35 lần 
người có máy đo huyết áp (KTC 95%: 1,01 – 
1,81, p < 0,05) so với nhóm không có máy đo 
huyết áp. Đồng thời, người không có hành vi tự 
theo dõi HA có tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc 
hạ áp cao gấp 1,35 lần người có hành vi theo 
dõi HA với (KTC 95%: 1,02 – 1,79, p < 0,05). 
Điều này cho thấy việc sở hữu máy đo huyết 
áp không chỉ giúp người bệnh chủ động theo 
dõi huyết áp theo lời khuyên từ bác sĩ điều trị 
mà còn giúp giảm tỉ lệ không tuân thủ điều trị 
xuống. Trong dịch COVID-19 từ tháng 2/2020 
đến 6/2020, người cao tuổi càng tái khám 
không đầy đủ thì tỉ lệ không tuân thủ dùng thuốc 
hạ áp càng tăng, với mức độ đầy đủ của tái 
khám giảm 1 bậc thì tỉ lệ không tuân thủ dùng 
thuốc tăng lên 1 bậc, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001. Ngoài ra, nghiên cứu 
không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê giữa số loại thuốc trong toa điều trị và việc 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
187TCNCYH 133 (9) - 2020
không tuân thủ điều trị (p > 0,05). Kết quả này 
tương đồng với nhiều nghiên cứu khác trên thế 
giới.8,14 Tuy nhiên, lại không tương đồng với kết 
quả của một số nghiên cứu khi cho rằng người 
bệnh sử dụng nhiều thuốc sẽ tuân thủ điều trị 
kém hơn người sử dụng ít thuốc.15,16
V. KẾT LUẬN
Tỉ lệ người cao tuổi mắc bệnh THA không 
tuân thủ điều trị dùng thuốc hạ áp là 15,8%, 
trong đó có 2% bỏ trị. Các yếu tố liên quan bao 
gồm: nhóm tuổi 65-69, BHYT, chỉ số huyết áp 
cao, thời gian mắc bệnh THA còn ngắn, không 
có đái tháo đường đi kèm, không có máy đo 
huyết áp, không theo dõi huyết áp và không tái 
khám đầy đủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Law M, et al. Lowering blood pressure to 
prevent myocardial infarction and stroke: a new 
preventive strategy. Health Technol Assess. 
2003;7(31):1-94.
2. B. M. Psaty, et al. Association between 
blood pressure level and the risk of myocardial 
infarction, stroke, and total mortality: the cardio-
vascular health study. Archives of internal med-
icine. May 14 2001;161(9):1183-1192.
3. Bùi Thị Mai Tranh, các cộng sự. Sự tuân 
thủ dùng thuốc hạ áp trên bệnh nhân cao tuổi 
tăng huyết áp. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí 
Minh. 2012;16(4):275.
4. Uchmanowicz B, et al. Self-Reported 
Medication Adherence Measured With Morisky 
Medication Adherence Scales and Its Determi-
nants in Hypertensive Patients Aged≥ 60 Years: 
A Systematic Review and Meta-Analysis. Fron-
tiers in Pharmacology. 2019;10(168):1-11.
5. Võ Thị Xuân Hạnh, các cộng sự. Tỷ lệ 
tăng huyết áp, đái tháo đường qua khảo sát 
trên mẫu đại diện cộng đồng dân cư tại quận 
nội thành thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học 
dự phòng. 2019;27(8):79.
6. Trương Hoàng Tuấn Anh. Thực trạng yêu 
cầu sử dụng dịch vụ y tế tuyến cơ sở ở người 
cao tuổi được chẩn đoán Tăng huyết áp. Thành 
phố Hồ Chí Minh, Đại học Y dược Thành phố 
Hồ Chí Minh; 2019.
7. Morisky DE, et al. Concurrent and pre-
dictive validity of a self-reported measure of 
medication adherence. Medical care. Jan 
1986;24(1):67-74.
8. Haley WE, et al. The association be-
tween Self-Reported Medication Adherence 
scores and systolic blood pressure control: 
a SPRINT baseline data study. Journal of the 
American Society of Hypertension : JASH. Nov 
2016;10(11):857-864.e852.
9. Hou Y, et al. The association between 
self-perceptions of aging and antihypertensive 
medication adherence in older Chinese adults. 
Aging clinical and experimental research. Dec 
2016;28(6):1113-1120.
10. Kim Bảo Giang, các cộng sự. Tuân thủ 
điều trị dùng thuốc ở người bệnh tăng huyết 
áp được quản lý tại bệnh viện đa khoa huyện 
Cẩm Khê, Phú Thọ năm 2015-2016. Tạp chí Y 
tế Công cộng. 2017;44:tr 30-35.
11. Lo SH, et al. Adherence to Antihyper-
tensive Medication in Older Adults With Hyper-
tension. The Journal of cardiovascular nursing. 
Jul-Aug 2016;31(4):296-303.
12. Reher D, et al. Living Alone in Later Life: 
A Global Perspective. Population and Develop-
ment Review. 2020/09/03 2018;44(3):427-454.
13. Reboldi G, et al. Effects of intensive 
blood pressure reduction on myocardial infarc-
tion and stroke in diabetes: a meta-analysis in 
73,913 patients. Journal of hypertension. Jul 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
188 TCNCYH 133 (9) - 2020
2011;29(7):1253-1269.
14. Lee GK, et al. Determinants of medica-
tion adherence to antihypertensive medications 
among a Chinese population using Morisky 
Medication Adherence Scale. PloS one. 
2013;8(4):e62775.
15. Teshome DF, et al. Medication adher-
ence and its associated factors among hyper-
tensive patients attending the Debre Tabor 
General Hospital, northwest Ethiopia. Integrat-
ed blood pressure control. 2017;10:1-7.
16. Jankowska-Polanska B, et al. Selected 
factors affecting adherence in the pharmaco-
logical treatment of arterial hypertension. Pa-
tient Prefer Adherence. 2017;11:363-371.
Summary
FACTORS ASSOCIATED WITH MEDICATION NON-ADHERENCE IN 
ELDERS WITH HYPERTENSION IN DISTRICT 10, HO CHI MINH CITY
Hypertension is referred to as a “silent killer”, related to millions of deaths over around the world 
annually. The medication non-adherence is such a problem that authorities need to deal with, 
especially in the situation of COVID-19 pandemic changing modern behaviors of people. A cross-
sectional correlational study was conducted in 1035 elders in district 10, Ho Chi Minh city with the 
aim of determining the prevalence of the medication non-adherence and factors associated with. 
The results showed that the prevalence of the medication non-adherence is 15,8% (95% CI: 13,7 – 
18,2), including 2% abandoned to hypentensive treatment. Moreover, the determinants associated 
with this issue were age, medical insurance, blood pressure, duration of hypertension, concomitant 
diabetes, blood pressure monitor, self-monitoring blood pressure and hypertension appointment 
during COVID-19.
Keywords: Medication non-adherence, Hypertension, Elders.

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_den_khong_tuan_thu_dung_thuoc_cua_nguoi.pdf